← Quay lại trang sách

Chương 7

Nó là một ngày đáng nhớ khi thợ xây Tom cùng với các thợ đến mỏ đá.

Họ lên đường một vài ngày trước lễ Phục sinh, mười lăm tháng sau khi ngôi nhà thờ cũ bị cháy rụi. Tu viện trưởng Philip đã cần nhiều thời gian để gom góp tiền thuê thợ thủ công.

Tom đã tìm được một nhân viên lâm nghiệp và một thợ cả về mỏ ở Salisbury, nơi cung điện giám mục Roger hầu như đã hoàn tất. Nhân viên lâm nghiệp và thợ của ông đã bắt tay vào việc hai tuần nay, tìm chặt cây thông cao và cây sồi già. Họ tập trung công việc vào khu rừng ven sông, thượng nguồn của Kingsbridge, bởi vì nó tốn rất nhiều tiền nếu chuyên chở gỗ trên con đường quanh co đầy bùn lầy lội, và nó sẽ rẻ hơn nhiều khi thả gỗ theo dòng nước về đến công trường xây dựng. Những thanh gỗ hỗn độn được dùng làm giàn giáo, những gỗ tốt hơn dùng làm khuôn mẫu cho thợ xây và thợ đục đá, hay những cây cao nhất được dành để làm xà ngang trong tương lai. Những cây gỗ tốt được chở về Kingsbridge đều đặn, tất cả những gì Tom phải làm bây giờ là trả cho nhân viên lâm nghiệp mỗi thứ bẩy.

Các thợ mỏ đã đến vài ngày qua. Thợ mỏ chính, Otto Blackface, mang theo hai người con, cả hai là thợ cắt đá; bốn cháu trai đang học nghề; hai công nhân, một là họ hàng của ông và người khác là anh vợ. Thói quen dùng người nhà như vậy là bình thường và Tom không phản đối: một tổ chức gia đình thường là một nhóm làm việc tốt.

Trên công trường ở Kingsbridge không có thợ thủ công nào làm việc, ngoại trừ Tom và các thợ mộc của tu viện. Trước hết cần dự trữ một số vật liệu. Nhưng chẳng bao lâu nữa Tom phải thuê người để hình thành một đội ngũ xây dựng quan trọng: thợ xây. Họ là những người xếp hòn đá này lên hòn đá kia cho đến khi bức tường cao lên. Khi đó cuộc phiêu lưu kỳ thú sẽ bắt đầu. Tom đi nhún nhẩy theo bước chân mình: đây là điều ông đã từng hy vọng và sẽ làm việc trong mười năm tới.

Người thợ xây đầu tiên được thuê, ông đã quyết định, là Alfred, con trai ông. Alfred mười sáu tuổi, gần như vậy, và có kỹ năng cơ bản của một thợ xây: cậu có thể cắt đá vuông và xây một bức tường thật sự. Khi được thuê, Alfred sẽ có lương đầy đủ.

Người con khác của Tom, Jonathan, được mười lăm tháng và lớn nhanh. Một đứa bé cứng cáp được cả tu viện nuông chiều. Lúc đầu Tom đã lo lắng một chút khi đứa bé được chăm sóc bởi Johnny Eightpence, một người không được bình thường lắm, nhưng Johnny ý tứ như bất kỳ người mẹ nào và có nhiều thời giờ hơn hầu hết các bà mẹ để chu toàn trách nhiệm được giao. Các tu sĩ đã không nghi ngờ rằng Tom là bố đứa bé và bây giờ có lẽ họ sẽ chẳng bao giờ nghĩ đến.

Martha bẩy tuổi, gẫy mất một răng cửa và cô vẫn còn nhớ Jack. Cô là mối lo lớn nhất của Tom, bởi vì cô cần một người mẹ.

Không thiếu những phụ nữ muốn cưới Tom và chăm sóc cho con gái nhỏ của ông. Ông không phải là người không hấp dẫn, ông biết, và cuộc sống của ông bây giờ được bảo đản, nhất là từ khi Tu viện trưởng Philip thật sự bắt đầu xây dựng. Tom đã ra khỏi nhà khách và xây cho mình một nhà hai phòng đẹp đẽ, với một ống khói, ở trong làng. Tính cho cùng, là một thợ xây dựng tổng thể chính lo cho toàn bộ dự án, ông có thể chờ đợi một mức lương và quyền lợi mà nhiều nhà quý tộc nhỏ phải ghen tỵ. Nhưng ông không thể tưởng tượng có thể kết hôn với ai, ngoài Ellen. Ông giống như một người đã quen uống rượu nho ngon nhất, và bây giờ cảm thấy rượu thường ngày như dấm. Có một góa phụ trong làng, một phụ nữ xinh xắn đầy đặn với khuôn mặt tươi, ngực to, có hai con ngoan ngoãn, người đã nướng cho ông một số bánh và đã hôn ông khao khát trong dịp lễ Giáng sinh, và sẵn sàng cưới ông ngay khi ông muốn. Nhưng ông biết ông sẽ không hạnh phúc với bà bởi vì ông sẽ luôn luôn khao khát cưới một Ellen đầy phẫn nộ, khó lường, mê hoặc và đam mê.

Ellen đã hứa sẽ quay về, một ngày nào đó, để thăm nhau. Tom cảm thấy chắc chắn mãnh liệt là bà sẽ giữ lời hứa, và ông đã kiên quyết bám vào nó, mặc dù bà đã đi hơn một năm rồi. Và khi bà quay về, ông sẽ hỏi cưới bà.

Ông nghĩ, bây giờ bà sẽ đồng ý. Ông không còn cơ cực: ông có thể nuôi sống gia đình và cả bà nữa. Ông cảm thấy có thể ngăn cản Alfred và Jack đánh nhau, nếu đối xử đúng với chúng. Nếu Jack cũng làm việc, Alfred sẽ không bực bội với cậu ấy, Tom nghĩ. Ông dự định sẽ nhận Jack như người học việc. Cậu bé tỏ ra thích thú với việc xây dựng, học nhanh và trong vài năm cậu sẽ đủ lớn cho các công việc nặng nhọc. Khi đó Alfred không thể nói rằng Jack lười biếng. Một vấn đề khác là Jack có thể đọc còn Alfred thì không. Tom dự định sẽ yêu cầu Ellen dạy Alfred đọc và viết. Bà có thể dạy cậu mỗi chúa nhật. Cả hai chàng trai sẽ bằng nhau, cả trong học vấn lẫn trong công việc, và chẳng bao lâu sau cùng lớn như nhau.

