Chương 29 Chuyển vào hoạt động bí mật
Tối thứ hai, ngày 14-6-1971, chúng tôi đến dự buổi chiêu đãi tại gia của Peter Edelman và Marian Wright Edelman. Nhà họ chật cứng. Người ngồi trên sàn nhà, người ngồi trên sofa với những chiếc đĩa trong lòng. Hai chủ đề chính của các cuộc hội thoại là: Hồ sơ Lầu Năm Góc tiết lộ điều gì và ai đã cung cấp tài liệu đó cho tờ Thời báo New York. Patricia và tôi lắng nghe mà không đóng góp gì nhiều.
Jim Vorenberg mải ăn uống, trong một góc phòng. Anh ta không nhìn ra chúng tôi.
Vào sáng thứ ba, kỳ ba được xuất bản. Tổng Chưởng lý John Mitchell gửi một bức thư cho Toà soạn Thời báo New York yêu cầu ngừng việc xuất bản và trao trả lại bản sao của tài liệu nghiên cứu đó. Toà soạn từ chối và buổi chiều hôm đó, Bộ Tư pháp đưa ra một đề xuất, lần đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ, về một lệnh cấm chính thức tại toà án quận cấp liên bang ở New York. Vị quan toà ban hành lệnh hạn chế tạm thời trong khi ông ta xem xét lệnh cấm chính thức. Lần đầu tiên kể từ Cách mạng, một lệnh cấm của toà án liên bang ngăn cản các nhà máy in của một tờ báo Mỹ in một câu chuyện nhiều kỳ.
Điều khoản bổ sung lần thứ nhất (First Amendment -Tuyên bố trong Hiến pháp Mỹ bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do tôn giáo và tự do hội họp), nói rằng: "Quốc hội không được ban hành luật… hạn chế quyền tự do ngôn luận hoặc tự do báo chí", là văn bản cao nhất ngăn cấm hành vi tiên chế của chính phủ liên bang và chính quyền bang đối với các phát hành báo chí và sách. Bộ Tư pháp của chính quyền Nixon đang tiến hành một thử nghiệm có tính tiên phong, yêu cầu các toà án liên bang vi phạm hoặc phót lờ Hiến pháp hoặc trên thực tế bác bỏ Điều khoản Bổ sung lần thứ nhất. Đó quả thật là sự khẳng định dũng cảm nhất trong Chiến tranh lạnh rằng "an ninh quốc gia" vượt trên các đảm bảo của hiến pháp về Tuyên ngôn nhân quyền.
Tôi nhận được một cú điện thoại từ Dunn Gifford, một người bạn của Neil Sheehan mà tôi gặp tháng trước. Khi đó ông ta nói với tôi rằng Neil đã hỏi ông, với tư cách của một cựu sĩ quan tình báo hải quân, liệu công bố những bức điện tín, dạng điện tín có trong tài liệu nghiên cứu, có làm tổn thương hệ thống mật mã của Mỹ không. Ông trả lời, một cách chính xác, là không. Với việc kể lại câu chuyện đó, ông ngầm lưu ý rằng tôi nên biết Neil có những nguyên tắc riêng với tư cách là một nhà báo, không phải hành động theo cách nghĩ của tôi.
Trong cuộc điện thoại sáng thứ ba, Gifford nhắc lại cảnh báo trước đó bằng cách giục tôi cung cấp hồ sơ cho tờ Bưu điện Washington, khi mà hiện nay, Thời báo New York bị cấm không được tiếp tục xuất bản. Ý tưởng này chưa từng xuất hiện trong đầu tôi, và câu trả lời tức thì của tôi là: "Tôi sẽ không làm như vậy". Ngay buổi tối hôm thứ bảy, khi đọc kỳ đầu câu chuyện đăng trên tờ Thời báo New York, tôi không còn bực tức Neil và Toà soạn vì đã không thông báo gì cho tôi trong vòng ba tháng. Khi nhìn cách họ đã xử lý vấn đề và ảnh hưởng mà họ có được, tôi không cảm thấy gì khác ngoài sự hài lòng với những gì họ đã làm. Tôi ý thức được nghĩa vụ đối với Neil và tờ Thời báo, dù rằng họ quyết định giữ khoảng cách với tôi.
Dường như chắc chắn rằng Neil hay tờ Thời báo New York, hoặc cả hai, sẽ đoạt giải Pulitzer, mà họ xứng đáng nhận được.
Đối với tôi việc cung cấp tài liệu này cho tờ Bưu điện Washington có thể phá hoại khả năng đó hoặc là buộc họ phải chia sẻ giải thưởng này. Cũng có thể Thời báo New York sẽ mất đi động lực để tiếp tục xuất bản, với thời gian đã ấn định, khi các phần khác của tài liệu đã được công bố đâu đó.
Neil và tôi chưa bao giờ thảo luận về quyền độc quyền công bố câu chuyện của tờ Thời báo, nhưng tôi tin chắc rằng những nhà biên tập sẽ yêu cầu quyền đó khi họ đáp ứng điều kiện của tôi để cung cấp tài liệu này cho họ. Tôi chấp nhận điều đó Neil có thể không chắc chắn rằng tôi sẽ tuân theo một thoả thuận như vậy. Dường như, động lực chính hay sự tính toán chủ yếu thúc đẩy tờ Thời báo công bố hồ sơ, bất chấp sự khích lệ của các luật sư, là mối lo ngại, đặc biệt từ phía Neil, rằng nếu không làm như vậy, tôi sẽ đi nơi khác. Trong trường hợp đó, họ sẽ bị tờ Bưu điện "nẫng tay trên". Thật là ngớ ngẩn khi ông ta đưa ra khả năng đó khi giả bộ rằng vị thế tờ Thời báo chưa chắc chắn. Nhưng trên thực tế, kể từ khi nói chuyện với Neil, tôi chưa bao giờ nghĩ tới việc nói cho một tờ báo khác về tài liệu đó. Và tôi trả lời Giford rằng tôi trung thành với Neil, và tôi không thể phản bội lòng trung thành của mình bằng cách cung cấp "tin sốt dẻo" của họ cho tờ Bưu điện Washington.
Gifford chỉ ra rằng mối nguy hiểm ở đây còn lớn hơn danh tiếng mà tờ Thời báo hay Neil có được. Ông tin rằng cần phải tiếp tục đà này, duy trì sự quan tâm liên tục của công luận với nội dung của hồ sơ. Không ai có thể biết đến bao giờ tờ Thời báo nối lại việc xuất bản. Chúng ta thậm chí không biết rõ điều lệnh cấm có bị từ chối thực hiện hay không. Sự tiết lộ có thể chấm dứt ở đây, trừ phi các tờ báo khác sẵn sàng nắm lấy ngọn cờ, dám thách thức Bộ Tư pháp và chính quyền.
Lập luận của ông đầy thuyết phục. Tôi buộc phải nghĩ đến khả năng này, mặc dù tôi luôn cảm thấy khó chịu với việc qua mặt Neil và tờ Thời báo. Cam kết và nguy cơ họ sẽ phải gánh chịu trong việc quyết định công bố tài liệu đã rõ ràng. Xem xét lệnh cấm "vô tiền khoáng hậu" đó, khả năng họ bị truy tố hình sự là không nhỏ. (Trên thực tế, Bộ Tư pháp đang ráo riết chuẩn bị xử lý vụ việc này, dự định ngay sau phiên toà xét xử tôi). Có thể Neil và tờ Thời báo đã không đối xử với tôi như một đối tác, nhưng tôi khâm phục sự can đảm của họ, biết ơn họ với tư cách là một công dân và một nhà hoạt động.
Mặt khác, tôi phải suy nghĩ nghiêm túc lời cảnh báo của Gifford rằng toàn bộ tiến trình sẽ bị dừng lại vĩnh viễn trừ phi tôi thúc đẩy nó. Nhờ có quyết định của chính quyền coi vụ việc này như một cuộc khủng hoảng tầm cỡ quốc gia để biện minh cho các nỗ lực kiểm duyệt báo chí "vô tiền khoáng hậu", nội dung của tập hồ sơ đã thu hút được sự chú ý với mức độ đáng ngạc nhiên từ phía dư luận. Độc giả của các tờ báo mong muốn tìm hiểu diễn biến nào khiến cho chính quyền hoảng sợ và buộc phải mạnh tay như vậy. Tôi luôn tin rằng, tác động tổng thể của câu chuyện này phụ thuộc vào phạm vi lịch sử được phơi bày. Tác động mạnh mẽ không phải từ sự tiết lộ bí mật của bất kỳ trang giấy nào, một tập hồ sơ nào hay một cá nhân nào. Điều gây choáng váng tột bực là sự ngoan cố và bản chất của các hình mẫu lừa lọc, liều lĩnh và chủ nghĩa hoài nghi.
