Chương 5 TẠI BAN THANH TRA KỴ BINH HỒNG QUÂN CÔNG NÔNG NGA-CHỈ HUY SƯ ĐOÀN KỴ BINH 4
BAN Thanh tra kỵ binh trong những năm này do Xê-mi-ôn Mi-khai-lô-vích Bu-đi-ôn-nưi phụ trách.
Sau khi đã đến nhiệm sở mới rồi, tôi liền đi trình diện với ban lãnh đạo tương lai. Song, X.M. Bu-đi-ôn-nưi không có mặt ở Ban Thanh tra. Người thư ký riêng của đồng chí, P.A. Bê-lốp (anh đã lừng danh trong Chiến tranh giừ nước vĩ đại), nói với tôi rằng hiện nay, thực ra Xê-mi-ôn Mi-khai-lô-vích không làm công tác thanh tra mà đang nghiên cứu, học tập trong một nhóm đặc biệt của học viện. Toàn bộ công việc do người phó thứ nhất của đồng chí, tư lệnh quân đoàn I.Đ. Cô-xô-gốp, điều khiển.
Tôi trình diện với I.Đ. Cô-xô-gốp và sau đó làm quen với những người giúp việc của đồng chí thanh tra kỵ binh là các đồng chí B.K. Véc-khốp-xki, Ph.R. Giê-mai-ti-xơ, P.P. Xa-bi-ôn-ni-cốp, I.V. Tiu-lê-nép, A.Ya. Tơ-rây-man. Đó là những cán bộ thông thạo công việc của mình.
Sau khi đã sơ bộ tìm hiểu tôi, I.Đ. Cô-xô-gốp nói rằng, tốt nhất là tôi nên theo dõi các vấn đề huấn luyện quân sự cho kỵ binh vì tôi có kha khá thực tế trong lĩnh vực này.
Khoảng gần một tháng sau, tôi đã hoàn toàn nắm được công tác mới.
Và ba tháng sau, mở hội nghị các đảng viên cộng sản trong các cơ quan thanh tra và các cục có liên quan đến công tác huấn luyện quân sự thuộc Bộ Ủy viên nhân dân phụ trách Quân đội và Hạm đội[1].
Trong hội nghị này, tôi được bầu làm bí thư Ban Chấp hành Đảng bộ, còn I-van Vla-đi-rô-vích Tiu-lê-nép được bầu làm phó bí thư.
Trong lúc phải dành khá nhiều công sức và số thời gian nhiều hơn mức quy định để làm tròn các nghĩa vụ theo chức năng của mình, những người đảng viên trong đảng bộ chúng tôi vẫn không sao lãng công tác xã hội. Chúng tôi thường hay đến nói chuyện tại các nhà máy và xí nghiệp cũng như tại các tổ chức và cơ quan dân sự. Công nhân và viên chức đã niềm nở tiếp đón những người cộng sản trong quân đội và rất hài lòng khi nghe nói chuyện, đặc biệt là khi được nghe về tình hình quốc tế và về những quyết định mới nhất của Đảng và của Chính phủ.
Cuối những năm 20 - đầu những năm 30, tình hình quốc tế trở nên căng thẳng. Người ta đã thấy hình thành rõ rệt một khối các nước đế quốc - trước hết là Đức, Nhật và Ý. Chính phủ các nước này, thực hiện ý chí của các giới độc quyền, ngày càng tích cực tìm lối thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế bằng cách chia lại thế giới một lần nữa. Năm 1931, quân đội Nhật, không hề tuyên chiến, đã tấn công Trung Quốc và chiếm đóng Mãn Châu. Đương nhiên là khi thực hiện các kế hoạch đó, bọn xâm lược Nhật cũng muốn xây dựng được một bàn đạp để tấn công vào Liên bang Xô-viết.
Tháng Giêng năm 1933, ở Đức, bọn phát-xít lên nắm chính quyền, bọn này ngay từ đầu đã thi hành đường lối nhằm giành quyền bá chủ thế giới. Hẳn là nhân dân Anh, Mỹ, Pháp lúc đó đã hoài nghi rằng, sao các lực lượng đế quốc chủ nghĩa nước họ phục vụ họ thì tồi tệ như thế mà chúng ta lại giúp Đức khôi phục nền công nghiệp nặng tích cực đến thế. Mỹ đã cung cấp 70% tổng số tín dụng dài hạn cho bọn độc quyền Đức. Sau khi Hít-le lên cầm quyền, nguồn tiền ngoại quốc đổ vào Đức lại tăng nhanh hơn.
Đức, Nhật, Ý đã chuyển nền kinh tế nước họ sang kinh tế chiến tranh. Ngân sách quân sự tăng lên đến cùng cực. Cuộc chạy đua đó đã lên đến mức làm cho sau này, trong nửa cuối những năm 30, các nước hiếu chiến ở châu Âu trên thực tế đã sẵn sàng tham gia vào một cuộc chiến tranh lớn. Lực lượng vũ trang Đức đã vượt quá con số 1 triệu người, ngoài ra còn có gần 2 triệu người trong các tổ chức phát-xít quân sự hóa. Trong trường hợp có chiến tranh, quân đội Đức có thể nhanh chóng tăng lên 5 - 6 lần. Ở Ý, trong thời bình, quân đội có 40 vạn người, nhưng trong thời chiến số này có thể dễ dàng tăng lên 5 lần nữa.
Đương nhiên là trong tình thế ấy, cần phải có những biện pháp kiên quyết để tăng cường lực lượng quốc phòng của đất nước ta. Tăng cường lực lượng không phải chỉ là về số lượng. Lực lượng vũ trang chúng ta phải vươn lên trình độ có một chất lượng mới. Nhiều biện pháp nhằm phát triển quân đội và hạm đội đã được thi hành. Khâu chủ yếu là kỹ thuật. Cấp dưỡng, trang bị đầy đủ kỹ thuật hiện đại cho các lực lượng vũ trang xô-viết - nhiệm vụ trọng đại này chỉ có thể được giải quyết bằng con đường công nghiệp hóa.
Đường lối công nghiệp hóa - phát triển toàn diện công nghiệp nặng trên cơ sở điện khí hóa, đổi mới thiết bị kỹ thuật và xây dựng lại công nghiệp, vận tải, nông nghiệp - đã được Đảng quyết định trong Đại hội XIV cuối năm 1925. Hai năm sau, Đại hội Đảng lần thứ XV đã trực tiếp ghi vào các chỉ thị xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
“Xét thấy các nước tư bản chủ nghĩa có thể vũ trang tấn công nhà nước vô sản, trong khi soạn thảo kế hoạch 5 năm, cần chú ý phát triển nhanh nhất những ngành nào trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong công nghiệp nói riêng sẽ giữ vai trò chủ yếu trong việc bảo đảm quốc phòng và ổn định nền kinh tế nước nhà trong thời gian chiến tranh”. Công việc diễn ra rất sôi nổi.
Đến đây, tôi xin nói ra ngoài đề một chút. Nói chung nhân dân thế giới đã thừa nhận rằng châu Âu được cứu thoát khỏi bệnh dịch hạch của chủ nghĩa phát-xít trước hết là do các chiến sĩ Xô-viết, vũ khí Xô-viết và việc đánh tan nước Đức Hít-le là chiến công lịch sử vĩ đại nhất của nhân dân Liên Xô. Theo tôi, chiến công này, thắng lợi này đã bắt đầu có từ lúc nhân dân Liên Xô, theo lời kêu gọi của Đảng, bắt tay vào công nghiệp hóa nước nhà.
Tôi không có trong tay những số liệu cần thiết, vả lại đây không phải là nhiệm vụ của tôi, để nêu ra toàn diện ý nghĩa của công cuộc công nghiệp hóa đối với việc phát triển nền kinh tế quốc dân, với việc nâng cao phúc lợi của nhân dân và củng cố chế độ nông trường, v..v... Còn nói về lực lượng vũ trang thì số phận của nó và kết quả của cuộc chiến đấu vì tự do và độc lập của chúng ta trong những năm Chiến tranh giữ nước vĩ đại đều trực tiếp tùy thuộc ở tốc độ công nghiệp hóa, ở chỗ có tích cực thực hiện công nghiệp hóa hay không.