Ông biết Ellen thực sự thích sống với ông, mặc dù trải qua những khó khăn. Bà thích thân thể và đầu óc của ông. Bà sẽ trở lại với ông.

Không biết ông có thể giải quyết chuyện này với Tu viện trưởng Philip không, đó là chuyện khác. Ellen đã xúc phạm nặng đến tôn giáo của Philip. Thật khó mà tưởng tượng được còn điều gì sỉ nhục Tu viện trưởng hơn những gì bà đã làm. Tom vẫn chưa giải quyết vấn đề đó.

Trong lúc này tất cả trí tuệ của ông dùng cho việc hoạch định nhà thờ chính tòa. Otto và đoàn thợ cắt đá sẽ dựng cho họ một nhà nghỉ thô sơ ở mỏ đá, nơi họ có thể ngủ qua đêm. Khi họ định cư, họ sẽ xây nhà thực sự, và những người đã có gia đình sẽ mang gia đình họ đến sống chung.

Trong tất cả các nghề thủ công xây dựng, nghề khai thác đá đòi hỏi ít kỹ năng nhưng nhiều bắp thịt. Thợ mỏ đá chính làm những công việc về đầu óc: ông quyết định khu vực nào sẽ khai thác và theo trật tự nào; ông thu xếp để có đủ thang và thiết bị nâng đá; khi phải làm việc bên sườn đá, ông phải trang bị giàn giáo; ông lo cho có đủ công cụ từ lò rèn. Thực ra việc đào các phiến đá là việc đơn giản. Thợ đá sẽ dùng một búa chim đầu bằng sắt tạo ra một rãnh trong đá, sau đó đào sâu nó bằng búa và dùi đục. Khi rãnh đã đủ lớn, ông ấy sẽ đóng gỗ vào đó. Nếu ông ấy đã tính đúng, tảng đá sẽ bửa ra vào đúng chỗ ông ấy muốn.

Người lao động di chuyển các phiến đá từ mỏ đá, bằng cách khênh chúng trên cáng hay nâng chúng bằng một sợi dây gắn với bánh xe cuộn lớn. Trong lều, các thợ cắt đá sẽ đẽo đá theo kích thước do thợ cả xây dựng đưa ra. Dĩ nhiên, việc cắt chính xác sẽ được thực hiện ở Kingsbridge.

Vấn đề khó khăn nhất là vận chyển. Mỏ đá ở cách xa công trình xây dựng một ngày đàng, và người lái xe sẽ đòi khoảng bốn xu cho mỗi chuyến – và không thể chở hơn tám hay chín phiến đá lớn mà không làm hư xe hoặc ngựa chết. Chẳng bao lâu khi thợ đá đã ổn định, Tom phải thám hiểm khu vực này xem có bất kỳ đường thủy nào để rút ngắn việc vận chuyển không.

Họ lên đường từ Kingsbridge vào lúc bình minh. Khi họ đi qua rừng, hàng cây cong bao phủ qua đường làm ông nghĩ đến các cột trụ của nhà thờ chính tòa ông sẽ xây. Những lá mới vừa nhú ra. Ông được dạy rằng các đầu cột nên được trang trí bằng các hình vòng xoắn hay ngoằn ngoèo, nhưng bây giờ ông chợt có ý tưởng rằng trang trí bằng hình các lá trông sẽ rất ấn tượng.

Họ đi rất nhanh và vào giữa trưa đã đến gần mỏ đá. Tom ngạc nhiên khi nghe tiếng kim loại đập trên đá ở xa xa, như có ai đang làm việc ở đó. Một cách nghiêm túc mỏ đá thuộc quyền sở hữu của bá tước Shiring, Percy Hamleigh, và nhà vua cho tu viện Kingsbridge quyền khai thác nó cho việc xây dựng nhà thờ chính tòa. Có lẽ, Tom suy đoán, lãnh chúa Percy cũng muốn khai thác mỏ đá cho mục đích riêng cùng lúc với tu viện. Nhà vua có lẽ đã không ngăn cấm điều đó, nhưng nó sẽ gây ra nhiều bất tiện.

Khi họ đến gần, Otto, người đàn ông da đen với thái độ hung dữ, nhăn mặt vì âm thanh vang dội, nhưng không nói gì. Những người khác thầm thì với nhau. Tom không màng đến họ nhưng bước nhanh hơn, sốt ruột muốn xem chuyện gì xẩy ra.

Con đường cong xuyên qua một khu rừng và chấm dứt ở chân đồi. Ngọn đồi chính là mỏ đá, và một mảng đá lớn đã bị lấy đi. Ấn tượng đầu tiên của Tom là chỗ đá đó dễ khai thác hơn: kéo đá từ trên xuống thì dễ hơn là lấy đá từ dưới đất lên.

Mỏ đá đã bị lấy, không còn nghi ngờ gì. Một túp lều dưới chân đồi, một giàn giáo vững vàng cao đến hai mươi feet dựa vào thành đồi, và một đống đá chờ đợi để được thu thập. Tom có thể nhìn thấy ít nhất mười người thợ đá. Một cách đáng ngại vì có hai người mặt dữ dằn, có trang bị vũ khí, đang ở ngoài lều và ném đá vào thùng.

“Tôi không thích nhìn cảnh này,” Otto nói.

Tom cũng không muốn, nhưng ông giả vờ như không để ý đến. Ông đi vào mỏ đá như thể ông là chủ nhân và nhanh chân đi đến hai người có trang bị vũ khí. Họ giật mình, mang một cảm giác tội lỗi vì sau nhiều ngày gác mà lại bị bất ngờ. Tom nhanh chóng nhìn vào vũ khí của họ: mỗi người có một thanh kiếm và một con dao găm, và họ mặc áo khoác da nặng, nhưng không có áo giáp.