Công bố điều đó với bất kỳ một độc giả nào hoặc cả đất nước, độ dư chấn sẽ mạnh hơn rất nhiều.
Ba kỳ đầu công bố trên tờ Thời báo đề cập đến chính quyền Johnson nhưng một đoạn "châm biếm" trong bài báo ngày thứ ba cho thấy bài báo kỳ tới sẽ tập trung vào Eishenhower. Tôi không muốn tiến trình lịch sử sẽ bị cắt cụt ở đây. Càng cân nhắc về khả năng này, đề nghị của Gifford càng lôi cuốn tôi. Tờ Thời báo đã xem xét việc in ấn nhật báo sáng thứ tư với một loạt các trang trắng thay vì cho đăng kỳ tới của câu chuyện như kế hoạch. Khoảng trống không chữ với nguyên nhân là lệnh cấm của chính phủ có thể là trường hợp đầu tiên trong lịch sử báo chí Mỹ. Và người ta cũng mong đợi, đây sẽ là trường hợp cuối cùng. Nhưng cuối cùng, tờ Thời báo lại đăng những câu chuyện khác thế vào chỗ trống. Nhiều mẩu tin và bài phân tích được đăng để lấp chỗ trống, bởi vì lệnh cấm gây ra một trong hai vụ vi hiến lớn nhất trong hai thế kỷ trở lại đây. Đài truyền hình, trước kia hầu như phớt lờ kỳ đầu không mấy tiếng vang hôm chủ nhật, thì nay dành ít nhất là 15 phút trong tổng số 30 phút của chương trình thời sự trong nước hàng đêm trên một trong ba kênh chính thức để nói về Hồ sơ Lầu Năm Góc và các vụ kiện tụng tại toà án.
Đêm khuya ngày thứ ba, ai đó từ Toà soạn của Tuần tin tức gọi điện cho tôi để sắp xếp cuộc gặp với một nhóm các biên tập viên vào buổi sáng hôm sau. Tôi ra ngoài Quảng trường Harvard dùng bữa sáng cùng với Lloyd Norman, một phóng viên của tạp chí Tin tức Lầu Năm Góc mà tôi đã quen biết nhiều năm, và Joel Blocker, một biên tập viên cao cấp. Họ bắt đầu câu chuyện bằng cách thông báo cho tôi biết bài trên trang nhất trong số tạp chí tuần tới sẽ là việc công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc và họ dự định nói rõ tôi là nguồn gốc của tài liệu đó. Tôi nói: "Tôi không dự định bình luận về người cung cấp thông tin đó. Tôi sẽ bình luận tất cả những gì các ông muốn về nội dung của tập hồ sơ này và ý nghĩa của nó theo cách nghĩ của tôi. Tôi tiếp cận được với toàn bộ nghiên cứu này, và tôi đã đọc từ đầu đến cuối".
Blocker nói: "Chúng tôi tin rằng ông chính là người phát tán tài liệu đó nhưng chúng tôi tiến hành trừ phi ông sẵn sàng khẳng định điều này".
Tôi trả lời rằng tôi không đoán này đoán nọ về điều đó, nhưng với tư cách là một người tham gia thực hiện nghiên cứu và một người am hiểu về nó, tôi chắc chắn rằng việc xuất bản tài liệu này là một điều tốt. Công chúng cần và xứng đáng được biết mọi điều trong công trình nghiên cứu đó. Tương tự như vậy, Quốc hội cũng phải được biết. Theo ý kiến của tôi, bằng cách nào đó, tất cả nội dung của công trình nghiên cứu cần phải được công bố. Điều đó không có gì tổn hại mà chỉ có lợi cho an ninh quốc gia. Tôi sẵn lòng viết bài về các chi tiết trong nội dung, với độ dài bất kỳ tuỳ ý.
Blocker tiếp lời: "Này, vấn đề là sẽ không có bài báo trên trang bìa trừ phi chúng tôi có sự khẳng định của ông về nguồn gốc của tài liệu".
"Tệ thật. Nếu đúng là như vậy, các ông đang mất một bài báo có tiếng vang lớn về nội dung của hồ sơ đó".
Chúng tôi nói chuyện hơn ba giờ đồng hồ, kết thúc trong văn phòng của tôi ở MIT. Trong bài tường thuật của Blocker về cuộc phỏng vấn (ra ngày 21 tháng sáu), ông ta nói rằng: tôi (tác giả) "đã thẳng thừng từ chối bình luận về liệu có phải ông (tác giả) đã cung cấp những tài liệu mật cho tờ Thời báo".
Blocker trích nguyên văn lời của tôi: "Tôi rất mừng khi hồ sơ này được công bố… Tôi mong muốn Quốc hội và công chúng có thể tiếp cận tư liệu này hai hoặc ba năm về trước. Những văn bản này chứng tỏ các trợ lý của Tổng thống và các quan chức khác trên thực tế đã được cho phép nói dối công chúng. Nhưng bây giờ, những người chịu trách nhiệm về sự leo thang của cuộc chiến phải chịu trách nhiệm về những văn bản mà họ đã ký".
Blocker tường thuật lại những gì tôi kể cho họ nghe về nỗ lực vô vọng của tôi khi tìm cách để các quan chức cao cấp của chính quyền như Henry Kissinger và trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao Irwin đọc hồ sơ này, hay ít nhất là xem qua những bản tóm tắt. Mặc dù không có gợi ý của tôi, nhưng tờ Tuần tin tức sau đó phỏng vấn John Holum, trợ tá lập pháp của Thượng nghị sỹ McGovern, và Pete McCloskey. Hai người này cho biết tôi đã đề nghị cung cấp cho họ những văn bản mật.
Holum tường thuật lại: "Ông ta (tác giả) nói ông ta sẽ công bố chúng cho dù ông ta sẽ bị tống vào tù". (Đây là lời lẽ từ văn phòng Thượng nghị sỹ được đăng trong số báo hơn một tuần trước khi tôi bị buộc tội, mặc dù họ đã hứa là không tiết lộ tên của tôi). "Theo lời khuyên (của Holum), McGovernd đã từ chối lời đề nghị".
Tuy nhiên, bất chấp sự đề nghị thiết tha từ phía tôi, các biên tập viên Tuần tin tức không muốn tường thuật quan điểm của tôi về nội dung của tài liệu hay là về cuộc chiến. "Ellsberg, 40 tuổi, chứng tỏ là một kẻ ba hoa tột độ, và nói năng bừa bãi… Với một quyết tâm gần như một nỗi ám ảnh, Ellsberg nói đi nói lại về những tác động tích cực của việc công bố các văn bản đó. Ông ta nói, những tài liệu đó là những gì tốt nhất mà chúng ta có - một xuất phát điểm tốt để hiểu biết thật sự về cuộc chiến, có giá trị như những hồ sơ về tội ác chiến tranh tại Nuremberg".
Họ không hài lòng việc chúng tôi bỏ đi. Nhưng tôi không muốn đưa ra lời khẳng định mà họ cần tại thời điểm đó. Cho đến lúc này, chưa có dấu hiệu nào cho thấy Bộ Tư pháp sẽ quyết định truy tố hình sự. Tôi không ngạc nhiên rằng tờ Tuần tin tức nhanh chóng biết được rằng tôi là nguồn gốc của tài liệu đó. Dòng cuối cùng của bài báo về cuộc phỏng vấn ghi lại, tôi vừa cười vừa nói rằng: "Tôi lấy làm hãnh diện trở thành kẻ bị tình nghi là đã tuồn tài liệu này ra ngoài". Và tôi biết chắc rằng Bộ Tư pháp nghi ngờ ít nhiều từ câu nói này. Nhưng tôi đã quyết định không kích động chính quyền đi đến một quyết định khởi tố hình sự chưa từng có trong lịch sử bằng cách công khai chỉ trích, nếu chính quyền kiềm chế trong việc buộc tội tôi. Bài báo trên trang bìa có thể tạo nên hiệu quả thông tin tốt.