Rất có thể là chúng ta hoãn lại năm bảy năm chưa phát triển thật mạnh công nghiệp nặng để công nghiệp nhẹ có thể cung cấp thật nhanh và thật nhiều hàng tiêu dùng cho nhân dân là những người rất xứng đáng được hưởng sự ưu đãi đó. Phải chăng đó không phải là một việc rất hấp dẫn? Nhưng giả sử chúng ta làm như thế, thì biết được lúc nào thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh, thời kỳ gay go nhất sẽ chấm dứt, và ở gần thành phố nào, trên các sông nào chúng ta sẽ chặn được quân phát-xít.
Đường lối của Đảng đã được lịch sử, người phán xét cuối cùng và tối cao, đánh giá là một đường lối khôn ngoan, sáng suốt cùng với phương hướng phát triển đúng đắn của đất nước và chủ nghĩa anh hùng trong lao động của nhân dân hồi bấy giờ đã đặt nền móng cho mọi thắng lợi của chúng ta trong cuộc Chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Các Đại hội XVI và XVII của Đảng, sau khi chỉ rõ nguy cơ ngày càng tăng của một cuộc chiến tranh mới, đã kiên quyết đòi hỏi phải tập trung sự quan tâm của nhân dân vào việc tăng cường sức mạnh của Hồng quân và Hạm đội. Đảng đã trực tiếp chỉ thị đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp, đặc biệt là ngành luyện kim, tăng cường thêm các nguồn dự trữ của nhà nước, xây dựng lại ngành vận tải một cách cơ bản. Đảng đã đề ra nhiệm vụ mở rộng những khả năng có thể huy động của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, xây dựng và bố trí các cơ sở công nghiệp sao cho trong trường hợp bị tấn công có thể nhanh chóng chuyển nền công nghiệp vào con đường sản xuất thời chiến và bảo đảm nó triển khai nhanh chóng theo lệnh động viên.
Trong tổ chức Đảng của chúng tôi, ngoài những đảng viên của cơ quan thanh tra kỵ binh, còn có những người cộng sản thuộc các cơ quan thanh tra bộ binh và huấn luyện xạ kích, pháo binh, bộ đội thông tin và bộ đội công binh, cục huấn luyện quân sự Hồng quân công nông và các cơ quan khác của Bộ Ủy viên nhân dân.
Chúng tôi cố gắng động viên anh em của các cục và các ban thanh tra tích cực thực hiện những yêu cầu mà Đảng, Chính phủ và đồng chí Ủy viên nhân dân đã đề ra.
Bộ Ủy viên nhân dân phụ trách Quân đội và Hạm đội và hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong cơ quan này đã đảm đương nhiệm việc lớn. Dưới đây là một số vấn đề của thời ấy.
Cuộc cải cách quân sự trong Hồng quân và Hạm đội đã được hoàn thành, trong đời sống của các lực lượng vũ trang đã có nhiều thay đổi quan trọng. Toàn bộ quá trình huấn luyện và giáo dục quân đội đã được cải thiện, kỷ luật được tăng cường, việc chỉ huy quân đội từ trên xuống dưới đã được xây dựng theo nguyên tắc một thủ trưởng, các điều kiện để bổ túc cán bộ quân sự đã có đủ. Có thể và cần phải tiến xa hơn nữa.
Giữa năm 1929, Ban Chấp hành trung ương Đảng ra quyết định “Về tình hình phòng thủ đất nước” trong đó trình bày đường lối cải tổ căn bản về kỹ thuật của lục quân, không quân và hạm đội. Hội đồng quân sự cách mạng Liên Xô và Bộ Ủy viên nhân dân phụ trách Quân đội và Hạm đội được giao nhiệm vụ làm sao trong một thời gian ngắn nhất, đi đôi với việc cải tiến số vũ khí hiện có, phải có được những mẫu vũ khí đưa ra thí nghiệm và sau đó trang bị cho quân đội hàng loạt pháo hiện đại các cỡ, các phương tiện phòng hóa chất, xe tăng và xe thiết giáp hiện đại đủ các loại, sản xuất hàng loạt máy bay và động cơ kiểu mới.
Quyết định này là nền tảng của kế hoạch 5 năm đầu tiên xây dựng quân sự. Kế hoạch này quy định nhiều việc làm trong đó có việc xây dựng những binh chủng kỹ thuật mới, việc cơ giới hóa và tổ chức lại các binh chủng cũ, việc đào tạo hàng loạt cán bộ kỹ thuật và nhiệm vụ huấn luyện cho toàn quân nắm vững kỹ thuật mới. Tháng Giêng năm 1931, Hội đồng quân sự cách mạng Liên Xô quy định lịch xây dựng Hồng quân công nông trong những năm 1931 - 1933 và thế là đã hoàn thành quá trình soạn thảo một cách khoa học kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng quân đội[2].
Do phải giải quyết nhiều nhiệm vụ công tác mới nên đã có một số thay đổi trong bộ máy quân sự ở trung ương. Nói riêng thì việc định ra chức chủ nhiệm quân giới Hồng quân công nông để lãnh đạo toàn bộ vấn đề đổi mới trang bị kỹ thuật cho quân đội đã có một ý nghĩa to lớn. Đến năm 1931, chức vụ này do I.P. U-bô-rê-vích đảm nhiệm và sau I.P. U-bô-rê-vích là M.N. Tu-kha-chép-xki. Năm 1929, trong hệ thống Bộ Ủy viên nhân dân phụ trách Quân đội và Hạm đội, thành lập cục cơ giới hóa và cơ khí hóa Hồng quân công nông. Cục này trong nhiều năm nằm dưới quyền điều khiển của những người rất thành thạo và say mê công việc sáng chế xe tăng là I.A. Kha-lép-xki và K.B. Ca-li-nốp-xki. Những phòng xe tăng và xe bọc thép cũng đã được thiết lập ở các quân khu.
Trên thực tế, cho đến năm 1929, chúng ta còn chưa có công nghiệp xe tăng và chưa đủ cán bộ thiết kế và sáng chế xe tăng. Trong khi đó, Đảng và Chính phủ đã thấy vai trò của xe tăng trong cuộc chiến tranh tương lai. Những nhiệm vụ thích ứng đã được đề ra cho cơ quan quân sự. Hội đồng quân sự cách mạng Liên Xô đã có một quyết định riêng quy định chế tạo các loại xe tăng sau đây: tăng loại nhỏ, loại vừa, loại lớn (tăng hạng nặng) và tăng lội nước; tính năng chiến đấu và kỹ thuật của các loại xe tăng này cũng đã được ấn định. Trong một thời gian ngắn nhất, các nhà thiết kế đã sáng chế ra nhiều mẫu xe tăng sản xuất trong nước. Trong thời gian 1931 - 1935 Hồng quân đã được trang bị xe tăng loại nhỏ T-27, xe tăng hạng nhẹ T-24 và T-26, xe tăng BT có bánh và xích sắt chạy nhanh, xe tăng loại vừa T-28 và rồi xe tăng hạng nặng T-35 và xe tăng lội nước T-38. Trong kế hoạch 5 năm đầu tiên, công nghiệp đã sản xuất được gần 10.000 xe tăng, xe tăng loại nhỏ và xe thiết giáp.
Cơ quan lãnh đạo quân sự Liên Xô đã tích cực chăm lo soạn thảo kế hoạch mới xây dựng không quân Hồng quân công nông. Đầu năm 1930, Hội đồng quân sự cách mạng Liên Xô đã phê chuẩn chương trình chế tạo nhiều loại máy bay của lục quân và hải quân, sản xuất khinh khí cầu, máy chụp ảnh từ trên máy bay và phụ tùng, trong đó sự quan tâm chủ yếu được dành cho máy bay ném bom và tiêm kích. Hai năm sau, những điều cơ bản về tổ chức không quân Hồng quân công nông bắt đầu được thực hiện, trong đó các vấn đề chiến lược và chiến dịch - chiến thuật đã được giải quyết xuất phát từ quan điểm bảo vệ đất nước trong trường hợp bị tấn công. Không quân ném bom tầm xa đã được tổ chức thành những binh đoàn có khả năng độc lập giải quyết các nhiệm vụ chiến dịch. Một năm sau nữa, các binh đoàn máy bay ném bom hạng nặng đã được tổ chức lại thành những quân đoàn.