Tom có một búa thợ xây đeo bên thắt lưng. Ông không chuẩn bị cho một cuộc chiến. Ông đi thẳng đến hai người lính mà không nói gì, rồi vào phút chót ông đi qua một bên và đi xung quanh họ, rồi tiếp tục đến túp lều. Họ nhìn nhau, không biết chắc chắn phải làm gì: nếu Tom nhỏ con hơn, hay ông không có chiếc búa, họ sẽ chặn ông lại ngay, nhưng bây giờ đã quá trễ. Tom đi vào lều. Nó là căn nhà bằng gỗ rộng rãi với lò sưởi. Những công cụ sạch sẽ được treo trên tường và có một hòn đá mài lớn trong góc. Hai người thợ cắt đá đứng gần một ghế bằng gỗ thô, chẻ đá bằng rìu. “Chào anh em,” Tom nói, dùng hình thức của các nghệ nhân chào hỏi nhau. “Ai là thợ chính ở đây?”

“Tôi là thợ đá chính,” một người trong họ nói. “Tôi là Harold thành Shiring.”

“Tôi là thợ xây dựng tổng thể chính ở nhà thờ chính tòa Kingsbridge. Tên tôi là Tom.”

“Chào ông, thợ xây Tom. Ông làm gì ở đây?”

Tom dò xét Harold một lúc trước khi trả lời. Ông là một người xanh xao, bụi bặm với đôi mắt xanh bẩn nhỏ, mà mỗi lần nói ông nheo lại như thể ông luôn luôn chớp mắt để tránh bụi đá. Ông tình cờ nghiêng người về phía ghế băng, nhưng trông ông không thoải mái như ông giả vờ. Ông lo lắng, cảnh giác và sợ hãi. Ông ấy biết rõ tại sao tôi đến đây, Tom nghĩ. “Tôi mang theo thợ mỏ đá chính của tôi để làm việc ở đây, dĩ nhiên.”

Hai người lính gác theo Tom vào trong, và Otto cùng đoàn của ông cũng theo đàng sau họ. Bây giờ một hay hai người của Harold cũng nhập bọn, tò mò xem sự gì xẩy ra.

Harold nói: “Mỏ đá thuộc quyền sở hữu của bá tước. Nếu ông muốn lấy đá, ông phải gặp ông ấy.”

“Không, tôi không gặp,” Tom nói. “Khi nhà vua trao mỏ đá cho Bá tước Percy, nhà vua cũng cho tu viện Kingsbridge quyền khai thác đá. Chúng tôi không cần thêm bất cứ sự cho phép nào nữa.”

“Được, nhưng chúng ta không thể cùng lúc làm việc ở đây, phải không?”

“Có lẽ chúng ta có thể,” Tom nói. “Tôi không có ý định cướp đi người của ông. Cả ngọn đồi là mỏ đá – đủ cho hai hay nhiều nhà thờ chính tòa. Chúng ta có thể tìm cách quản lý mỏ đá để tất cả chúng ta có thể cùng lấy đá.”

“Tôi không thể chấp nhận điều đó,” Harold nói. “Tôi là nhân viên của bá tước.”

“Được, tôi là nhân viên của tu viện Kingsbridge, và người của tôi sẽ bắt đầu làm việc ở đây từ sáng mai, cho dù ông thích hay không thích.”

Một trong hai người lính gác lên tiếng. “Các anh sẽ không làm việc ở đây ngày mai hay bất cứ ngày nào khác.”

Cho đến giờ phút này Tom vẫn cho rằng mặc dù Percy đã vi phạm sắc lệnh hoàng đế bằng cách khai thác đá cho mục đích riêng, nhưng nếu ông ấy bị ép buộc, ông ấy sẽ tuân thủ sự thỏa thuận và cho phép tu viện lấy đá. Nhưng người lính này đã nhận được lệnh đuổi thợ khai thác mỏ đá của tu viện đi. Đó là vấn đề khác. Tuyệt vọng Tom nhận ra rằng ông sẽ không lấy được viên đá nào nếu không chiến đấu.

Người lính gác vừa nói là một người nhỏ con, chắc nịch, chạc hai mươi lăm tuổi, có nét hay gây gỗ. Anh nhìn ngu ngốc, nhưng bướng bỉnh – mẫu người khó có thể nói chuyện lý lẽ. Tom nhìn ông ấy thách thức và nói: “Ông là ai?”

“Tôi là thừa phát lại cho bá tước của Shiring. Ông ra lệnh cho tôi gác mỏ đá này, và đó là nhiệm vụ mà tôi sẽ làm.”

“Và ông muốn thi hành nó như thế nào?”

“Với thanh kiếm này.” Ông chạm vào chuôi kiếm đeo ở thắt lưng.

“Và ông nghĩ nhà vua sẽ làm gì khi ông bị đưa đến nhà vua vì tội phá vỡ hòa bình?”

“Tôi sẵn sàng mạo hiểm.”

“Nhưng các ông chỉ có hai người,” Tom nói bằng giọng hợp lý. “Chúng tôi có bẩy người và bốn thanh niên, và chúng tôi có phép của nhà vua cho làm việc ở đây. Nếu chúng tôi giết ông, chúng tôi sẽ không bị treo cổ.”

Cả hai người lính gác trầm ngâm suy nghĩ, nhưng trước khi Tom có thể đẩy thêm ưu điểm của mình, Otto nói: “Đợi một chút,” ông nói với Tom. “Tôi đem người của tôi đến đây để cắt đá, chứ không phải để đánh nhau.”

Tom mất hứng. Nếu các thợ đá không sẵn sàng chiến đấu thì không có hy vọng. “Đừng quá nhút nhát!” ông nói. “Ông sẵn sàng để bị tước đoạt công việc bởi hai thằng bắt nạt này à?”

Otto cáu kỉnh. “Tôi không chống lại người có vũ trang,” ông lập lại. “Tôi đã có công việc ổn định từ mười năm nay và tôi không bị lệ thuộc vào công việc này. Ngoài ra tôi không biết ai đúng ai sai trong vấn đề này.”