Chỉ có Chúa mới biết tại sao tờ Thời báo không hỏi ý kiến của tôi về bất cứ điều gì nhưng tôi không nghĩ rằng đóng góp của tôi là cần thiết. Hàng nghìn trang tài liệu có thể tự nói - khi mà chúng được công bố. Và cuối cùng, như tôi từng hy vọng, tờ Tuần tin tức đã đăng một bài báo trên trang bìa, không phải về tôi, mà về "Lịch sử bí mật của Việt Nam" (Ngày 28-6-1971, số trước ra ngày 21-6).
Ngay khi Blocker và Norman rời khỏi, tôi gọi điện thoại bằng thẻ trả trước của mình và, thông qua một người bạn, liên lạc với Ben Bagdikian của tờ Bưu điện Washington. Bagdikian đã rời Rand, quay trở lại tờ Bưu điện Washington năm ngoái với tư cách một biên tập viên. Tôi chắc rằng ông ta đang xoay xở tìm kiếm một mẩu của hồ sơ. Tôi đã đoán chính xác rằng ông ta nghi ngờ tôi chính là người phát tán những tài liệu đó và có lẽ đang tìm tôi. Nhưng tôi không thể gọi điện thoại cho ông ta từ nhà của mình. Thông qua một nhân vật trung gian, "Ông Boston", Ben nhận được hướng dẫn để gọi đến một số điện thoại ở Cambridge từ một chiếc điện thoại "an toàn". Đó là số 617, và Ben đọc tin nhắn từ "ông Boston ở Boston". Ben nhận ra rằng đó là một bút danh và quyết định gọi điện thoại. Ông ta đi qua phố, đến Statler Hilton và gọi điện từ một bốt điện thoại công cộng. Mr. Boston nói rằng Ben có tin nhắn từ một người bạn cũ nhưng ông ta phải cho số của một bốt điện thoại công cộng, nơi mà ông có thể nhận được điện gọi tới. Ben cho số của bốt điện thoại bên cạnh.
Khi tôi gọi Bagdikian một vài phút sau, ông ta nhận ra giọng của tôi. Tôi hỏi ông ta liệu Tờ Bưu điện Washington có muốn in "những tài liệu đó" nếu có được chúng. Ông trả lời là "Có". Tôi hỏi liệu ông có được lời cam kết của tờ Bưu điện Washington không. Ông ta hứa sẽ gọi điện lại. Chúng tôi thoả thuận rằng nếu ông ta có được sự đảm bảo, ông sẽ đặt phòng tại một khách sạn ở Cambridge hay Boston, gọi đến một số khác với máy trả lời điện thoại tự động, để lại lời nhắn về nơi mà chúng tôi có thể gặp nhau. Ông ta gợi ý về lời nhắn là "Ông Medfold từ Providence (nơi mà Bagdikian đã từng làm) sẽ đợi ông ở khách sạn". Tôi đề nghị ông ta nên đặt phòng nhanh lên bởi vì hầu hết khách sạn đều kín chỗ trong tuần đầu tiên. Ông ta nên mang theo một chiếc vali lớn.
Ben nhận được tín hiệu "đèn xanh" từ phía chủ bút của tờ báo, Ben Bradlee. Khi Bagdikian gọi điện cho Bradlee từ sân bay, ông ta nói thêm rằng trong trường hợp ông ta có được những hồ sơ đó và nếu chúng không được đăng trên số báo ngày hôm sau, thì tờ Bưu điện Washington sẽ có một chủ bút mới. Bagdikian kể lại với tôi: Lúc ông ta đăng ký phòng tại khách sạn Boston dưới cái tên Medfold, ông thất kinh khi nhân viên lễ tân báo ông có một tin nhắn từ ông Bagdikian, người sẽ tới khách sạn cùng thời gian này từ Washington. Điều đó thì có liên hệ gì với ông không? - Bagdikian nghĩ. Dường như, Bagdikian quên mất tên giả của mình. Ông không có những trực giác như người bạn ông. Ben tự giới thiệu bản thân, nói rằng ông ta đăng ký dưới cái tên Medford. Khi ông ta vào phòng, ông ta nhận được một cú điện thoại của tôi, chỉ dẫn đến một địa chỉ ở Cambridge để lấy tài liệu và nhắn với nhân viên lễ tân cho phép một số người bạn của ông vào phòng khi ông ra ngoài.
Khi Bagdikian quay trở lại trên một chiếc taxi với một trong hai thùng các-tông mà ông đã được cho xem trong tầng hầm ở Cambridge, ông ta thấy Patricia và tôi đang đợi ông ta trong phòng khách sạn. Tôi muốn ông ta mang cả chiếc hộp thứ hai. Không lâu sau, ai đó mang chiếc hộp còn lại đến phòng. Trong khi đó, chúng tôi kiểm tra chiếc hộp thứ nhất lộn xộn giấy tờ. Chiếc hộp đựng một bộ hồ sơ đầy đủ, nhưng thứ tự lẫn lộn. Do trải qua nhiều giai đoạn "giải mật" với mảnh các- tông, kéo, máy cắt giấy, nên rất ít trang còn ghi số trang. Hầu hết các số trang trùng khớp với sự đánh dấu kín mà chúng tôi đã bỏ đi. Khi được chuyển đến, chúng tôi thấy thùng tài liệu thứ hai có cùng nội dung như vậy. Đó chính là trạng thái hồ sơ mà tôi muốn khi trao cho ông ta. Đầu tiên ông ta miễn cưỡng chấp nhận. Tôi muốn ông ta gửi thùng thứ hai tới Mike Gravel nếu ông thượng nghị sỹ từ Alaska này sẵn sàng sử dụng nó.
Cảm giác nghề nghiệp của Ben khiến ông ta không muốn trở thành một đối tượng trung gian với Quốc hội. Tôi không thể thông cảm, trong những tình huống đặc biệt này. Tờ Bưu điện Washington rõ ràng muốn cái mà tôi có, và dường như họ cũng có thể giúp tôi. Tôi không nghĩ ra bất kỳ cách nào khác để mang hồ sơ này đến Washington nhanh chóng. Cuối cùng, ông ta đồng ý.
Bagdikian nhớ lại, tôi đưa ra hai điều kiện khác. Tờ Bưu điện Washington không được tiết lộ danh tính của tôi và không in lại ngày tháng hoặc số hiệu của bất kỳ bức điện tín nào khi sao chép lại tài liệu. Nhiều người đã buộc tội tờ Thời báo New York đã làm tổn hại hệ thống mật mã. Tôi cam đoan điều đó là không đúng, nhưng tôi không chắc chắn rằng chính phủ sẽ thừa nhận tại toà án.
Chúng tôi ở khách sạn cả đêm với ông ta, cắt bỏ những chú thích ngày tháng ở cuối trang và cố gắng phân loại các tập khác nhau. Patricia trở về nhà nghỉ ngơi trong khi tôi tiếp tục công việc. Ben đặt vé chuyến bay trở lại Washington, hai ghế hạng nhất cho "Ông Medford và một người khác". Ý của ông ta là muốn để chiếc vali tài liệu ở chiếc ghế bên cạnh. Sáng sớm hôm sau, chúng tôi nhận ra rằng chiếc vali tài liệu không đủ rộng. Ông ta quyết định sẽ mang về Washington hai chiếc hộp các-tông lớn như lúc đầu, nhưng chúng tôi không có dây hay băng để buộc chiếc hộp thứ hai. Sáng sớm, chúng tôi ra quầy lễ tân xin một đoạn dây thừng. Nhân viên bàn lễ tân không tìm thấy đoạn dây nào cả, nhưng ông ta gợi ý Ben nên ra ngoài để tìm, nơi mà đôi khi có dây buộc chó của khách. Ben trở lại với một sợi thừng dài 6 feet từ hàng rào cạnh bể bơi. Ông ta buộc chiếc hộp lại và lên xe ra phi trường. Tôi gọi điện cho Patricia và bảo cô ấy đến đón tôi. Trong lúc chờ đợi, tôi nghỉ lại trong phòng.