Trong công tác, Ban Thanh tra kỵ binh Hồng quân công nông kết hợp chặt chẽ với cục huấn luyện quân sự Hồng quân. Ở đây lần đầu tiên tôi quen biết A-lếch-xăn-đrơ Mi-khai-lô-vích Va-xi-lép-xki và trong những năm Chiến tranh giữ nước vĩ đại, chúng tôi đã gắn bó cùng nhau công tác tại các phương diện quân với tư cách là những đại diện của Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Từ hồi này, A-lếch-xăn-đrơ Mi-khai-lô-vích đã hiểu biết rất thành thạo công việc của mình vì đã từng chỉ huy trung đoàn trong một thời gian dài và đã nghiên cứu sâu sắc đặc điểm của công tác huấn luyện quân sự. Trong cục này ai cũng rất quý trọng đồng chí. Mọi người đều biết các hoạt động có kết quả của các đồng chí lãnh đạo cục này là tư lệnh quân đoàn A.Ya. La-pin và sau đó, người kế tục đồng chí, tư lệnh tập đoàn quân hạng hai A.I. Xê-đi-a-kin.
Giữa năm 1931, Ban Chấp hành trung ương Đảng Cộng sản (b) Liên Xô đã thông qua quyết định “Về đội ngũ cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị của Hồng quân công nông”, trong đó nêu lên những thành tích và thiếu sót cơ bản trong công tác giáo dục chính trị và huấn luyện quân sự cho cán bộ quân đội. Trong quyết định này, đã đặc biệt chú ý tới việc mở rộng nội dung huấn luyện kỹ thuật, tăng cường số lượng cán bộ kỹ thuật công binh cao cấp, cải tiến công tác giáo dục chính trị trong quân đội. Đến khoảng thời gian này, chế độ chung đào tạo cán bộ chỉ huy Hồng quân công nông đã hình thành về cơ bản.
Trong các trường quân sự thông thường thì hết sức chú ý đến các trường không quân, xe tăng, xe bọc thép, pháo binh và các trường kỹ thuật. So với năm 1924, số học viên sĩ quan sơ cấp (lúc đó là gần 25.000 người) đã tăng gấp đôi. Để mở rộng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ cao cấp đã quyết định thành lập trên cơ sở các khoa của Học viện kỹ thuật quân sự các Học viện cơ khí và cơ giới, pháo binh, hóa học quân sự, kỹ thuật điện quân sự, công binh; đã xây dựng Học viện vận tải quân sự và mở rộng nhiều việc tuyển học viên vào Học viện quân sự M.V. Phơ-run-dê và Học viện quân chính. Như vậy là số lượng các trường quân sự cao cấp đã tăng lên gần gấp đôi, và số học viên đã tăng từ 3.200 người trong năm 1928 lên tới 16.000 người trong năm 1932.
Cục huấn luyện quân sự đã triển khai các hoạt động của mình, xuất phát từ các chỉ thị mới của Đảng và từ nhận thức cho rằng việc tăng cường khả năng chiến đấu của quân đội trước hết phụ thuộc vào trình độ nắm vững kỹ thuật và các hình thức phức tạp của chiến đấu hiện đại. Theo tinh thần đó, đã vạch ra và thực hiện hàng chục biện pháp có liên quan không những đến công tác đào tạo cán bộ tại các trường quân sự và tại các lớp bổ túc khác nhau mà liên quan cả đến việc huấn luyện quân sự trực tiếp trong các đơn vị.
Đến khoảng thời gian này, gần 100% số cán bộ chỉ huy đã có trình độ quân sự chuyên ngành. Đã dành 42 tiếng đồng hồ trong một tháng, chứ không phải chỉ 6 - 8 tiếng như trong năm 1929, để cho cán bộ học tập; bên cạnh việc huấn luyện chiến thuật và xạ kích, việc huấn luyện kỹ thuật bắt đầu có một vị trí quan trọng. Huấn luyện kỹ thuật được tiến hành theo chương trình tối thiểu bắt buộc về kỹ thuật cho từng binh chủng và từng loại cán bộ chỉ huy. Trong các lớp tập huấn cán bộ chủ chốt của lực lượng hậu bị cũng cho nghiên cứu kỹ thuật và vũ khí mới.
Tập thể ban thanh tra pháo binh đứng đầu là thanh tra pháo binh N.M. Rô-gốp-xki đã tiến hành một khối lượng công tác rất to lớn. N.M. Rô-gốp-xki biết rất rõ binh chủng pháo binh và rất có uy tín trong binh chủng. Các tư lệnh quân khu, các chỉ huy binh đoàn, các kỹ sư phục vụ trong pháo binh đều quý trọng N.M. Rô-gốp-xki và sẵn sàng tiếp thu ý kiến của đồng chí.
Những ai đã phụ trách các vấn đề pháo binh trong thời gian này đều phải giải quyết nhiều nhiệm vụ khó khăn. Khí tài vật chất của pháo binh đã bị mòn nhiều, đã lạc hậu nhiều về mặt chiến thuật, kỹ thuật. Tất cả những thứ đó về cơ bản đều là những thứ mà chúng tôi thừa hường được của quân đội cũ.
Nhưng ngay giữa năm 1929, Hội đồng quân sự cách mạng Liên Xô đã vạch ra kế hoạch 5 năm trang bị lại pháo cho Hồng quân công nông, tăng cường hỏa lực, sức bắn xa, bắn nhanh và bắn chính xác của vũ khí, thành lập những phòng thiết kế pháo binh lớn. Nhiều nhà máy sản xuất pháo đã được xây dựng, những nhà máy này sau đó đã cho phép tổ chức sản xuất nhiều loại pháo mới và cải tiến cùng là đạn được dùng cho các loại pháo đó; đã có những biện pháp đào tạo kỹ sư và kỹ thuật viên giỏi. Từ năm 1928 đến hết năm 1933, công suất của các nhà máy sản xuất pháo tăng hơn 6 lần, còn công suất của các nhà máy sản xuất súng cỡ nhỏ thì tăng những 35 lần.
Đến cuối thời gian công tác của tôi trong giai đoạn này, ở cơ quan Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng, chúng tôi đã bắt tay dự thảo kế hoạch 5 năm lần thứ hai xây dựng Hồng quân công nông cho những năm 1934 - 1938. Chỉ thị cơ bản của Đảng trong việc này là làm sao hoàn thành việc thiết bị lại kỹ thuật đang tiến hành và lấy kỹ thuật hiện đại để vũ trang cho quân đội. Muốn thế, phải cung cấp cho bộ đội thật nhiều phương tiện chiến đấu có giá trị quyết định như không quân, chiến xa, pháo binh, bảo đảm cho Hồng quân có khả năng đẩy lùi bọn xâm lược. Để thực hiện đường lối này, Ủy ban Lao động và Quốc phòng đã thông qua các nghị định “Về chương trình xây dựng quân đội và hạm đội trong những năm 1933 – 1938”, “Về hệ thống trang bị pháo cho Hồng quân công nông trong kế hoạch 5 năm lần thứ hai”, đã phê chuẩn kế hoạch phát triển không quân trong những năm 1935 - 1937.
Nói về Bộ Ủy viên nhân dân quốc phòng hồi đầu những năm 30, tôi không thể không nêu lên hoạt động của Ban Chấp hành Đảng bộ các cơ quan trung ương của Bộ. Đây là một cơ quan có uy tín rất lớn đã lãnh đạo các tổ chức Đảng chúng tôi một cách sáng tạo. Toàn thể các tổng cục của bộ và các ban thanh tra của Hồng quân đều công tác tích cực, sáng tạo, nội bộ hòa thuận như ruột thịt. Việc nghiên cứu lý luận Mác - Lê-nin, công tác giáo dục phổ thông và công tác văn hóa quần chúng được tiến hành rất tốt. Các cuộc họp Đảng rất sôi nổi và thấm nhuần tinh thần tự phê bình nghiêm túc.
Ban Thanh tra kỵ binh Hồng quân công nông hồi đó rất có uy tín trong các đơn vị kỵ binh, vì rằng ngoài các lần đi thanh tra, ban còn tổ chức các cuộc diễn tập cán bộ chỉ huy và cơ quan tham mưu rất bổ ích, các buổi huấn luyện dã chiến, các buổi tổng kết nghiên cứu những kinh nghiệm tiên tiến trong huấn luyện chiến đấu cho bộ đội.
Nói chung, hồi đó, các đơn vị kỵ binh của Hồng quân công nông đều đứng đầu về mặt huấn luyện quân sự và không phải là ngẫu nhiên mà những cán bộ ưu tú nhất trong đội ngũ cán bộ kỵ binh đã được điều động đến công tác trong các binh chủng mới xuất hiện, đặc biệt là binh chủng xe tăng và bộ đội cơ giới.