Tom nhìn vào nhóm người còn lại của Otto. Cả hai thợ cắt đá cũng có cùng cái nhìn bướng bỉnh như Otto. Dĩ nhiên họ theo lãnh đạo của họ: ông là bố họ, đồng thời cũng là thợ cả của họ. Và Tom có thể nhận ra quan điểm của Otto. Thực vậy, nếu ông ở vị trí của Otto có lẽ ông cũng có cùng đường lối. Ông sẽ không tham dự vào cuộc đánh nhau với người có vũ khí, trừ khi nó liên quan đến mạng sống của ông.

Mặc dù biết Otto có lý, Tom vẫn không thoải mái, ngược lại nó còn làm ông thất vọng hơn. Ông quyết định thử một lần nữa. “Sẽ không có cuộc đánh nhau,” ông nói. “Họ biết nhà vua sẽ treo cổ họ, nếu họ đánh chúng ta. Chúng ta hãy đốt lửa, và nghỉ qua đêm, và sáng mai sẽ bắt đầu công việc.”

Đề cập đến ngủ đêm là một sai lầm. Một trong hai người con của Otto nói: “Làm sao chúng ta có thể ngủ được khi những kẻ giết người này ở gần đây?”

Những người khác thì thầm đồng ý.

“Chúng ta sẽ cử người gác,” Tom nói một cách tuyệt vọng.

Otto lắc đầu dứt khoát. “Chúng ta sẽ về tối nay. Ngay bây giờ.”

Tom nhìn quanh mọi người và ông biết ông đã thất bại. Ông đã lên đường sáng nay bằng hy vọng lớn lao như thế, và ông khó có thể tin được rằng kế hoạch của ông bị thất bại chỉ vì những tên côn đồ nhỏ bé này. Khó có thể tìm ra lời. Ông không thể không nói lên lời cay đắng sau cùng: “Các ông chống lại nhà vua, và đó là một việc nguy hiểm,” ông nói với Harold. “Ông hãy nói với bá tước của Shring điều đó. Và nói với ông ấy rằng tôi là thợ xây Tom của Kingsbridge, và nếu khi nào bàn tay tôi được ôm lấy chiếc cổ béo của ông ấy, tôi sẽ bóp nó cho đến khi ông ấy nghẹt thở.”

Johnny Eightpence may một tu phục nhỏ cho bé Jonathan, hoàn chỉnh với cả tay áo rộng và mũ đội đầu. Một hình dáng nhỏ trong bộ áo trông thật dễ thương làm cảm động tâm hồn mọi người, nhưng nó không thực tế lắm: Chiếc mũ luôn tụt về phía trước che mắt nó, và khi nó bò đầu gối nó gặp khó khăn với chiếc áo dài.

Vào giữa buổi chiều, khi Jonathan đã có giấc ngủ trrưa, và các tu sĩ cũng vậy, Tu viện trưởng Philip đi qua gian giữa ngôi nhà thờ cũ, bây giờ là sân chơi của các tập sinh, đến với em bé và Johnny Eightpence. Đây là thời điểm trong ngày mà các tập sinh được phép chơi đùa, và Johnny chăm chú xem họ chơi trong khi Jonathan mò mẫm xem hệ thống cọc và dây mà thợ xây Tom đã thiết lập sơ đồ mặt bằng cho gian đầu phía đông của nhà thờ chính tòa.

Philip đứng bên cạnh Johnny một vài phút yên lặng, quan sát đứa bé bò xung quanh. Philip rất hài lòng với Johnny, người thiếu sự hiểu biết nhưng thay vào đó có một trái tim rộng lượng. Jonathan đứng lên, dựa vào cây cọc mà Tom đã đóng xuống đất đánh dấu nơi mái hiên phía bắc sẽ được xây. Nó bám theo sợi dây và bước đi vài bước không vững vàng, chậm rãi. “Chẳng bao lâu nữa nó có thể đi được rồi,” Philip nói với Johnny.

“Thưa cha, nó luôn thử, nhưng thường lại ngã xuống.”

Philip cúi xuống, đưa hai cánh tay về phía Jonathan. “Đi về đây,” ông nói. “Đi nào.”

Jonathan cười toe toét, khoe vài chiếc răng. Nó nắm lấy dây của Tom và đi thêm vài bước. Rồi nó chỉ vào Philip, như nó cần sự giúp đỡ, và bất ngờ buông sợi dây, đi ba bước nhanh, vững chãi.

Philip đỡ nó trong tay và nói: “Tốt quá!” Ông ôm nó, cảm thấy hãnh diện như đó là kết quả của chính ông chứ không phải của em bé.

Johnny hoàn toàn thích thú. “Nó đi được rồi! Nó đi được rồi!”

Jonathan cựa quậy đòi xuống. Philip đặt chân nó xuống để xem nó có thể đi được nữa không; nhưng như thế đã đủ cho ngày hôm nay và ngay lập tức nó bò đến Johnny.

Một vài tu sĩ đã khó chịu, Philip nhớ lại, khi ông mang Johnny và bé Jonathan tới Kingsbridge. Mọi việc đối với Johnny tương đối dễ dàng bao lâu người ta không quên là tự bản chất anh ấy là một đứa bé trong một thân thể đàn ông; và Jonathan đã vượt qua mọi sự phản đối vì sự quyến rũ cá nhân của nó.

Jonathan không phải là nguyên nhân duy nhất gây nên bất ổn trong năm đầu tiên. Các tu sĩ đã bầu một người mà họ chờ đợi sẽ mang lại kinh tế tốt hơn cho tu viện, họ cảm thấy bị lừa khi Philip đưa ra một kế hoạch cắt giảm chi tiêu trong cuộc sống hàng ngày của tu viện. Philip bị tổn thương: ông tỏ ra rõ ràng rằng ưu tiên hàng đầu của ông là xây nhà thờ chính tòa mới. Các người lãnh đạo trong tu viện cũng đã chống lại kế hoạch xóa bỏ sự độc lập về tài chính của họ, ngay cả mặc dù họ biết rõ ràng rằng nếu không cải tổ, tu viện càng ngày càng suy tàn. Và khi ông dành tiền mở rộng thêm đàn cừu của tu viện, gần như đã có một cuộc nổi loạn. Nhưng trong căn bản các tu sĩ vẫn là những người biết vâng lời; và Giám mục Waleran, người khuyến khích nổi loạn, đã đi Roma mất gần một năm; vì thế cuối cũng các tu sĩ cũng chẳng làm gì khác hơn là lẩm bẩm.