Trước khi rời khỏi phòng khách sạn, chúng tôi bật ti vi để xem tin tức buổi sáng. Chúng tôi nhìn thấy một trong hai ngọn đèn của nhà chúng tôi tại số 10 phố Halliard trên màn hình, với hai người đàn ông tự xưng là nhân viên FBI đang gõ cửa.
Người phát ngôn viên giải thích họ đang tìm cách thẩm tra Daniel Ellsberg cho quá trình điều tra của họ về việc rò rỉ Hồ sơ Lầu Năm Góc. Sau một lúc gõ cửa không thấy ai trả lời, hai người đàn ông rời đi. Patricia và tôi có cảm giác rằng họ sẽ không đi xa. Chúng tôi không muốn ở lại khách sạn này cho dù là một đêm, chứ không muốn nói là đêm thứ hai. Chúng tôi không mang theo gì, kể cả bàn chải đánh răng. Nhưng dường như, đây không phải là thời điểm tốt để trở về nhà. Và cũng không phải là ý kiến hay khi ở lại trong căn phòng mà ông Bagdikian của tờ Bưu điện Washington đã trả. Chúng tôi đến thuê phòng tại một khách sạn bên dòng sông Charles bờ phía Cambridge dưới tên giả. Buổi sáng hôm sau, chúng tôi chuyển sang một khách sạn khác. Trong một vài ngày tiếp theo, chúng tôi liên tục di chuyển qua các khách sạn khác nhau ở Cambridge. Sau đó, chúng tôi tìm thấy nơi ẩn náu ở Cambridge và trở về nhà sau 12 ngày trốn tránh.
Xem tin tức phát trong buổi sáng thứ năm, ngày 17-6-1971 chúng tôi nhanh chóng hiểu tại sao FBI lại chọn ngày hôm đó để ghé thăm căn hộ của chúng tôi. Khuya đêm hôm trước, trong khi chúng tôi đang làm việc tại khách sạn, cố gắng sắp xếp các tập hồ sơ theo đúng thứ tự, một nhà báo tên là Sidney Zion đã xuất hiện trên chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng trên truyền hình tại New York và thông báo rằng ông ta đã phát hiện ra chính tôi là người cung cấp Hồ sơ Lầu Năm Góc cho tờ Thời báo New York. Đúng như tôi dự đoán, trên cơ sở những bài phỏng vấn ban đầu, cả Nhà Trắng và FBI đã xác định tôi là nghi can số một. Nhưng FBI tiết lộ rằng chính tuyên bố của Zion dẫn tới chỉ thị của Sở chỉ huy của FBI tại Wahshington cho văn phòng ở Boston thẩm tra tôi ngay lập tức. Văn phòng ở New York nhận được chỉ thị thẩm tra Zion. Do công bố tối hôm trước nên ở cả hai nơi các nhân viên FBI bắt gặp những đám đông nhà báo và quay phim chờ đợi sẵn quanh khu nhà tôi. Zion từ chối tiết lộ thêm điều gì, và FBI không thấy chúng tôi trở về nhà kể từ cái đêm chúng tôi ở lại khách sạn cùng với Bagdikian. Nhưng, nếu Zion không công bố, sẽ không có bất kỳ phóng viên truyền hình nào bên ngoài căn hộ số 10 phố Hilliard để ghi lại chuyện viếng thăm của nhân viên FBI, và chúng tôi cũng không thể được nhìn cảnh quay trực tiếp trên truyền hình. Thay vào đó, chúng tôi có thể có mặt tại hiện trường và gặp những nhân viên FBI khi trở về nhà, hoặc họ tìm thấy chúng tôi ở đó chiều ngày hôm sau. Mọi việc diễn ra may mắn lạ thường, mặc dù ý định của Zion chưa hẳn đã tốt như vậy.
Bí quyết tránh giáp mặt với FBI (trong thập kỷ 70) dường như là: không sử dụng điện thoại nhà hay cơ quan. Những người giúp đỡ chúng tôi tìm nơi ẩn náu và phân tán tài liệu liên lạc với chúng tôi trực tiếp hoặc thông qua những bốt điện thoại công cộng được chọn một cách ngẫu nhiên. Không ai trong số họ bị các quan chức hay bồi thẩm đoàn tra hỏi, hay bị báo chí phát hiện. (Sau 30 năm giấu tên, tất cả họ dường như muốn tiếp tục giữ kín. Tôi không thể thuyết phục bất kỳ ai trong số họ xuất hiện công khai hoặc để tôi có cơ hội nói lời cảm ơn bằng chính tên thật của họ).
Trong vòng 13 ngày, chúng tôi trở thành tâm điểm trong câu chuyện mà báo chí miêu tả là "cuộc săn lùng lớn nhất của FBI kể từ vụ bắt cóc Lindberg". Báo chí đưa tin các nhân viên FBI phỏng vấn nhiều người ở nhiều nơi trên thế giới khiến cho tôi nghi ngờ rằng một số đang lạm dụng cơ hội này để đi vui chơi. Chúng tôi ở Cambridge trong suốt thời gian đó, ở năm địa điểm khác nhau, có chỗ chỉ lưu lại trong một đêm. Việc đó được sắp đặt bởi một vài bạn bè thân thiết của tôi. Họ nhờ bạn bè trong số những nghiên cứu sinh hoặc những người hàng xóm. Điều đáng chú ý là tất cả những người trên đều hợp tác mặc dầu họ biết FBI đang truy lùng tôi. Theo lý thuyết, FBI chỉ muốn thẩm tra tôi. Nhưng rõ ràng là ở bất cứ thời điểm nào, lệnh bắt đều có thể được đưa ra, và những người chủ nhà có thể bị buộc tội là che giấu một kẻ phạm tội. Đó là thời điểm trong lịch sử dân tộc khi bạn có thể chìa tay ra với hầu hết thanh thiếu niên và nói: "Tôi đang hành động chống chiến tranh. Điều đó có thể có ích, có thể quan trọng, nhưng có thế rất nguy hiểm cho bạn. Bạn có giúp tôi không?". Một người bạn sau đó nói với tôi rằng cô ta đơn giản chỉ gọi những người quen biết trong các cuộc biểu tình và hoạt động chống chiến tranh khác, và nói với họ, "tôi cần căn hộ của bạn trong một vài ngày. Chúng tôi sẽ bảo quản nó. Đừng hỏi tôi bất kỳ câu gì?". Không ai thắc mắc, không ai từ chối. Đến nay, tôi vẫn chưa biết tên của họ.
Một dịp nọ, "ông Boston" xuống gác, băng qua đường tới bốt điện thoại ở góc phố, cách khoảng 50 thước từ căn hộ mà chúng tôi đang ẩn náu. Ông ta nói trong 10 phút với một người bạn của tôi là Lloyd Shearer ở Los Angeles, giúp tôi truyền đạt đến anh ta một số câu hỏi. Shearer là người cho tôi lời khuyên về các nhân vật tin cậy có thể làm việc được với giới truyền thông. Qua cửa sổ chúng tôi tình cờ nhìn thấy ông ta rời khỏi buồng điện thoại và quay trở lại phòng. Ngay khi ông ta bước chân vào cửa trước, có lẽ chỉ khoảng 12 phút từ lúc ông ta đặt máy, bốn chiếc xe cảnh sát lao về bốt điện thoại đó từ hai hướng. Xe phanh kít lại, và cảnh sát nhảy ra với súng lăm lăm, mặc dù bốt điện thoại trống không. Không còn nghi ngờ gì nữa, đường dây của Shearer đã bị nghe trộm. Chúng tôi nằm rạp xuống sàn dưới khung cửa sổ không có rèm che bởi cảnh sát bắt đầu ngó nghiêng tìm kiếm ngược xuôi trên con phố. Khi họ rời đi, chúng tôi chuyển sang một nơi khác nghỉ đêm. Đôi khi chúng tôi ở lại trong một căn hộ hai đến ba ngày.
Trừ khi chúng tôi chuyện chỗ, mà hầu hết diễn ra vào lúc nửa đêm, luôn chỉ có Patricia và tôi bên nhau. Nhìn lại, tôi nhận ra đó là hai tuần tĩnh lặng nhất, ít căng thẳng nhất mà chúng tôi có trong suốt hai năm tới. Chúng tôi không phải làm gì nhiều trừ việc quyết định chọn toà soạn nào, và cung cấp phần nào của nghiên cứu cho họ. Tất cả sắp đặt thực tế được thực hiện bởi những ân nhân của chúng tôi, bởi vì chúng tôi thậm chí không thể sử dụng điện thoại hay ra ngoài sử dụng điện thoại thẻ, hay làm những việc lặt vặt. Tôi nói với mọi người nơi mà họ có thể lấy tài liệu để chuyển đi. Nhưng họ lấy tài liệu từ những chỗ đó mà không nói cho chúng tôi biết họ làm vậy như thế nào.