Theo trách nhiệm được phân công trong ban thanh tra, tôi đã tham gia soạn thảo các điều lệnh và điều lệ của nhiều binh chủng và cơ quan phục vụ quân đội.
Tôi phải nói rằng, nội dung các điều lệnh trong Hồng quân công nông rất được coi trọng. Mỗi lần soạn thảo nó là một lần củng cố các thành tựu của khoa học quân sự. Các điều lệnh đều được xây dựng trên cơ sở một nền kỹ thuật hiện đại, đều tính đến những sự thay đổi trong tính chất các hoạt động quân sự. Loại điều lệnh đầu tiên tổng kết kinh nghiệm trong Thế chiến thứ nhất và nội chiến, cùng những sự cải tổ gắn liền với cuộc cải cách quân sự, đã được đưa ra áp dụng trong bộ đội vào những năm 1924 - 1925. Phần lớn đó là những điều lệnh tạm thời: điều lệnh nội vụ, cảnh vệ, kỷ luật và xạ kích, điều lệnh công tác trên tàu chiến, điều lệnh chiến đấu của kỵ binh, pháo binh, bộ đội thiết giáp của Hồng quân công nông.
Tinh thần xuyên suốt của các bản điều lệnh ấy được phản ánh đầy đủ nhất trong điều lệnh dã chiến tạm thời của Hồng quân công nông (năm 1929), phần II (sư đoàn, quân đoàn) là yêu cầu phải coi trận chiến đấu như là trận đánh binh chủng hợp thành mà thắng lợi của nó phải dựa vào sự hiệp đồng chiến đấu của tất cả các binh chủng. Điều lệnh cũng đã nói đến cách thức sử dụng xe tăng, tổ chức phòng, chống tăng, chống máy bay và chống hóa chất, cách thức sử dụng không quân, công binh.
Giờ đây đã thi hành một loạt điều lệnh và điều lệ mới thay thế và bổ sung cho các điều lệnh của những năm 1924 - 1925. Đó là: điều lệ tạm thời về công tác ngụy trang của Hồng quân công nông, điều lệnh chiến đấu của Không quân Hồng quân công nông, điều lệnh sử dụng điện thoại - điện tín, dùng thủy lôi và những điều lệnh và điều lệ khác, v..v...
Để không quay lại chủ đề này nữa, tôi nêu lên một nhận xét và nói chung, mọi người đều đánh giá cao bản điều lệnh dã chiến tạm thời năm 1936, trong đó đã đề cập đến và giải quyết đúng những vấn đề quan trọng nhất của việc chỉ huy một trận đánh hiện đại. Nói chung, ngay hồi giữa những năm 30, Hồng quân đã có được một nền lý luận quân sự tiên tiến và vững chắc, lý luận này được khẳng định trong hệ thống những bản điều lệnh và điều lệ có chất lượng cao.
Năm 1931, A.I. Ê-gô-rốp đến phụ trách Bộ Tham mưu Hồng quân công nông. Ban thanh tra kỵ binh, theo đặc điểm hoạt động của mình, ít có liên hệ với Bộ Tham mưu Hồng quân công nông, nhưng chúng tôi biết rất rõ ràng, đa số cán bộ đều hoan nghênh quyết định bổ nhiệm A.I. Ê-gô-rốp làm Tham mưu trưởng Hồng quân công nông.
Chúng tôi cho rằng, Phó Ủy viên nhân dân thứ nhất M.N. Tu-kha-chép-xki, Tham mưu trưởng Hồng quân công nông A.I. Ê-gô-rốp và nhà lý luận quân sự tài giỏi Tham mưu phó Hồng quân công nông V.K. Tơ-ri-an-đa-phi-lốp sẽ giúp đỡ đắc lực Ủy viên nhân dân K.E Vô-rô-si-lốp.
Trong thời gian công tác tại Ban thanh tra kỵ binh, tôi may mắn được hiểu biết Mi-kha-in Ni-cô-lai-ê-vích Tu-kha-chép-xki hơn. Như đã nói, cá nhân tôi quen biết Mi-kha-in Ni-cô-lai-ê-vích ngay từ trong thời gian thanh toán cuộc nổi loạn của bọn phú nông ở An-tô-nốp năm 1921. Là một người có thân hình lực sĩ, đồng chí có một bề ngoài rất đáng yêu. Lúc đó chúng tôi đã nhận thấy rằng đồng chí không ở trong số những người nhát gan: với những phương tiện tự vệ rất ít ỏi, đồng chí đã đi khắp các khu vực có bọn thổ phỉ ẩn náu.
Bấy giờ, trên cương vị là Phó Ủy viên nhân dân quốc phòng thứ nhất, Mi-kha-in Ni-cô-lai-ê-vích Tu-kha-chép-xki đã tiến hành công tác một cách rất có tổ chức, sáng tạo và khoa học. Trong những lần tiếp xúc với đồng chí, tôi đều cảm phục nhận thấy đồng chí hiểu biết toàn diện các vấn đề khoa học quân sự. Là một quân nhân thông thạo nghề nghiệp, thông minh, học rộng, đồng chí giải đáp rất thấu đáo các vấn đề chiến thuật cũng như các vấn đề chiến lược. M.N. Tu-kha-chép-xki hiểu rõ vai trò các binh chủng của các lực lượng vũ trang chúng ta trong các cuộc chiến tranh hiện đại và rất sáng tạo khi đề cập tới bất kỳ vấn đề nào.
Mi-kha-in Ni-cô-lai-ê-vích đã xây dựng tất cả những kết luận có tính nguyên tắc của mình trong lĩnh vực chiến lược và chiến thuật dựa vào sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật ở trong và ngoài nước ta, nhấn mạnh rằng tình hình đó sẽ có ảnh hưởng quyết định đến việc xây dựng các lực lượng vũ trang và đến các phương thức tiến hành cuộc chiến tranh tương lai.
Ngay trong những năm 30, M.N. Tu-kha-chép-xki đã báo trước kẻ thù số một của chúng ta là Đức, nước này đang ra sức chuẩn bị một cuộc chiến tranh lớn và chắc chắn là trước hết nhằm chống Liên Xô. Sau này, trong những tác phẩm đã được in ra của mình, đồng chí đã nhiều lần nhấn mạnh rằng, Đức đang chuẩn bị một lực lượng tấn công mạnh bao gồm những đơn vị không quân, quân đổ bộ và cơ động nhanh, mạnh, chủ yếu là những đơn vị cơ giới và xe tăng, xe bọc thép. Đồng chí chỉ rõ, tiềm lực công nghiệp chiến tranh của Đức đang tăng lên rõ rệt và Đức có khả năng sản xuất hàng loạt máy bay chiến đấu và xe tăng.
Mùa hè năm 1931, ở trại huấn luyện của quân đoàn kỵ binh 1, tôi đã soạn thảo các dự án điều lệnh chiến đấu của kỵ binh Hồng quân công nông (phần I và phần II) với sự tham gia của trung đoàn trưởng trung đoàn kỵ binh Ni-cô-lai I-va-nô-vích Gu-xép và nhiều đồng chí khác trong sư đoàn kỵ binh 1. Mùa thu năm đó, sau khi đã được đem ra thảo luận tại ban thanh tra, các bản dự án điều lệnh này được báo cáo lên M.N. Tu-kha-chép-xki xét duyệt.
Cùng với đồng chí phó thanh tra tư lệnh quân đoàn I.Đ. Cô-xô-gốp tôi nhiều lần bảo vệ điều khoản này hay điều khoản khác trong bản điều lệnh dự thảo. Song, tôi phải thú nhận rằng chúng tôi thường bị cụt lý trước những”ý kiến phản đối xác đáng và logic của M.N. Tu-kha-chép-xki và chúng tôi phải cám ơn đồng chí vì đã đưa ra những luận điểm xuất sắc làm phong phú thêm các dự án điều lệnh của chúng tôi.
Sau khi được M.N. Tu-kha-chép-xki sửa chữa, các bản điều lệnh này đã được ban hành và các đơn vị kỵ binh đã có một tài liệu tốt để huấn luyện quân sự.
Tôi gặp Mi-kha-in Ni-cô-lai-ê-vích lần cuối cùng năm 1931 tại một cuộc họp những cá nhân tích cực của Đảng khi đồng chí đến báo cáo về tình hình quốc tế. M.N. Tu-kha-chép-xki, với một sức thuyết phục cao, đã báo cáo về sự hùng cường đang độ phát triển của nhà nước ta, về những triển vọng to lớn của nền kinh tế, khoa học, kỹ thuật xã hội chủ nghĩa của chúng ta và về sự hưng thịnh của nền văn hóa. Nói về vai trò của Đảng Bôn-sê-vích chúng ta trong sự nghiệp xây dựng nhà nước và quân đội kiểu mới, Mi-kha-in Ni-cô-lai-ê-vích đã nồng nhiệt nhắc nhở tới V.I. Lê-nin mà đồng chí đã được gặp nhiều lần và cùng công tác.