Nhiều lúc Philip đã phải cô đơn, nhưng ông chắc chắn kết quả sẽ minh oan cho ông. Chính sách của ông đã đem lại kết quả khả quan. Giá len tăng lên, và Philip đã có thể cắt lông cừu: đó là lý do tại sao ông có thể thuê thợ làm rừng và thợ khai thác đá. Khi tình trạng kinh tế phát triển và việc xây dựng nhà thờ chính tòa tiến triển, vị trí tu viện trưởng của ông không còn bị công kích.

Ông trìu mến vỗ nhẹ vào đầu Johnny Eightpence và đi về phía công trường xây dựng. Với sự giúp đỡ của nhân viên trong tu viện và các tu sĩ trẻ, Tom và Alfred đã bắt đầu đào chân móng. Tuy nhiên, nó chỉ sâu năm hay sáu feet. Tom đã nói với Philip rằng chân móng phải sâu hai mươi lăm feet. Ông cần một số lớn nhân công cùng với thiết bị nâng để đào sâu hơn.

Nhà thờ mới sẽ lớn hơn nhà thờ cũ, nhưng nó vẫn còn quá nhỏ cho một nhà thờ chính tòa. Một phần Philip muốn nó phải là nhà thờ chính tòa dài nhất, cao nhất, giầu nhất và đẹp nhất trong toàn vương quốc, nhưng ông phải kìm lại ước muốn này và tự nhủ lòng mình rằng phải hài lòng với bất cứ nhà thờ nào.

Ông đi vào lều của Tom và nhìn vào sản phẩm gỗ trên ghế băng. Người xây dựng chính đã trải qua cả mùa đông ở đây, làm việc với một thước sắt và một bộ đục tốt, để hoàn thành cái mà ông gọi là mẫu – mô hình bằng gỗ cho thợ xây dùng làm mẫu khi cắt đá. Philip đã chăm chú nhìn với sự ngưỡng mộ trong khi Tom, một người to lớn với bàn tay to, khắc gỗ một cách cẩn thận thành những đường cong hoàn hảo, những góc vuông và góc cạnh chính xác. Bây giờ Philip cầm một mẫu lên và xem xét nó. Nó được tạo thành hình giống như một cánh hoa cúc, một phần tư vòng tròn với nhiều chỗ tròn nhô ra như cánh hoa. Người ta cần những viên đá đó làm gì? Ông thấy những vật này rất khó hình dung, và ông cảm phục khả năng tưởng tượng của Tom. Ông nhìn bản vẽ của Tom, khắc trên thạch cao trên khung gỗ, và nhận ra rằng ông đang cầm một mẫu cho đầu cột trụ của khu mái vòm, nó trông giống như cụm của những cột, nhưng bây giờ ông nhận ra đó chỉ là tưởng tượng: trong thực tế cột trụ là những hàng cột bằng đá với sự trang trí như những trục.

Năm năm, Tom đã nói, và gian đầu phía đông nhà thờ sẽ hoàn tất. Năm năm, và Phlip lại có thể dâng lễ trong nhà thờ chính tòa. Tất cả những gì ông phải làm là tìm ra tiền. Năm nay sẽ khó góp được đủ tiền để có thể khiêm tốn bắt đầu, bởi vì sự cải cách của ông cần thời gian, nhưng năm sau, khi ông bán len mới mùa xuân, ông sẽ có khả năng thuê thêm nhiều thợ thủ công và bắt đầu xây dựng một cách nghiêm túc.

Chuông chiều báo hiệu giờ kinh tối. Philip rời nhà kho và đến lối đi vào tầng hầm. Nhìn qua cổng tu viện, ông ngạc nhiên thấy thợ xây Tom đi vào với tất cả các thợ đá. Tại sao họ lại trở về? Tom đã nói ông sẽ đi một tuần và những thợ đá sẽ ở lại đó luôn. Philip vội vã gặp họ.

Khi đến gần ông thấy họ mệt mỏi và chán nản, như có một điều gì thất vọng khủng khiếp đã xẩy ra. “Chuyện gì vậy?” ông nói. “Tại sao các ông lại về?”

“Tin xấu,” thợ xây Tom nói.

Trong cả giờ kinh tối, Philip cố nén cơn giận. Những gì Bá tước Percy làm là thái quá. Quy định về quyền lợi rất rõ ràng và chỉ thị của nhà vua không thể bị hiểu lầm: chính bá tước có mặt khi thông báo được đưa ra và quyền khai thác đá của tu viện được ghi rõ trong điều lệ. Đôi chân Philip bước trên sàn đá trong một nhịp điệu khẩn cấp và giận dữ. Ông đang bị cướp. Percy đang ăn cướp những đồng xu của nhà thờ. Không có lý do nào bào chữa cho hành động đó. Percy bất chấp cả Thiên Chúa lẫn nhà vua. Nhưng tệ hơn cả là Philip không thể xây nhà thờ mới nếu không được lấy đá từ mỏ. Ông đã bắt đầu với một ngân sách khiêm tốn nhất, và nếu ông phải mua đá ngoài thị trường, và chuyên chở nó từ xa về, ông không còn khả năng xây dựng. Ông sẽ phải đợi thêm một hay nhiều năm nữa, và rồi sáu hay bẩy năm nữa ông mới lại được dâng thánh lễ trong nhà thờ chính tòa. Ông không thể chịu đựng được khi nghĩ về đó.

Ông triệu tập một cuộc họp khẩn cấp sau giờ kinh chiều và thông tin cho các tu sĩ.