Bạn của chúng tôi, "ông Boston" tỏ ra hết sức tài năng trong các hoạt động bí mật. Khi ông ta liên lạc với Ben Bagdikian giúp tôi, một số dàn xếp của ông ta để truyền đạt thông tin hay chuyện tài liệu khiến cho các biên tập viên sợ sệt bởi nó chi tiết hơn mức cần thiết. Nhưng về cơ bản, chúng phát huy hiệu quả. FBI không thể ngăn chặn bất kỳ vụ chuyên chở nào, bởi vì các phần của hồ sơ được tập kết đến một địa điểm từ các đường khác nhau. Đó là ý kiến của ông ta chia những phần liên tiếp thành từng gói riêng biệt. Ông nhớ lại cách làm đầu tiên của tôi, sau khi lệnh cấm thứ hai được ban hành, là trộn lẫn một vài tập hồ sơ vào với nhau, đảm bảo rằng tất cả đều được chuyển đi khi mà tôi bị bắt. Từ kinh nghiệm bản thân trước kia làm việc cho một nghị sỹ quốc hội, ông ta nhanh chóng thuyết phục tôi rằng tốt hơn hết là tiếp tục thực hiện bằng cách tiếp cận từng đối tượng một. Ông đảm nhận việc sắp đặt ông ta dành cho tôi việc chọn lựa đầu ra hàng ngày, và ông ta là người liên lạc và sắp đặt việc chuyện tài liệu.
Một điều khiến cho mọi việc phần nào dễ dàng hơn là không ai gặp khó khăn trong việc thương lượng để có được sự đồng ý của các tờ báo. Hầu hết tất cả các tờ báo chính đều không muốn đứng ngoài vụ này. Trong bối cảnh các thủ tục tố tụng đang được triển khai và sự tức giận rõ ràng từ phía chính quyền, thật ấn tượng khi không ai từ chối cơ hội tham gia. Sau tờ Bưu điện Washington, tờ Boston Globe hiển nhiên là lựa chọn tốt nhất cho đối tác kế tiếp. Mặc dù đây là một ấn phẩm địa phương, nhưng nó lại là một trong những tờ báo phản chiến tiên phong và mạnh mẽ nhất. Trường hợp tương tự là tờ St. Louis Postdispatch. Theo tôi nghĩ, họ đã đủ điều kiện để nhận được một lệnh huấn thị. (Trên thực tế, họ đã nhận được một lệnh cấm, cùng lúc với tờ Globe). Như Sanford-Ungar ghi lại, có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng cả bốn tờ báo bị cấm, trong số 20 tờ đã in các phần của hồ sơ, đều phê phán mạnh mẽ chính quyền Nixon và bày tỏ nghi ngờ về cuộc chiến.
Đối với các tờ báo khác, tôi lựa chọn trên cơ sở những tính chất đặc biệt. Tờ Thời báo Los Angeles, tờ báo mà tôi nghĩ là đã đưa tin tốt về cuộc chiến, là ấn phẩm của nơi tôi đã sinh ra; Knight, hệ thống gồm 11 tờ báo, trong đó có cả thành phố Detroit nơi ba tôi ở, và tờ Người đưa tin Cơ đốc giáo là tờ báo chính của cha tôi (ông gửi cho tôi đơn đặt báo dài hạn trong nhiều năm).
Bạn bè giúp mua thức ăn, báo chí, các vật dụng trang điểm, áo sơ mi, đồ lót và tất. Patricia và tôi hàng ngày cùng đọc báo và theo dõi tin tức trên ti vi. Tôi đặc biệt nhớ lại một chương trình mà chúng tôi xem vào cái ngày cuối cùng của thời gian yên tĩnh bên nhau. Đó là chủ nhật, ngày 27-61971, một ngày trước khi tôi trình diện tại trụ sở toà án liên bang. Tướng Maxwell Taylor đang được Martin Agronskyk phỏng vấn, trong một chương trình lúc trước đã bị nghe lén.
Ông ta miêu tả đề xuất của ông ta với Tổng thống Kennedy tháng 11-1961. Ông ta nói với Agronsky và công chúng nước Mỹ 10 năm sau đó: "Tôi không đề xuất sự tham gia của các lực lượng chiến đấu. Tôi đã nhấn mạnh rằng, chúng ta chỉ nên đưa đến các lực lượng kỹ sư và hậu cần, để thực hiện các công việc hậu cần và giúp đỡ trong sự kiện tắm máu năm 1961. Vì vậy, đó không phải là một lực lượng chiến đấu… Tôi không đề xuất gì khác ngoài ba sư đoàn tiểu đoàn lính bộ … à, xin lỗi, ba tiểu đoàn kỹ sư…".
Đã một thập kỷ trôi qua kể từ thời điểm những đề xuất đó được đưa ra, và vị Tổng thống nghe đề xuất của ông đã chết.
Tôi nhớ lại hai điều khi mà tôi nghe ông ta nói: bộ sậu của Tổng thống nghĩ rằng họ có quyền nói dối vô hạn, và "hãy chú ý những điều ông nói, tướng quân, những bức điện của ông sắp được công bố ngày nào đó gần đây".
Hai ngày sau khi nội dung của cuộc phỏng vấn được công bố, Toà án Tối cao dỡ bỏ lệnh cấm, và tờ Thời báo nối lại việc xuất bản. Số báo ngày hôm sau đăng câu chuyện của thời kỳ Kennedy. Trong số những văn bản tờ báo công bố trong ngày thứ tư có những bức điện cấm sao chụp gửi Tổng thống vào cuối tháng mười năm 1961, đề cập việc đưa ngay lập tức lực lượng lục quân của Mỹ vào chiến trường như "là một hành động cần thiết nếu chúng ta muốn lật ngược chiều hướng xấu hiện nay của tình hình… Trên thực tế, tôi không tin rằng kế hoạch cứu vãn miền Nam Việt Nam sẽ thành công nếu không hành động này" và cho rằng vai trò của các "kỹ sư" để "tung hoả mù" tỏ ra không còn hợp lý".
Đó là một lời khuyến nghị hoàn toàn trái ngược mà Taylor đưa ra vào thời điểm đó, năm 1961, và kéo dài trong nhiều năm. Một thập kỷ lừa gạt kết thúc với lời buộc tội của tôi. Nếu lịch sử vẫn còn giá trị để lừa gạt, thì nó cũng đáng để phơi bày, dù cho có phải trả giá bằng cuộc sống của chính mình.
Tạp chí Time (Thời đại) liên lạc với tôi thông qua Charlie Nesson, một giáo sư Luật học của Harvard, người đồng ý tham gia vào nhóm cố vấn pháp lý của chúng tôi để viết một câu chuyện trên trang nhất về tôi. Nhưng họ cần phỏng vấn tôi.
Derek Shearer, cùng với chúng tôi, thảo luận điều này với cha tôi Lloyd. Cha tôi kiên quyết thuyết phục tôi không nên làm như vậy. Ông nói những phóng viên nhật báo sẽ tức giận nếu tôi dành quyền độc quyền cho một tờ báo nào đó, đặc biệt là tạp chí Times, tờ báo mà họ coi thường (chủ bút của tạp chí Times Henry Grunwald, nhất quyết cấm đoán và chèn ép những phóng viên của ông ta viết về cuộc chiến. Một vài trong số họ đã xin thôi việc). Họ sẽ chỉ coi tôi như một kẻ tìm kiếm sự nổi tiếng cá nhân. Tôi nên tiếp tục duy trì sự tập trung của dư luận vào cuộc chiến và nội dung của tài liệu, không phải vào cá nhân tôi. Tôi nhắn với tạp chí Times rằng cuộc phỏng vấn là không thể thực hiện được. Tôi không có thời gian. Tờ báo tiếp tục gây sức ép. Họ nói họ sẽ không thể đăng lên trang nhất nếu không phỏng vấn tôi. Họ có quy định về điều này.