Trong cuộc họp này, Mi-kha-in Ni-cô-lai-ê-vích đã đưa ra những ý kiến trình bày trong tác phẩm chuyên khảo mà đồng chí đang viết lúc đó. Nội dung tác phẩm này là nghiên cứu những vấn đề mới về chiến tranh. Lúc ấy, tuy ít ham mê các vấn đề khoa học quân sự nhưng chúng tôi đã say sưa lắng nghe đồng chí. Người ta cảm thấy rằng M.N. Tu-kha-chép-xki là nhà tư tưởng quân sự xuất chúng, một ngôi sao loại lớn nhất trong số những nhà quân sự xuất sắc của Tổ quốc ta.
Sau này, phát biểu ý kiến trong năm 1936 tại khóa họp thứ II của Ủy ban chấp hành Liên xô, M.N. Tu-kha-chép-xki lại lưu ý nguy cơ nghiêm trọng đang đe dọa từ phía nước Đức phát-xít. Đồng chí đã củng cố bài nói rõ ràng, đầy nhiệt tình yêu nước của mình bằng một sự phân tích sâu sắc và những số liệu về tình hình vũ trang và tham vọng xâm lược của Đức.
Ban thanh tra kỵ binh đã tiến hành nhiều công tác nhằm xem xét lại việc tổ chức các đơn vị và các binh đoàn kỵ binh, hệ thống trang bị và phương pháp tiến hành chiến đấu.
Các cuộc bàn cãi rất lâu trong nội bộ Ban Thanh tra và các cuộc thảo luận tỉ mỉ với tư lệnh các binh đoàn kỵ binh đã đi đến quyết định là mỗi sư đoàn phải có trong biên chế của mình 4 trung đoàn kỵ binh, một trung đoàn cơ giới và một trung đoàn pháo. Các trung đoàn kỵ binh phải gồm 4 đại đội có vũ khí bạch binh (gươm, kiếm), một đại đội súng máy, một đại đội pháo trung đoàn, một trung đội cao xạ, một trung đội thông tin liên lạc độc lập, một trung đội công binh độc lập, một trung đội bộ đội hóa học độc lập và những cơ quan quản lý kinh tế thích ứng. Trung đoàn pháo cần có trong biên chế của mình một tiểu đoàn pháo 122 mm và một tiểu đoàn pháo 76 mm. Trung đoàn cơ giới phải được trang bị xe tăng BT-5.
Như vậy là kỵ binh của Hồng quân đã được vũ trang bằng những phương tiện kỹ thuật và hỏa lực khiến tính chất tổ chức và cách thức tiến hành chiến đấu của nó đã thay đổi rõ rệt. Lúc này, bằng phương tiện hỏa lực của bản thân và sức công kích của xe tăng, kỵ binh có thể mở đường tiến lên nhằm đánh tan kẻ địch trực diện với mình.
Những điều lệnh chiến đấu mới và hàng loạt chỉ lệnh do Ban thanh tra kỵ binh khởi thảo đều bắt nguồn từ những nguyên tắc cơ bản tiến hành một chiến dịch sâu rộng và một trận
chiến đấu thọc sâu.
Xây dựng được lý luận chiến dịch tấn công sâu rộng là một thành tựu quan trọng của nghệ thuật quân sự chúng ta. Nói chung, chiến dịch có đặc điểm là xe tăng, máy bay, pháo và quân đổ bộ đường không được sử dụng ào ạt hàng loạt, vì đã trù tính đưa các tập đoàn quân hiện đại và đầy đủ trang bị kỹ thuật vào chiến đấu. Thực chất của chiến dịch sâu rộng là như sau: Nhiệm vụ đầu tiên là phải phá vỡ chính diện của đối phương bằng cách đồng thời đột kích trên toàn bộ chiều sâu chiến thuật của chính diện đó; nhiệm vụ thứ hai là tức thời đưa bộ đội cơ giới vào đánh phá, và hiệp đồng tác chiến với không quân, tấn công vào toàn bộ chiều sâu dải phòng ngự chiến dịch của địch cho đến khi đánh bại toàn bộ cụm quân dịch.
Trong vấn đề này đã trù tính rằng, nói chung, chiến tranh sẽ do những quân đội gồm hàng triệu người tiến hành trên những khoảng không gian rộng lớn, còn thắng lợi của chiến dịch đánh thọc sâu sở dĩ bảo đảm được là do việc dùng không quân và pháo binh tập kích tiêu diệt địch trên toàn bộ chiều sâu phòng ngự của chúng cộng với những hành động kiên quyết ở bên sườn và phía sau quân địch nhằm bao vây và tiêu diệt chúng.
Nền khoa học quân sự mà các cán bộ chỉ huy của Hồng quân luôn luôn dựa vào đã thay đổi cùng với sự xuất hiện của kỹ thuật mới, vũ khí mới và những khả năng mới của đất nước và đương nhiên, cùng với trình độ khả năng chiến đấu của kẻ địch sẽ gặp phải.
Trong khi vũ trang cho quân đội những phương tiện chiến đấu hiện đại, Ban Chấp hành trung ương Đảng đã giúp cho cơ quan lãnh đạo quân sự đào sâu suy nghĩ hơn nữa về những sự thay đổi trong lĩnh vực các ngành khoa học quân sự. Nhằm mục đích đó nhiều vấn đề lớn trong chiến lược quân sự, nghệ thuật chiến dịch và trong việc vũ trang lại cho quân đội và hạm đội về mặt kỹ thuật đã được mang ra thảo luận một cách có hệ thống tại Bộ Chính trị và Tổng Hội đồng quân sự. Các tư lệnh quân khu, hạm đội không quân, theo lệ thường, đã có mặt trong các cuộc họp này. Những kết luận và chỉ thị của Hội nghị đều được phổ biến đến toàn thể cán bộ lãnh đạo của lục quân, hải quân và không quân.
Đối với chúng tôi, những người công tác tại Ban Thanh tra, việc vũ trang lại cho kỵ binh và việc làm cho các trung đoàn kỵ binh nắm vững tổ chức mới và các điều lệnh chiến đấu có một ý nghĩa đặc biệt, vì rằng lúc đó đa số các trung đoàn được bố trí trên những hướng chiến lược quan trọng nhất gần các biên giới quốc gia, tình hình đó đòi hỏi kỵ binh phải luôn luôn rất sẵn sàng chiến đấu.
Một hôm đồng chí phó thanh tra kỵ binh thứ nhất I.Đ. Cô-xô-gốp triệu tập tôi lên chỗ đồng chí và báo cho biết đề nghị bổ nhiệm tôi làm tư lệnh sư đoàn kỵ binh 4 đã được báo cáo lên K.E. Vô-rô-si-lốp xét định.
I.Đ. Cô-xô-gốp hỏi tôi có ý kiến gì đối với việc đề nghị bổ nhiệm này và công tác ở Quân khu Bê-lô-ru-xi có thích hợp với tôi không. Tôi trả lời rằng, tôi coi việc được cử làm nhiệm vụ chỉ huy một sư đoàn nổi tiếng như vậy là một vinh dự đặc biệt. Tôi hiểu rõ Quân khu Bê-lô-ru-xi vì đã công tác 10 năm trong quân khu này. Tôi quen biết đồng chí tư lệnh quân đoàn 6 Ê.I. Gô-ri-a-chép, đồng chí là một cán bộ kỵ binh rất có kinh nghiệm.
Đến đây cuộc nói chuyện với I.Đ. Cô-xô-gốp kết thúc. Lúc chia tay, đồng chí nói rằng X.M. Bu-đi-ôn-nưi sẽ còn nói chuyện với tôi nữa.
Cuộc nói chuyện này đã diễn ra sau đó vài hôm, khi lệnh bổ nhiệm tôi đã được đồng chí Ủy viên nhân dân ký rồi. Lúc chia tay, X M. Bu-đi-ôn-nưi xúc động nói:
- Sư đoàn 4 đã luôn luôn là sư đoàn ưu tú nhất của kỵ binh và nó nhất định phải là ưu tú nhất!