Ông đã phát triển một kỹ thuật điều hành cuộc họp. Remigius, tu viện phó, vẫn còn ác cảm với Philip vì đã thất bại trong cuộc bầu cử, và ông vẫn thường tỏ sự bất mãn của mình khi công việc kinh doanh của tu viện được thảo luận. Ông là một nhà mô phạm bảo thủ, thiếu sáng tạo, vì thế mà ông không đồng ý với cách điều hành tu viện của Philip. Những tu sĩ đã ủng hộ Remigius trong cuộc bầu cử có khuynh hướng thiên về ông trong buổi họp: Andrew, người phụ trách phụng vụ; Pierre, người có trách nhiệm về kỷ luật; và John Small, người giữ kho báu lười biếng. Tương tự như vậy, những tu sĩ gần gũi nhất với Philip là những người đã vận động tranh cử cho ông: Cuthbert Whitehead, người quản lý già; và Milius trẻ, người mà Philip trao cho chức đặc trách về tài chánh, một chức vụ Philip mới đặt ra có nhiệm vụ kiểm soát tài chánh của tu viện.

Philip luôn luôn để Milius thảo luận với Remigius. Thông thường Philip thảo luận với Milius về mọi vấn đề quan trọng trước cuộc họp. Trong trường hợp khác, ông có thể tin tưởng Milius sẽ đưa ra một quan điểm tương tự như ông. Sau đó Philip có thể đúc kết lại giống như một trọng tài không thiên vị. Mặc dù Remigius hiếm có cơ hội theo ý riêng của ông, nhưng Philip vẫn chấp nhận một số lập luận của ông hoặc thông qua một phần đề xuất của ông, để duy trì cảm giác về một cách lãnh đạo dựa trên sự đồng nhất của mọi người.

Các tu sĩ tức giận về những gì Bá tước Percy đã làm. Tất cả họ đã vui mừng khi biết nhà vua cho tu viện khai thác gỗ và đá không giới hạn, và bây giờ họ bực mình về việc Percy chống lại lệnh vua.

Khi bầu khí sôi nổi đã dịu, Remigius đưa ra một quan điểm khác. “Tôi nhớ tôi đã nói cách đây một năm,” ông bắt đầu. “Một hiệp ước, trong đó quy định mỏ đá thuộc quyền sở hữu của lãnh chúa và chúng ta có quyền khai thác, thì không thể đạt yêu cầu. Từ đầu chúng ta phải cố gắng có được quyền sở hữu trên mỏ đá.”

Trong lời nhận xét này có vài điều đúng và Philip không dễ nuốt nó. Quyền sở hữu là điều mà ông đã đồng ý với bà Regan, nhưng bà đã lừa ông vào phút cuối. Ông định nói rằng ông đã xử lý tốt nhất những gì ông có thể và ông muốn thấy Remigius có thể làm gì tốt hơn trong hoàng cung; nhưng ông cắn lưỡi nhường nhịn, vì là một tu viện trưởng, sau cùng ông phải chịu trách nhiệm cho mọi sự sai trái.

Milius mở lời cứu. “Nếu nhà vua đã cho chúng ta quyền sở hữu trên hầm mỏ thì quá tốt, nhưng ông đã không cho, và câu hỏi là, chúng ta phải làm gì bây giờ?”

“Tôi nghĩ nó đã khá rõ ràng,” Remigius vội vã nõi. “Chúng ta không thể tự đuổi những người của bá tước, vì thế chúng ta cần xin nhà vua làm chuyện đó. Chúng ta phải gửi một phái đoàn đến nhà vua và yêu cầu ông thực hiện quy định của ông.”

Có tiếng thì thầm tán thành. Andrew, người phụ trách phụng vụ nói: “Chúng ta phải gửi người thông thái và ăn nói lưu loát nhất.”

Philip nhận ra Remigius và Andrew coi họ như thành phần lãnh đạo của phái đoàn.

Remigius nói: “Sau khi nhà vua đã nghe những gì đã xẩy ra, tôi nghĩ Percy Hamleigh sẽ không được là bá tước nữa.”

Philip không chắc chắn về chuyện đó.

“Nhà vua ở đâu?” Andrew hỏi. “Có ai biết không?”

Gần đây Philip đã ở Winchester, và đã nghe nói về chương trình của nhà vua. “Nhà vua đã đến Normandy,” ông nói.

Milius nhanh chóng nói: “Sẽ mất một thời gian dài mới bắt kịp nhà vua.”

“Việc theo đuổi công lý luôn đòi hỏi sự kiên nhẫn,” Remigius tuyên bố trịnh thượng.

“Nhưng nếu mỗi ngày đi đuổi theo công lý, chúng ta sẽ không xây dựng được nhà thờ,” Milius đáp lại. Giọng ông tỏ ra rằng ông bực tức vì Remigius muốn trì hoãn kế hoạch xây dựng. Philip cũng có cùng cảm giác. Milius tiếp tục: “Và đó không phải là vấn đề duy nhất của chúng ta. Một khi chúng ta gặp nhà vua, chúng ta phải thuyết phục ông lắng nghe chúng ta. Điều đó mất hàng tuần. Rồi có lẽ ông ta sẽ cho Percy cơ hội để bào chữa – rồi lại tiếp tục chờ đợi…”

“Làm sao Percy có thể bào chữa mình?” Remigius gắt gỏng nói.

Milius trả lời: “Tôi không biết, nhưng tôi chắc chắn ông ấy có một kế hoạch.”

“Nhưng sau cùng nhà vua phải giữ lời mình.”

Một giọng mới nói vang lên: “Đừng nên chắc chắn như vậy.” Mọi người quay lại nhìn. Người vừa lên tiếng là thầy Timothy, người tu sĩ già nhất trong tu viện. Một người nhỏ bé, khiêm tốn, ít khi nói, nhưng khi ông nói, lời của ông đáng nghe. Một đôi khi Philip nghĩ chính ra ông phải là tu viện trưởng. Thường thường trong cuộc họp, ông ngồi như ngủ gật, nhưng bây giờ ông nghiêng người về phía trước, mắt sáng lên quả quyết. “Nhà vua là người của thời điểm,” ông tiếp tục. “Nhà vua luôn bị đe dọa bởi cuộc nổi loạn trong nước và từ các nước láng giềng. Ông ấy cần đồng minh. Bá tước Percy là người có quyền lực và có nhiều hiệp sĩ. Nếu nhà vua cần Percy vào thời điểm chúng ta xin kiến nghị, chúng ta sẽ bị từ chối, hoàn toàn không tùy thuộc vào sự công bằng trong trường hợp của chúng ta. Nhà vua không hoàn hảo. Chỉ có một thẩm phán thực sự, và đó là Thiên Chúa.”