Tôi nói, điều đó thật tệ. Tạp chí Times đề nghị dành cho tôi ba trang để nói bất kỳ điều gì tôi muốn, không biên tập, như là một phần của bài báo. Đề nghị đó thật hấp dẫn và tôi cảm thấy dằn vặt khi phải từ chối cơ hội này. Nhưng tôi biết điều đó sẽ làm chệch con đường tôi đang đi, và tôi nên chú tâm vào những điều sắp xảy ra. Cuối cùng, Tạp chí Times buộc phải đăng bài báo đó. Tôi được cho biết rằng, kể từ bài báo viết về Adolf Hitler in năm 1943, đây là lần đầu tiên một bài trên trang bìa được đăng mà không có phần phỏng vấn cá nhân.
Đến phút cuối, những biên tập viên thuyết phục tôi chỉ trả lời họ một câu hỏi: Mắt tôi màu nâu hay xanh? Chúng tôi trả lời rằng mắt tôi màu xanh. Họ chỉ hỏi thế thôi. Mặc dù vậy, điều đó rõ ràng tạo nên sự khác biệt. Sau đó, ai đó từ tạp chí Time đưa cho tôi bản in thử đầu tiên với bức hình của tôi trên trang bìa, đôi mắt nâu.
Tạp chí Times lấy bức hình của tôi (đen trắng) từ cha tôi ở Detroit. Tạp chí Life cũng vậy. Bố tôi có các album ảnh của tôi. Một số trong đó được chụp khi tôi đang ở Việt Nam, hầu hết là ở Rạch Kiến, mặc bộ đồ chiến đấu và mang một khẩu súng tiểu liên K do Thuỵ Điển sản xuất. Tạp chí Life có một bức ảnh lớn của tôi nằm trên cánh đồng lúa, với khẩu tiểu liên ngang vai. Một bức ảnh khác cho thấy tôi trong bộ đồ lính thuỷ đánh bộ màu xanh da trời. Tôi từng nghĩ rằng những bức hình đó từ Cha có thể giúp tôi thoát khỏi tình thế khó khăn, ngăn cản Nhà Trắng tuyên truyền rằng tôi là một kẻ không yêu nước. Nhưng sự việc diễn ra ngược lại. Việc công bố những bức ảnh đó đưa đến một nhận định rằng tôi là một kẻ được chăng hay chở, dễ thay đổi, có chút gì đó điên rồ bởi sự thay đổi cực đoan của bản thân tôi, cho dù việc đó có thể đặt ra câu hỏi là tại sao tôi được tin tưởng rất lâu với nhiều bí mật và được tham vấn ở cấp cao, bởi cả những đảng viên Dân chủ hay Cộng hoà. Ngay cả những bài báo thông cảm nhất cũng khai thác bi kịch của tình cảnh khốn đốn khiến tôi thay đổi quan điểm. Tiêu đề trên Life là "Từ Diều hâu đến Bồ câu hung tợn". Tôi nghĩ tính từ miêu tả tình cảnh hiện tại của tôi thật thú vị, bởi vì nó dành cho giai đoạn trước với bức tranh tôi mang khẩu súng tiểu liên.
Sự chứng thực của cha về tôi ở Detroit rất có lợi cho tôi.
Tôi đọc nó trong các bản tin của hãng AP và nhìn thấy ông một vài lần trên tivi. Điều đó làm tôi cảm thấy ấm lòng. Xét cho cùng, ông là một đảng viên Đảng Cộng hoà. Người anh cấp tiến của tôi không thể nói chuyện với ông về chính trị. Cha tôi (lúc đó 80 tuổi) đã hai lần bỏ phiếu cho Nixon. Tuy nhiên, khi ông ta được hỏi về tôi, ông không chỉ tỏ ra cảm thông. Ông hùng hồn tuyên bố hoàn toàn ủng hộ những gì ông cho rằng tôi đang làm. Khi trả lời phỏng vấn tờ Detroit News, ông nói: "Daniel đã từ bỏ mọi thứ để cống hiến cuộc đời nó để chấm dứt cuộc tàn sát điên rồ đó… Nếu con trai tôi đã cung cấp cho họ báo cáo đó, và nếu chính phủ buộc tội nó… thì thế đấy, nó có thể đang cứu sống nhiều thanh thiếu niên, nếu không thì họ sẽ bị gửi tới nơi đó (Việt Nam)". Bài báo tiếp tục: Ellsberg nói con trai của ông đã cho ông "biết rất nhiều điều tồi tệ khi đọc về cuộc chiến đến mức mà chúng ta không thể phí thời gian để nói về nó khi chúng ta ở cùng nhau. Chúng ta biết chúng ta đang đứng ở đâu - và chúng ta đang bị dồn vào chân tường".
Tôi không cho ông biết một chút gì về những gì tôi đang dự định, hoặc đang thực hiện, không lời cảnh báo (ngay cả tôi cũng không nói trước được điều gì) về những điều có thể xảy ra. Tôi không thể gọi điện cho ông khi tôi đang ẩn trốn. Nhưng trong các bài phỏng vấn, ông trình bày các vấn đề hệt như tôi đã mớm lời cho ông. Thực tế còn tốt hơn. Ông nói về Hiến pháp và vai trò của tự do ngôn luận trong nền dân chủ của chúng ta, về cuộc chiến kinh hoàng, vô vọng và sai trái, về những người đã bị nói dối cho đến lúc chết bởi sự lừa đảo của các vị Tổng thống của họ, về những sinh mạng mà tôi đang cố gắng cứu vớt. Tôi run lên vì cảm động khi nghe những lời đó từ ông. Một tuần sau khi chúng tôi đi vào hoạt động bí mật, theo đề nghị của tôi, Tom Oliphant chuyển tải thông điệp, trong bài báo về tôi trên tờ Globe, rằng: "Ông (tác giả) muốn cha, Harry Ellsberg… biết rằng ông (tác giả) biết ơn sâu sắc cho với những lời ủng hộ mà ông (cha của tác giả) tuyên bố trước báo giới tuần trước". Tất cả những điều này đến từ đâu? Tom nói với tôi sau đó: "Từ chính bản thân anh. Lúc đầu tôi ủng hộ cuộc chiến, nhưng những lá thư của anh từ Việt Nam làm tôi sáng mắt".
Những gì đang xảy ra ở nước Mỹ thật đáng ngạc nhiên và chưa từng có. Ngành công nghiệp báo chí, trong vòng 30 năm trở lại đây hoặc lâu hơn nữa, mỗi khi động đến chính sách đối ngoại và các vấn đề quốc phòng luôn bằng lòng với việc dựa vào các văn kiện của chính phủ, bỗng nhiên nổi loạn khắp nơi.
Hết tờ báo này đến tờ báo khác lên tiếng đòi cơ hội, không chỉ để đăng một phần của câu chuyện mà còn vượt qua ranh giới, trở thành sự phản kháng dân sự cực đoan. Chưa bao giờ trong lịch sử có một lệnh cấm hoạt động của báo chí. Trước khi có phán quyết của Toà án tối cao, đã có bốn lệnh được đưa ra, và cũng có thể lên đến hai mươi.
Sau lệnh hạn chế tạm thời ban đầu được đưa ra với tờ Thời báo New York, tất cả các tờ báo tham gia đăng nội dung tập hồ sơ đều thách thức lại tuyên cáo chính thức của Nhà Trắng và Bộ Tư pháp rằng họ đang gây thiệt hại nghiêm trọng đến an ninh quốc gia. Những cá nhân và cơ quan đưa ra tuyên bố đó được biết đến như là các trụ cột của chính phủ. Đối với bất kỳ ai trong số họ, trước khi sự việc xảy ra, dám thách thức lại phán quyết khẩn cấp của Tổng thống đồng thời là Tổng Tư lệnh quân đội trong thời kỳ chiến tranh, bằng hành động cụ thể và ở mức độ như vậy, là không thể tưởng tượng được, theo đúng nghĩa đen.