Tôi lấy làm hài lòng mà nêu lên rằng, những mong muốn này của Xê-mi-ôn Mi-khai-lô-vích đã thành hiện thực. Nhưng cho đến lúc sư đoàn lại vươn được lên hàng đầu thì toàn thể chúng tôi, đặc biệt là các cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị và các tổ chức Đảng, đã phải bỏ ra nhiều công sức.
Trong cuốn “Bước đường đã qua” của X.M. Bu-đi-ôn-nưi, đã nói khá chi tiết về những thắng lợi rực sỡ của sư đoàn kỵ binh 4. Tôi chỉ muốn nói về một vài ký ức riêng có liên quan tới thời gian tôi chỉ huy sư đoàn vinh quang này.
Sư đoàn kỵ binh 4 mang tên K.E. Vô-rô-si-lốp là hạt nhân của tập đoàn quân kỵ binh 1 thần kỳ. Trong những trận đánh ác liệt thời nội chiến, sư đoàn đã thể hiện tinh thần dũng cảm tuyệt vời và chủ nghĩa anh hùng tập thể.
Cho đến năm 1931, sư đoàn thuộc biên chế Quân khu Lê-nin-grát và đóng quân ở những thành phố mà trước đây, dưới chính quyền Sa hoàng, các đơn vị kỵ binh bạch vệ đã đóng (Gát-chi-na, Pê-téc-gốp, Đét-xcôi-ê Xê-lô). Cũng như trong những năm nội chiến, sư đoàn 4 vẫn là một trong những sư đoàn ưu tú của binh chủng kỵ binh chúng ta. Đội ngũ cán bộ và chiến sĩ của sư đoàn 4 thận trọng gìn giữ các truyền thống chiến đấu vinh quang của sư đoàn, đã giáo dục có kết quả cho các chiến sĩ kỵ binh trẻ tinh thần trách nhiệm cao và nghĩa vụ quân nhân.
Năm 1932, sư đoàn được điều động cấp tốc sang Quân khu Bê-lô-ru-xi, đến thành phố Xlút-xcơ. Sau này tôi được biết sở dĩ chuyển quân như vậy là theo những dự kiến đặc biệt. Tuy vậy, lúc đó không hề có lý do gì cần phải vội vã điều động sư đoàn tới một căn cứ hoàn toàn không được chuẩn bị trước như vậy. Nhấn mạnh điều này là quan trọng vì rằng, trong suốt một năm rưỡi, sư đoàn đã phải xây dựng lấy doanh trại, tàu ngựa, các nhà làm việc, nhà ở, kho tàng và toàn bộ cơ sở học tập. Kết quả là cái sư đoàn được huấn luyện rất khá này đã trở thành một đơn vị quân đội công tác tồi. Tình trạng thiếu vật liệu xây dựng, thời tiết mưa dầm và hoàn cảnh không thuận lợi khác đã không cho phép sư đoàn kịp thời chuẩn bị cho mùa đông và điều này đã tác động một cách cực kỳ nặng nề đến tình trạng chung và khả năng sẵn sàng chiến đấu của sư đoàn. Kỷ luật giảm sút, ngựa thường ốm đau luôn.
Bộ tư lệnh quân đoàn đã không thể giúp đỡ được gì cho sư đoàn vì các trung đoàn khác của quân đoàn Cô-dắc 6 cũng ở trong tình thế như vậy, cũng bị điều động vội vã đến quân khu và đến cùng một căn cứ đó.
Mùa xuân năm 1933, tư lệnh quân khu Bê-lô-ru-xi, tư lệnh tập đoàn quân hạng nhất I.P. U-bô-rê-vích, sau một thời gian ngắn đi thanh tra các đơn vị của quân đoàn, đã thấy rõ sư đoàn - lúc này đã đổi tên thành sư đoàn Cô-dắc 4 sông Đông - đang trong tình trạng cực kỳ sa sút. Cần phải vạch ra rằng, vào lúc cần thiết đồng chí tư lệnh tập đoàn quân đã không dành cho sư đoàn một sự giúp đỡ thích đáng trong các vấn đề xây dựng và không chú ý đến hoàn cảnh sinh hoạt của các trung đoàn. Bấy giờ đồng chí lại vội vã khẳng định người có lỗi chủ yếu về tình trạng không hay của sư đoàn là tư lệnh sư đoàn G.P. Clét-xkin.
Đương nhiên, tư lệnh trong chế độ một thủ trưởng là người phải chịu trách nhiệm về sư đoàn. Nhưng một cấp trên theo chức trách của mình và với tư cách là người đồng chí cao cấp hơn bắt buộc phải có tinh thần khách quan. Do bản tính nóng nảy của mình, I.P. U-bô-rê-vích đã báo cáo lên đồng chí Ủy viên nhân dân quốc phòng K.E. Vô-rô-si-lốp về tình hình sư đoàn 4 và yêu cầu cách chức ngay tư lệnh sư đoàn G.P. Clét-xkin. Đương nhiên trong sư đoàn có nhiều thiếu sót, nhưng I.P. U-bô-rê-vích dù sao đã tô đậm lên khi khẳng định rằng sư đoàn đã để mất dần toàn bộ những truyền thống tốt đẹp của mình và hiện đang không có khả năng chiến đấu.
Đối với K.E. Vô-rô-si-lốp, báo cáo của I.P. U-bô-rê-vích thật là điều cực kỳ không hay: sư đoàn mang tên đồng chí, đồng chí đã gắn bó ruột thịt với sư đoàn này nhiều năm, đã nhiều phen chiến đấu trong hàng ngũ sư đoàn này. Sư đoàn đã đào tạo được hàng loạt cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị tài ba. Đối với đồng chí thanh tra kỵ binh X.M. Bu-đi-ôn-nưi thì sư đoàn 4 cũng là đứa con thân yêu. Chính đồng chí đã tổ chức sư đoàn này và dìu dắt nó đi chiến đấu.
K.E. Vô-rô-si-lốp báo cho X.M. Bu-đi-ôn-nưi biết về những điều mà I.P. U-bô-rê-vích đã báo cáo lên, và đề nghị tìm một sư đoàn trưởng mới cho sư đoàn.
Và thế là ngày lên đường đã đến. Tôi cùng vợ và con gái lại đáp xe hỏa về Bê-lô-ru-xi quen thuộc. Tôi biết và rất yêu mến đất nước và phong cảnh Bê-lô-ru-xi có nhiều rừng, hồ, sông kỳ thú; là người thích săn bắn và đi câu, tôi rất vui mừng lại được rơi vào những địa phương tươi đẹp này. Trong thời gian công tác ở Bê-lô-ru-xi, tôi đã nghiên cứu đặc điểm của địa phương từ biên giới phía bắc đến biên giới phía nam. Điều đó về sau có ích cho tôi biết chừng nào! Nhưng chủ yếu là trong Quân khu Bê-lô-ru-xi tôi có nhiều bạn, nhiều đồng chí, đặc biệt là trong các trung đoàn và binh đoàn kỵ binh.
Thật ra, tôi hiểu biết ít về sư đoàn 4. Tôi chỉ ở sư đoàn này có một lần trong năm 1931, và trong một thời gian rất ngắn. Tôi hầu như không hiểu những con người của sư đoàn, trừ đồng chí tư lệnh G.P. Clét-xkin, đồng chí tư lệnh phó phụ trách công tác chính trị N.A. I-un-gơ, đồng chí tham mưu trưởng A.I. Véc-tô-grát-xki, đồng chí trung đoàn trưởng trung đoàn cơ giới V.V. Nô-vi-cốp và một số đồng chí cán bộ khác. Mà không hiểu biết con người, những mặt mạnh và yếu của họ, không hiểu biết những khả năng của các cán bộ phụ trách thì không thể lãnh đạo được các đơn vị, đặc biệt là không thể lãnh đạo được tập thể đông đảo các chiến sĩ.
Chúng tôi đến Xlút-xcơ vào thời kỳ mưa xuân, đường khó đi. Ở ga, đường ngập bùn và cho đến khi về đến đơn vị, vợ tôi đã nhiều lần tuột giày trong bùn. Ngồi trên vai tôi, Ê-ra, con tôi hỏi:
- Tại sao ở đây lại không có vỉa hè như ở Xô-cô-ni-ki?
Tôi trả lời:
- Ở đây cũng sẽ có vỉa hè và quảng trường đẹp, nhưng sau này thôi...