Ông ngồi xuống, dựa người vào tường và nhắm mắt lại, như thể không màng quan tâm đến lời nói của mình có được tán thành không. Philip dấu một nụ cười: Timothy đã nói lên chính xác sự lo ngại của Philip khi cầu cứu sự công bằng nơi nhà vua.

Remigius miễn cưỡng phải từ bỏ viễn tượng có một chuyến đi thú vị đến Pháp và lưu lại trong triều đình; nhưng ông không thể chống lại lập luận của Timothy. “Vậy chúng ta có thể làm gì khác?” Ông hỏi.

Philip không chắc chắn. Cảnh sát trưởng không có khả năng can thiệp trong trường hợp này: Percy có quá nhiều quyền lực, ông không để bị kiểm soát bởi một viên cảnh sát trưởng. Và cả hai phía cũng không thể dựa trên giám mục. Thật thất vọng! Nhưng Philip không muốn ngồi nhìn thất bại. Ông phải tự lấy lại hầm mỏ…

Ông có một ý tưởng.

“Cho tôi một phút,” ông nói.

Chỉ cần tất cả các tu sĩ còn khỏe mạnh làm theo… chỉ cần tổ chức cẩn thận, giống như một đội quân không vũ khí… và cần thực phẩm cho hai ngày đường…

“Tôi không biết nó có thành công không, nhưng nên thử,” ông nói. “Hãy cho tôi nói.”

Ông nói cho họ kế hoạch của ông.

Ngay sau đó họ chuẩn bị lên đường: ba mươi tu sĩ, mười tập sinh, Otto Blackface và đội công nhân cắt đá của ông, thợ xây Tom và Alfred, hai con ngựa và một chiếc xe. Khi trời tối họ thắp đèn soi đường đi. Vào giữa đêm họ dừng lại ăn đồ ăn dã ngoại đã được chuẩn bị vội vàng: thịt gà, bánh mì trắng và rượu nho đỏ. Philip luôn quan niệm rằng công việc khó khăn nên được thưởng bằng đồ ăn ngon. Khi đi họ hát kinh mà thông thường họ sẽ làm khi ở trong tu viện.

Vào một thời điểm tối nhất, thợ xây Tom, người dẫn đường, giơ một tay lên ra hiệu cho mọi người dừng lại. Ông ấy nói với Philip: “Chỉ còn một dặm nữa là đến mỏ đá.”

“Tốt,” Philip nói. Ông quay về phía các tu sĩ. “Hãy cởi guốc và dép ra, và mang giầy nỉ vào.” Ông cởi dép của ông ra và đeo đôi giầy nỉ mà nông dân thường mang trong mùa đông.

Ông chọn ra hai tập sinh. “Edward và Philemon, ở lại đây với các con ngựa và xe. Hoàn toàn giữ im lặng và chờ cho đến khi trời sáng, rồi nhập đoàn với chúng tôi. Rõ chưa?”

“Vâng, thưa cha,” họ cùng nhau nói.

“Được rồi, những người còn lại,” Philip nói. “Hãy theo thợ xây Tom, bây giờ tất cả xin vui lòng hoàn toàn im lặng.”

Tất cả họ lại bước đi.

Gió phía tây thổi nhẹ, và tiếng xào xạc của lá cây che lấp hơi thở của năm mươi người và tiếng chân của năm mươi đôi giầy nỉ. Philip bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Kế hoạch mà ông đưa ra thực hiện có vẻ điên rồ. Ông âm thầm đọc một lời kinh xin cho được thành công.

Con đường cong về bên trái và ánh đèn chập chờn soi tỏ một túp lều gỗ, một đống đá đã gần hoàn thành, một số thang và giàn giáo, và phía xa là một ngọn đồi đen có những vết sẹo trắng vì đã bị khai thác đá. Bất ngờ Philip tự hỏi không biết những người ngủ trong lều có chó không. Nếu họ có, Philip sẽ mất đi yếu tố bất ngờ và toàn bộ kế hoạch bị ảnh hưởng. Nhưng đã quá muộn để quay về.

Đám người tản mác đàng sau túp lều. Philip nén thở, chờ đợi tiếng chó sủa. Nhưng may mắn không có chó.

Ông phân tán người xung quanh giàn giáo. Ông tự hào về họ vì họ hoàn toàn yên lặng. Giữ yên lặng là một điều khó, ngay cả trong nhà thờ. Có lẽ họ quá sợ để gây nên tiếng động.

Thợ xây Tom và Otto Blackface âm thầm đặt người cắt đá xung quanh công trường. Họ chia thành hai nhóm. Một nhóm tụ tập trên mặt đất gần sườn đá. Nhóm kia trèo lên giàn giáo. Khi họ đã vào vị trí, Philip hướng dẫn các tu sĩ qua cử chỉ để đứng hay ngồi quanh các công nhân. Còn ông đứng riêng, ở khoảng giữa túp lều và sườn đá.

Cách hoạch định thời gian của họ hoàn hảo. Bình minh lên một vài phút sau khi Philip đã ổn định vị trí cuối cùng. Ông lấy một cây nến từ túi áo khoác và châm lửa từ cây đèn, sau đó ông nhìn các tu sĩ và nâng cao cây nến. Đó là một tín hiệu được quy định trước. Bốn mươi tu sĩ và tập sinh, mỗi người lấy cây nến ra và châm lửa. Hiệu quả thật ấn tượng. Ngày mới bắt đầu trên quặng mỏ hoàn toàn yên lặng, những bóng ma cầm ánh nến nhỏ bé, chập chờn.

Philip quay lại phía túp lều. Vẫn chưa có dấu hiệu của sự sống. Ông quyết định chờ đợi. Các tu sĩ rất giỏi về việc đó. Đứng hàng giờ là một phần trong đời sống hàng ngày của họ. Tuy nhiên, các nhân công không quen với việc đó, và sau một lúc họ không còn kiên nhẫn, họ cựa quậy đôi chân và thì thào với nhau; nhưng việc đó bây giờ không còn quan trọng.