Đọc tin tức và theo dõi tình hình qua tivi từ các nơi ẩn náu khác nhau, tôi nghĩ điều này thật tuyệt vời: Họ đang ở đúng trong tiến trình mà tôi đã trải qua, học cách nghĩ cho chính họ, tự đánh giá về những gì đúng đắn cần phải làm trong một cuộc khủng hoảng, phát hiện ra rằng họ sẵn sàng chấp nhận cáo buộc và đối mặt với các hình phạt nặng nề khi họ không còn lựa chọn nào khác. Trong bối cảnh như vậy, tôi nhận thức nghĩa vụ cần phải mang cơ hội này đến càng nhiều người càng tốt. Điều đó có nghĩa là các mạng lưới truyền hình cũng cần có cơ hội để tham gia vào cuộc nổi loạn này.
Các kênh tin tức truyền hình đã sẵn sàng dành một nửa thời gian hoặc nhiều hơn trong chương trình thời sự đêm khuya để đối diện với chính phủ, nhưng việc đưa tin không đặt họ vào trong tình thế của các tờ báo đã đăng tải nội dung của hồ sơ. Các kênh truyền hình mới chỉ đưa tin về cuộc nổi loạn, chứ không tham gia. Nhưng hiện nay, khi các đồng nghiệp báo viết dám đương đầu với thách thức để thể hiện lòng can đảm thật sự, truyền hình quốc gia cần phải có cơ hội để chung sức với họ.
Chúng tôi bắt đầu với kênh truyền hình NBC bởi vì tôi đã xem hình ảnh của ông Chủ tịch tập đoàn, Julian Goodman, trên chương trình thời sự buổi đêm, ủng hộ việc tờ Thời báo New York công bố công trình nghiên cứu bí mật. Một người bạn của chúng tôi đã lách qua nhiều cấp quản lý tại NBC để mang tin nhắn chúc mừng của tôi đến Goodman, và lời đề nghị giúp ông cùng với tờ Thời báo New York công bố một phần tài liệu chưa phát hành trong Hồ sơ Lầu Năm Góc trên kênh truyền hình của ông. Trong vòng nửa giờ, Goodman từ chối lời đề nghị. ABC từ chối nhanh hơn, ngay sau khi nghe lời đề nghị. Nhưng CBS chứng tỏ mối quan tâm thực sự, dựa trên thời gian của họ mà cân nhắc.
Quyết định cuối cùng không thuận cho chúng tôi. Nhưng họ đưa ra quyết định đó một cách miễn cưỡng sau một ngày xem xét kỹ lưỡng ở cấp lãnh đạo cao nhất. Cân nhắc chủ yếu là CBS lúc đó đang dính líu vào một vụ đối đầu pháp lý liên quan đến bộ phim tài liệu của hãng về quan hệ công chúng của giới quân sự, Vụ bán tháo Lầu Năm Góc. Một Uỷ ban của quốc hội đề xuất buộc tội CBS không tuân theo lệnh của Quốc hội, từ chối giao nộp cuốn phim gốc để điều tra. Hạ nghị viện đang chuẩn bị bỏ phiếu về đề xuất này. Frank Stanton của CBS và hầu hết nhân viên dưới quyền nghĩ rằng điều đó sẽ tác động xấu cho cuộc bỏ phiếu, và họ sẽ phải chịu quá nhiều áp lực trong cùng một lúc nếu chống lại chính sách bảo mật của Lầu Năm Góc lúc này. Tôi hiểu điều đó, và tôi tôn trọng thực tế rằng, trái ngược với hai kênh truyền hình NBC và ABC, CBS đã thực sự cố gắng hết sức. Chính vì vậy, vài ngày sau, khi cả ba hãng truyền hình, thông qua các nhà trung gian, đề nghị phỏng vấn tôi trong lúc tôi vẫn còn hoạt động bí mật, tôi đã dễ dàng chọn CBS.
Tôi hy vọng rằng CBS sẽ chọn phóng viên Walter Cronkite, phát thanh viên của chương trình thời sự buổi tối, người được coi là "người đàn ông đáng tin cậy nhất của nước Mỹ". Và Cronkite đã đến. Sau khi trở về từ Việt Nam sau trận Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968, anh ta đã nói với khán giả rằng chúng ta đang sa lầy trong "bế tắc", một từ mà Nhà Trắng rất sợ nói tới. Tổng thống Johnson, khi xem chương trình này, đã nói với các đồng sự "Tôi vừa mất Trung Mỹ". Vài tuần sau, ông ta rút khỏi chiến dịch tranh cử Tổng thống.
Chiều muộn ngày 23-6-71, Cronkite và nhóm của anh ta đến một ngôi nhà lớn ở Cambridge, nơi tôi đang đợi sẵn.
Một số đoạn của buổi phỏng vấn được trình chiếu trên chương trình thời sự sớm buổi tối, và một chương trình khác muộn hơn, trong vòng nửa tiếng đồng hồ, từ 10h30 đến 11h trong cùng buổi tối. Trong phần chính của buổi phỏng vấn, tôi có cơ hội để trình bày với khán giả truyền hình cả nước tại thời điểm nhiều người xem truyền hình nhất về chiến lược bí mật của Nixon và sự tương tự của nó với những gì tôi đã thực hiện tại Lầu Năm Góc năm 1964 trong một thời gian nhất định.
Một số đoạn, bao gồm cả phần mở đầu và kết thúc của chương trình như sau:
Cronkite (mở đầu): Mặc dù còn nhiều tranh cãi, nhưng cái tên duy nhất được nhắc đến nhiều nhất như là người cung cấp tài liệu cho tờ Thời báo, Daniel Ellsberg, cựu nhân viên của Bộ Ngoại giao và Lầu Năm Góc, và sau đó ít khi xuất đầu lộ diện, hôm nay đã đồng ý trả lời phỏng vấn tại một địa điểm bí mật. Nhưng ông từ chối thảo luận về vai trò của ông, nếu có, trong việc công bố hồ sơ. Tôi hỏi ông ấy, theo ông, những phát giác quan trọng nhất liên quan đến các tập hồ sơ của Lầu Năm Góc là gì?
Ellsberg: Tôi nghĩ rằng, bài học được rút ra là tất cả mọi công dân của đất nước này đều không thể trả nổi cái giá mà họ đã để cho Tổng thống tự mình lãnh đạo đất nước, cả về đối nội và đối ngoại, mà không có sự giúp đỡ của Quốc hội, cũng như không có sự trợ giúp của công luận…
Cronkite. Có phải việc đính chính thông tin công khai tuỳ thuộc vào cá nhân các nhà lãnh đạo ở Washington hơn là do quy định của pháp luật?
Ellsberg: Tôi không đồng ý với nhận định này. Với tôi, dường như các "nhà lãnh đạo" - những người mà các bạn hay liên tưởng đến các quan chức hành pháp, hay nhánh Hành pháp của chính phủ - đã củng cố một ấn tượng trong chúng ta trong suốt một thế hệ vừa qua, đồng nhất Nhánh Hành pháp với Chính phủ. Và thực sự họ là những nhà lãnh đạo mà theo cách này chính phủ có thể không hoàn toàn lành mạnh nếu chúng ta vẫn tự coi mình là một nền dân chủ. Trên thực tế, tôi thực sự kinh ngạc trước phản ứng của Johnson, coi những phát giác đó "gần như là tội phản quốc", bởi vì nó gây ra một cảm giác rằng những hành động gây tổn hại cho danh tiếng của một chính quyền nhất định, một cá nhân nhất định thực sự là tội phản bội quốc gia. Điều đó đồng nghĩa với quan niệm: "Tôi chính là nhà nước". Và chân thành mà nói, rất nhiều Tổng thống, không chỉ Johnson đâu, đều có cái cảm giác như vậy. Điều mà tôi nhận thức sau khi đọc tài liệu đó là chúng ta phải luôn ghi nhớ rằng đây là một đất nước tự điều hành. Chúng ta chính là chính phủ.
Về khía cạnh thể chế, Hiến pháp quy định sự phân quyền, cho Quốc hội, cho toà án, một cách không chính thức cho báo chí, được bảo vệ bởi Tu chính án thứ nhất … Tôi nghĩ rằng chúng ta không thể để các quan chức của Nhánh ành pháp quyết định thay cho chúng ta những gì công chúng cần biết, về thành tích cũng như cách thức họ đang thực hiện nhiệm vụ của họ…
Cronkite: Bằng cách nào mà người ta có thể giữ bí mật tài liệu nghiên cứu này ở Nhà Trắng?
Ellsberg: Thực tế các quan chức của chính phủ đã giữ kín những bí mật này, họ đã dành cả cuộc đời của họ học cách ngậm miệng. Tôi cũng là một người trong số đó.