Gia đình chúng tôi phải tạm thời sống chật chội trong một buồng 8 m2 trong căn nhà của đồng chí chủ nhiệm hóa học sư đoàn V.M. Đơ-voóc-xốp. Đồng chí này mến khách đến mức là chuyển chính gia đình mình sang ở một buồng còn hẹp hơn nữa. Tất cả chúng tôi đều hiểu những khó khăn về nhà cửa và không ai đòi có chỗ ở tốt hơn, khi mà chỗ “tốt hơn” ấy chính chúng tôi chưa xây dựng được.
Nửa tiếng đồng hồ sau, tôi đã có mặt ở phòng tham mưu sư đoàn, phòng tham mưu cũng được bố trí ở ngay ngoài sân. Tư lệnh sư đoàn G.P. Clét-xkin không có mặt tại phòng tham mưu: đồng chí cho biết là không được khỏe và không thể tiếp tôi được. Tất nhiên tôi hiểu tâm trạng đồng chí và không đòi được gặp ngay lập tức.
Chính ủy sư đoàn Ni-cô-lai An-béc-tô-vích I-un-gơ và tham mưu trưởng sư đoàn A-lếch-xăn-đrơ I-va-nô-vích Véc-tô-grát-xki đã giới thiệu cặn kẽ với tôi về tình hình công việc trong sư đoàn. Tôi cảm ơn các đồng chí đã biết trình bày toàn bộ tình hình một cách nhanh chóng và đầy đủ. Song, việc chủ yếu được đặt ra cho tôi là phải trực tiếp đi xuống các đơn vị, tự mình tìm hiểu tỉ mỉ tình hình, xác định những thiếu sót, tìm ra nguyên nhân những thiếu sót đó và cùng với các cán bộ chỉ huy chính trị vạch ra những phương sách khắc phục nó.
Cũng trong ngày hôm đó, tôi đã đến trung đoàn Cô-dắc Ma-nứt-xki, trung đoàn đầu tàu, kỳ cựu nhất của sư đoàn, do Phê-đo Ya-cốp-lê-vích Cô-xten-cô, một trong những chiến sĩ Hồng quân đầu tiên, chỉ huy. Trước đấy, tôi không quen biết đồng chí, nhưng đã được nghe nói nhiều về người cán bộ chỉ huy tận tụy này, một người rất say mê binh chủng kỵ binh, không hề vắng mặt trong các cuộc thi thể dục kỵ binh rất thịnh hành lúc bấy giờ trong binh chủng.
Khi chiến tranh giữ nước vĩ đại bắt đầu, Ph.Ya. Cô- xten -cô chỉ huy tập đoàn quân 26 chịu trách nhiệm bảo vệ biên giới quốc gia của chúng ta ở U-crai-na. Dưới quyền chỉ huy của đồng chí, các trung đoàn và binh đoàn của tập đoàn quân này đã chiến đấu kiên cường đến mức là quân đội Đức phát-xít dù đã cam chịu nhiều tổn thất to lớn cũng không thể tiến sâu vào U-crai-na ngay trong những ngày đầu chiến tranh. Rất tiếc là Phê-đo Ya-cốp-lê-vích Cô-xten-cô không còn sống được đến ngày nay. Đồng chí đã hy sinh anh dũng trong một trận đánh ác liệt trên hướng Khác-cốp, khi làm phó tư lệnh Phương diện quân Tây-nam. Người con trai cả yêu quý của đồng chí, Pi-ốt cùng hy sinh với đồng chí trong trận đánh này. Pi-ốt rất đáng yêu. Mọi người còn nhớ rằng, ngay lúc còn là một chú bé, Pi-ốt đã nghiên cứu về quân sự, đặc biệt thích cưỡi ngựa và múa kiếm. Phê-đo Ya-cốp-lê-vích rất hài lòng về đứa con, hy vọng Pi-ốt sẽ trở thành một cán bộ, một ky sĩ xứng đáng, và đồng chí đã không lầm.
Sau trung đoàn Ma-nứt-xki 19, tôi đã tìm hiểu cặn kẽ các trung đoàn Cô-dắc 20, 21 và 23, trung đoàn pháo kỵ binh 4, trung đoàn cơ giới 4 và sau đó là các đại đội độc lập của sư đoàn. Trung đoàn kỵ binh 20, đóng quân tại làng Cô-nhiu-khi cách thành phố Xlút-xcơ 20 km, đang ở trong tình trạng gay go nhất. Chỉ huy trung đoàn này là Vla-đi-mia Vích-tô-rô-vích Criu-cốp, sau này Criu-cốp trong chiến tranh giữ nước đã chỉ huy quân đoàn kỵ binh và nhiều lần được biểu dương trong các mệnh lệnh của Bộ Tổng tư lệnh tối cao. Trung đoàn đóng quân ở gần biên giới quốc gia và coi như đơn vị tiền tiêu của sư đoàn.
Dù gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn, toàn bộ cán bộ và chiến sĩ của trung đoàn vẫn giữ được tinh thần hồ hởi. Ngay cả các bà vợ sĩ quan, dù phải xa rời những căn nhà êm ấm ở Lê-nin-grát, cũng không tỏ ra buồn chán. Họ chỉ phàn nàn có một điều: không có chỗ cho con cái đi học, không có trường.
Trung đoàn Cô-dắc 21 do I-van Ni-cô-lai-ê-vích Mu-dư-chen-cô chỉ huy. Tôi biết đồng chí này từ khi ở lữ đoàn kỵ binh độc lập 14, tại đây trong thời gian nội chiến đồng chí làm phụ tá của chính ủy trung đoàn. Lúc chiến tranh giữ nước bắt đầu, đồng chí chỉ huy tập đoàn quân 6 ở U-crai-na, mà cơ quan tham mưu đóng ở Lvốp. Vì nhiều nguyên nhân I.N. Mu-dư-chen-cô gặp ngay chuyện bất hạnh trong hồi đầu chiến tranh. Trong khi buộc phải rút sâu vào nội địa U-crai-na, trước sức tấn công của những lực lượng địch đông, mạnh hơn mình nhiều, đồng chí đã bị thương nặng, bị bắt làm tù binh và trong suốt thời gian chiến tranh đã bị dày vò trong các trại tù binh ở Đức
Trung đoàn Cô-dắc 21 đã gây cho chúng tôi một ấn tượng tốt hơn đôi chút về tính tổ chức, tình hình các cơ quan và trật tự chung của nó. Cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị ở đây đã tỏ rõ là có khả năng tổ chức hơn.
Trung đoàn cơ giới 4 do Va-xi-li Va-xi-li-ê-vích Nô-vi-cốp chỉ huy. Trong thời gian Chiến tranh giữ nước vĩ đại, V.V. Nô-vi-cốp chỉ huy quân đoàn rồi tập đoàn quân cơ giới và nhiều lần được nêu tên trong các mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao. V.V. Nô-vi-cốp, cán bộ kỳ cựu của tập đoàn quân kỵ binh, trong một thời gian dài đã làm trưởng ban tác chiến của sư đoàn kỵ binh 4. Chính ủy trung đoàn là đảng viên Bôn-sê-vích xuất sắc Ác-tem Xéc-gây-ê-vích Din-chen-cô, chiến sĩ kỵ binh kỳ cựu đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ của tập đoàn quân kỵ binh 1 ngay từ khi mới thành lập. Trong Chiến tranh giữ nước Ác-tem Xéc-gây-ê-vích đã làm chính ủy nhiều viện quân y lớn ở tiền phương.
Nhiều cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị, hiện nay đang đảm nhiệm những chức vụ quan trọng trong Bộ Tổng tham mưu và các Tổng cục thuộc Bộ Quốc phòng và trong các quân chủng, đã được rèn luyện trong hàng ngũ trung đoàn cơ giới 4. Xưa kia là những thanh niên công nhân và nông dân, họ đã trở thành những chuyên gia quân sự giỏi, sĩ quan cao cấp và tướng lĩnh.
Vì các đơn vị cơ giới, đặc biệt là các quân đoàn, đã giữ một vai trò xuất sắc trong những năm chiến tranh giữ nước vĩ đại và vì trong thời gian sát trước chiến tranh đã gặp những khó khăn đáng kể trong việc thành lập các quân đoàn cơ giới, nên tôi xin phép được nói vắn tắt về lịch sử xuất hiện các quân đoàn cơ giới, nhấn mạnh công đi đầu của tập đoàn quân chúng tôi trong vấn đề này.
Năm 1929, Hội đồng quân sự cách mạng Liên Xô (theo báo cáo của V.K. Tơ-ri-an-đa-phi-lốp) thông qua một quyết định trong đó có nói: “Xét thấy binh chủng mới là các lực lượng thiết giáp còn chưa được nghiên cứu đầy đủ để sử dụng trong chiến thuật (để độc lập tác chiến và phối hợp tác chiến với bộ binh và kỵ binh) và cũng chưa tìm ra được những hình thức tổ chức có lợi ích cho nó, cần phải tổ chức trong năm 1929 - 1930 một đơn vị cơ giới thường xuyên làm đơn vị thí điểm”.
Thực hiện quyết định này, ngay trong năm đó đã thành lập trung đoàn cơ giới thí điểm. Trung đoàn này, ngay trong năm 1929, đã tham gia vào các buổi huấn luyện của toàn quân ở Quân khu Bê-lô-ru-xi chúng tôi. K.E. Vô-rô-si-lốp, B.M. Sa-pô-sni-cốp và V.K. Tơ-ri-an-đa-phi-lốp đã lãnh đạo những cuộc học tập này.
Năm 1930, trung đoàn đã mở rộng thành lữ đoàn cơ giới, lữ đoàn này liền được nghiên cứu sử dụng ngay trong các buổi diễn tập của quân khu. Năm 1932, trên cơ sở lữ đoàn này đã thành lập quân đoàn cơ giới đầu tiên trên thế giới, quân đoàn gồm có 2 lữ đoàn cơ giới, 1 lữ đoàn súng máy bộ binh và một tiểu đoàn pháo cao xạ độc lập. Trong quân đoàn có 500 xe tăng và 200 ô-tô. Đến đầu năm 1936, đã xây dựng được 4 quân đoàn cơ giới, 6 lữ đoàn cơ giới độc lập và chừng ấy trung đoàn xe tăng độc lập, 15 trung đoàn cơ giới của các sư đoàn kỵ binh, hơn 80 tiểu đoàn và đại đội xe tăng trong các sư đoàn bộ binh.
Việc xây dựng và thực tế kiểm nghiệm các binh đoàn cơ giới lần đầu tiên của chúng ta đã là cơ sở tốt để phát triển hơn nữa lý luận về việc sử dụng rộng rãi binh chủng cơ giới.
Chúng tôi bắt đầu cuộc kiểm tra trung đoàn cơ giới 4 bằng một cuộc báo động chiến đấu. Tất nhiên các cấp chỉ huy không ngờ tới, vì trung đoàn vừa mới chuyển xong những đơn vị cuối cùng của mình từ Quân khu Lê-nin-grát sang. Buổi đầu làm quen với nhau, tôi đã phải nhấn mạnh với các cán bộ chỉ huy phân đội rằng, cái chủ yếu đối với trung đoàn cơ giới là biết nhanh chóng triển khai đơn vị, hiểu biết tường tận xe pháo, khí tài và nắm vững nghệ thuật bắn súng của xe tăng, xe bọc thép. Đương nhiên và đúng như đã dự kiến, cuộc báo động chiến đấu tiến hành trong một đêm mưa đã làm bộc lộ nhiều thiếu sót, đặc biệt trong việc lái xe trên địa hình không quen biết và trong môn xạ kích.
Trong khi nghiên cứu tình hình tại các trung đoàn, tôi cũng tìm hiểu cẩn thận về phòng tham mưu sư đoàn, các cán bộ chủ chốt và cán bộ chính trị.
Ở phòng tham mưu và phòng chính trị cũng có không ít khuyết điểm trong việc chỉ đạo các đơn vị trong sư đoàn. Nói riêng, việc kiểm tra quá trình huấn luyện quân sự chưa được tốt, không nghiêm khắc đối với việc thi hành mệnh lệnh. Đặc biệt chậm chạp là công tác nghiên cứu, tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến về huấn luyện quân sự. Các đơn vị đều “đèn ai nấy rạng” và đã có những trường hợp là đơn vị này phải mất rất nhiều công phu để “phát hiện ra” những phương pháp hoàn thiện hơn trong một mặt huấn luyện nào đó, trong khi đơn vị khác đã vận dụng những phương pháp ấy từ lâu rồi.
Như tôi đã nói ở trên, tham mưu trưởng sư đoàn là A-lếch-xăn-đrơ I-va-nô-vích Véc-tô-grát-xki, một cựu sĩ quan quân đội Sa hoàng rất am hiểu về quân sự. Và chủ nhiệm phòng chính trị sư đoàn là N.A. I-un-gơ một cán bộ chính trị rất có khả năng. Ít lâu sau đồng chí này đã được đề bạt lên làm phó tư lệnh phụ trách công tác chính trị của quân đoàn kỵ binh 3 và đồng chí đã đi Min-xcơ.
Tổng kết và thảo luận về tình hình trên trong các đồng chí lãnh đạo của sư đoàn, chúng tôi đi đến quyết định là trước hết cần họp các cá nhân tích cực của Đảng và nói với các đảng viên cộng sản về tất cả các mặt tích cực và tiêu cực trong sinh hoạt của sư đoàn Sau đó sẽ triệu tập một cuộc họp mở rộng của toàn thể cán bộ chủ chốt có mời các tư vụ trưởng đại đội[3] dự; các đồng chí tư vụ trưởng giữ vai trò đặc biệt lớn trong việc tổ chức toàn bộ công tác nội vụ.
Hội nghị các đồng chí tích cực của Đảng được tiến hành rất tốt. Phát biểu ý kiến tại cuộc họp này, nhiều đảng viên cộng sản đã nhấn mạnh rằng không thể tha thứ những thiếu sót hiện có, họ đã kiên quyết đấu tranh với những ai định lấy những nguyên nhân khách quan ra biện hộ cho tình trạng kỷ luật tồi và huấn luyện yếu.
Sau hội nghị các đồng chí tích cực của Đảng, đã thấy rõ rằng, sở dĩ có sự sa sút toàn diện trong tình hình sư đoàn là vì công tác chính trị và công tác huấn luyện chiến đấu không được tiến hành đúng mức. Các buổi học tập hầu như bị hoàn toàn đình trệ, vì toàn bộ lực lượng đã bị chuyển sang làm công tác xây dựng. Do đó, cần phải nhanh chóng tổ chức việc huấn luyện quân sự theo kế hoạch, triển khai đầy đủ công tác Đảng và công tác chính trị, còn các công việc thuộc phạm vi xây dựng và sinh hoạt kinh tế thì giải quyết trong những ngày dành riêng theo kế hoạch. Ngoài ra chúng tôi cũng hy vọng bộ tư lệnh quân khu sẽ giúp đỡ nhiều hơn mức giúp đỡ từ trước đến nay.
Ý kiến của Hội nghị các đồng chí tích cực của Đảng và những đề nghị của bộ tư lệnh sư đoàn đã được toàn thể hội nghị cán bộ chỉ huy và cán bộ chính trị tiếp nhận và ủng hộ nhiệt liệt.
Trong lĩnh vực huấn luyện quân sự, chúng tôi trù tính tập trung cố gắng chủ yếu vào việc rèn luyện phương pháp huấn luyện cho cán bộ tất cả các cấp. Về mặt huấn luyện chiến thuật, chúng tôi trực tiếp điều khiển một loạt buổi huấn luyện mẫu. Những buổi tập mẫu về huấn luyện xạ kích được giao cho trung đoàn 21, về kỹ thuật dùng ngựa giao cho trung đoàn 19 và riêng cho Ph.Ya. Cô-xten-cô, người am hiểu thành thạo việc này. V.V. Criu-cốp đảm nhiệm các buổi tập về đội hình và thể dục thể thao. Trung đoàn 23 được lệnh chuẩn bị và tiến hành những buổi bồi dưỡng về phương pháp đào tạo cán bộ sơ cấp, còn trung đoàn pháo kỵ binh và trung đoàn cơ giới 4 được giao phụ trách các buổi học tập về hiệp đồng của pháo và xe tăng, thiết giáp với kỵ binh trong những điều kiện chiến đấu tấn công.
Trước mắt phải giải quyết tốt nhiều vấn đề về tổ chức và phương pháp huấn luyện, vì rằng những kết quả tích cực chỉ có thể đạt được khi nào các buổi học tập được tiến hành ở một trình độ cao nhất và gây được hào hứng cho người học.
Chúng tôi đã tập trung những cố gắng chủ yếu trong huấn luyện chiến thuật vào việc huấn luyện cho từng cán bộ chỉ huy trung và cao cấp. Bằng kinh ng