Cronkite. Một số người nói, tài liệu đó còn chưa đầy đủ, hay là "một phần lịch sử bị đánh mất". Có phải vậy không?
Ellsberg: Đó mới chỉ là điểm xuất phát. Đó là điểm bắt đầu của một thời kỳ lịch sử. Tôi có thể nói, đó là màn khởi đầu chính, nhưng chỉ là mở màn… Trong bảy nghìn trang của tài liệu nghiên cứu đó, tôi không nghĩ có một dòng nào đề cập đến một dự đoán về tác động có thể có từ chính sách của chúng ta đối với thương vong của người Việt Nam, hoặc người tị nạn, và ảnh hưởng sinh thái của hoá chất diệt cỏ. Cũng không có một dự đoán hay tính toán nào về những tác động đã xảy ra, không hề. Và tài liệu chỉ đơn giản phản ánh những lo ngại nội bộ trong những quan chức của chúng ta. Tài liệu không đề cập gì đến việc các quan chức của chúng ta không hề lo ngại về tác động từ chính sách của chúng ta đối với người Việt Nam.
Cronkite: ông miêu tả thế nào về những người mà họ không có chung cảm xúc khi đọc được điều này, khi biết được điều nọ, khi họ cũng có quyền tiếp cận với những bí mật đó như ông. Có phải họ lạnh lùng? Có phải họ vô tâm? Có phải họ độc ác?
Ellsberg: Tất nhiên, nhận định thông thường, mô tả thông thường về họ là họ thuộc số những nhân vật đứng đắn nhất, đáng kính trọng nhất và trách nhiệm nhất mà xã hội chúng ta có. Về khía cạnh lai lịch của họ, đánh giá đó thuyết phục. Nếu đọc được những dòng lịch sử đó, tôi nghĩ những người khác cũng cảm thấy như tôi. Nhưng tôi không thể không có cảm giác rằng sự đứng đắn, nhân tính của họ, sẽ được đánh giá một phần bởi những quyết định mà họ đưa ra, nguyên nhân mà họ đi đến quyết định đó, và hậu quả của chúng. Tôi sẽ không nhận xét về họ. Bằng chứng đã rõ ràng.
Tôi chắc chắn rằng, tại thời điểm này, nhiều người sẽ đau đớn hơn tôi khi nghe câu chuyện, tất nhiên bởi vì tôi đã quen thuộc với nó, đã đọc đi đọc lại vài lần. Nhưng tất cả người Mỹ hiện nay sẽ đau đớn khi đọc hồ sơ này - nhiều phần khác sẽ sớm được công bố - và phát hiện ra rằng, những người mà họ kính trọng, tin tưởng và dành cho quyền lực, khinh thường họ như cách họ khinh thường những đồng minh Việt Nam của chúng ta.
Cronkite: Ông nói sao về những hiệu ứng tức thì (của những phát giác này) đối với cuộc chiến trong những ngày này, tháng 6-1971?
Ellsberg: Vâng, cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn… Tôi hy vọng rằng Thượng viện sẽ làm được nhiều hơn. Tôi hy vọng rằng họ nhận thức ra trách nhiệm của họ đối với công dân của họ, đối với công dân của đất nước này, và đối với các cử tri, và họ sẽ làm nhiều hơn để tái đắc cử. Họ là những người tự do, những người dám gánh vác trách nhiệm để chám dứt cuộc chiến tranh này.
Cha tôi có một câu nói yêu thích trong Kinh thánh mà tôi hay thường được nghe khi còn là một đứa trẻ: "Sự thật sẽ giải phóng bạn". Và tôi hy vọng rằng, với việc công khai sự thật - công khai trên báo chí, ở các gia đình, ở nơi mà nó cần phải được công bố, nơi mà các cử tri có thể thảo luận - sự thật đã thoát ra khỏi hộp kín, và không có cách nào khác để cất nó vào hộp trở lại - tôi hy vọng sự thật sẽ giải thoát chúng ta khỏi cuộc chiến. Tôi mong muốn chúng ta có thể bước qua cuộc chiến tranh… sao cho lịch sử của 20 năm kế tiếp sẽ không giống như lịch sử của 20 năm vừa qua.
Trong phần tường trình trước Toà án Circuit của Quận Columbia, thứ ba, ngày 22-6, tờ Bưu điện Washington đã thừa nhận những ảnh hưởng pháp lý của những nỗ lực do nhóm hoạt động bí mật chúng tôi trong việc tiếp tục phân tán tài liệu "Tờ báo cũng cảnh báo toà án phúc thẩm rằng các nỗ lực của chính phủ cuối cùng sẽ trở nên vô ích với thực tế là ngày càng nhiều các tờ báo đăng tài liệu đó". Một điều chắc chắn là: "Sự tiết lộ công khai nội dung của tài liệu sẽ sớm đến với công luận Mỹ". Sự chắc chắn của tiến trình này phụ thuộc vào khả năng mạng lưới của chúng tôi bị FBI thâm nhập và tóm gọn, cũng như phụ thuộc vào sự cung cấp các bản sao. Tất cả văn bản công bố đều được phát ra trực tiếp hay gián tiếp từ chúng tôi.
Một yếu tố may mắn không thể thiếu khác là thời điểm và tính gấp rút gây áp lực sao cho Patricia có thể chụp tài liệu kịp thời mặc dù không một ai dự đoán trước được những tình huống đặc biệt đó đã làm cho chúng trở nên đặc biệt giá trị.
Nhân vật được Nixon bổ nhiệm, thẩm phán Roger Robb, đưa ra vấn đề thông tin tiếp tục được tiết lộ trên các tờ báo khác tự đặt ra câu hỏi rằng liệu có phải chính phủ "đang yêu cầu chúng ta kiểm soát một bầy ong". Ông ta dùng từ này có lẽ để chỉ các báo, nhưng từ "bầy ong" diễn tả chính xác đặc điểm của đội ngũ những người hoạt động bí mật của chúng tôi.
Thứ năm, ngày 24-6, phép ẩn dụ "một đàn ong" bị lu mờ bởi hình ảnh so sánh ngầm "vỡ đập". Trên khắp đất nước, mười một tờ báo trong hệ thống Knight - Detroit, Miami, Tallahassee, Akron, Boca Raton, và hai tờ báo ở mỗi thành phố Philadenphia, Charlotte, và Macon - cùng với tờ Thời báo Los Angeles, đồng loạt được phát hành với những tiết lộ mới. Cùng ngày đó, tờ Thời báo New York kháng án lên Toà án Tối cao để xem xét lại quyết định phúc thẩm có lợi cho chính phủ của toà án Circuit. Cùng với nhiều yêu sách khác, Alexander Bickel đại diện cho tờ Thời báo yêu cầu một buổi điều trần ngay lập tức bởi vì "không chỉ quyền được thông tin của công chúng đã bị vi phạm trong vòng một tuần lễ mà tờ Thời báo, tờ báo đã dũng cảm đi tiên phong trong việc công bố Hồ sơ Lầu Năm Góc, đang bị buộc phải nhường đường cho các tờ báo khác".
Thông tin tiếp tục được các tờ báo công bố bất chấp nỗ lực của Bộ Tư pháp. Có lẽ, cũng vì lý do đó mà, một thời gian sau khi cơ quan này đưa ra lệnh hạn chế đối với tờ Boston Globe, Bộ Tư pháp dường như từ bỏ việc đưa ra các lệnh cấm. Không có thủ tục pháp lý nào được triển khai đối với Thời báo Chicago Sun - Times, Thời báo Los Angeles hoặc bất kỳ tờ báo nào thuộc hệ thống báo chí Knight, mặc dù về nguyên tắc, tất cả những ấn phẩm này đều có nguy cơ gây ra tổn hại lập tức và nghiêm trọng đối với quốc gia mà chính phủ đã tuyên bố trong các trường hợp trước đó.
Buổi sáng thứ sáu, ngày 25-6, năm vị thẩm phán của Toà án Tối cao bỏ phiếu để xác định liệu có xử gấp vụ việc của Tờ Thời báo New York và Tờ Bưu điện Washington. Họ đồng ý nghe tranh luận vào ngày hôm sau trong một phiên toà họp vào buổi sáng thứ bảy chưa từng có trong lịch sử.
Bốn vị thẩm phán - Hugo Black,