Không biết tiếng thì thầm hay ánh sáng ban ngày đánh thức người đang ngủ trong lều. Philip nghe có tiếng ho và khạc nhổ, sau đó là tiếng động như của một thanh gỗ được nâng lên đàng sau cửa. Ông giơ tay ra hiệu im lặng.

Cánh cửa túp lều bật mở. Philip giơ tay lên. Một người bước ra, tay dụi mắt. Philip biết ông qua lời miêu tả của Tom, đó là Harold thành Shiring, thợ mỏ chính.

Trước hết ông không thấy điều gì bất thường. Ông dựa vào thành cửa và ho khù khụ như một người đã hút quá nhiều bụi đá vào trong phổi. Philip bỏ tay xuống. Một nơi nào đó sau ông, người ca trưởng bắt giọng và tất cả các tu sĩ cất tiếng hát. Hầm mỏ tràn ngập âm thanh kỳ lạ.

Harold hoảng hồn. Đầu ông bị giật ngược lên. Mắt ông mở to và hàm ông trễ xuống khi ông nhìn thấy ca đoàn như bóng ma xuất hiện trong mỏ đá của ông. Một tiếng kêu sợ hãi phát ra từ miệng ông. Ông loạng choạng trở lại vào trong lều.

Philip cho phép mình mỉm cười hài lòng. Sự khởi đầu tốt đẹp.

Tuy nhiên sự sợ hãi về siêu nhiên sẽ không kéo dài lâu. Ông giơ tay và vẫy mà không quay đầu lại. Đáp lại dấu hiệu của ông, các thợ mỏ bắt đầu làm việc và tiếng va chạm của sắt trên đá tạo thành âm thanh của dàn hợp xướng.

Hai ba khuôn mặt sợ hãi nhìn từ cửa ra vào. Từ từ họ nhận ra rằng họ đang thấy những tu sĩ và các công nhân bình thường, bằng xương bằng thịt chứ không phải thị kiến hay siêu nhiên, và họ bước ra ngoài nhìn cho rõ hơn. Hai người lính gác đi ra, đeo kiếm và nhìn chăm chú. Đây là giờ phút quan trọng cho Philip: Hai người lính gác sẽ làm gì?

Nhìn vào họ, những người lính to lớn, râu ria và dơ bẩn, với dây thắt lưng sắt, với gươm và dao găm, và áo da nặng, Philip nhớ lại rõ nét và sinh động cảnh hai người lính xông vào nhà khi ông sáu tuổi và giết bố mẹ ông. Bất ngờ và không chờ đợi một niềm đau xót về bố mẹ nhói trong lòng ông. Ông ghê tởm nhìn vào quân của Bá tước Percy, không thấy chúng mà thay vào đó thấy một người đàn ông xấu xí với một mũi quặp và một người da đen có máu trên bộ râu; ông đầy tức giận và ghê tởm, và ông quyết tâm đánh bại bọn côn đồ ngu đần, vô thần này.

Một lúc lâu họ không làm gì. Dần dần tất cả thợ khai thác đá của bá tước ra khỏi lều. Philip đếm: tất cả là mười hai người thợ và hai người lính gác.

Mặt trời hé ra trên đường chân trời.

Thợ đá của Kingsbridge đã đào được đá ra. Nếu các lính gác muốn ngưng họ lại, họ sẽ phải chạm vào các tu sĩ đang bao vây bảo vệ các công nhân của họ. Philip đoán rằng các lính gác sẽ do dự dùng bạo lực với các tu sĩ đang cầu nguyện.

Cho đến lúc này ông đã đúng: họ đang do dự.

Hai tập sinh, người đã ở lại phía sau, mang theo ngựa và xe đến. Họ nhìn quanh sợ hãi. Philip dùng tay ra hiệu cho họ phải kéo xe tới chỗ nào. Rồi ông quay lại nhìn Tom và gật đầu.

Nhiiều tảng đá đã được cắt trong thời gian này, và bây giờ Tom chỉ định vài tu sĩ trẻ đem đá chất lên xe. Người của bá tước chăm chú theo dõi những biến chuyển. Những tảng đá quá nặng mà một người không thể vác được, vì thế họ phải dùng dây hạ chúng xuống khỏi giàn giáo, rồi dùng cáng khiêng chúng. Khi viên đá đầu tiên được cho vào xe, người lính gác đi vào trong đám đông với Harold. Một viên đá khác lại được cho vào xe. Hai người lính gác tách đám đông chung quanh lều và đi tới xe. Một trong các tập sinh, Philemon, trèo vào trong xe và ngồi trên tảng đá, nhìn thách thức. Chàng trai dũng cảm! Philip nghĩ, nhưng ông lo sợ.

Họ đi đến gần xe. Bốn tu sĩ, người đã khênh hai tảng đá, đứng đàng trước xe, tạo thành rào cản. Philip hồi hộp. Những người đàn ông dừng lại, mặt đối mặt với các tu sĩ. Cả hai người để tay vào chuôi kiếm. Tiếng ca im bặt khi mọi người nín thở theo dõi.

Chắc chắn, Philip nghĩ, họ sẽ không dám dùng kiếm chống lại những tu sĩ không có gì để tự vệ này. Rồi ông nghĩ, nó thật dễ dàng cho những người đàn ông này, những người to lớn, khỏe mạnh và đã quen với chiến trường, để đâm thanh kiếm của họ qua những người này, những người mà họ không phải sợ hãi gì, ngay cả sự trả thù. Chắc chắn họ phải cân nhắc hình phạt của Thiên Chúa vì họ đã mạo hiểm giết người của Ngài. Ngay cả những tên côn đồ như thế này phải biết rằng họ sẽ phải đứng trước tòa phán xét sau cùng. Họ có sợ lửa đời đời không? Có lẽ, nhưng họ cũng sợ chủ của họ, Bá tước Percy. Philip đoán rằng điều trên hết họ suy nghĩ bây giờ là liệu bá tước có coi lý do thất bại, không ngăn cản những người của Kingsbridge khỏi hầm mỏ, là chính đáng không. Ông nhìn họ do dự trước các tu sĩ trẻ, bàn tay trên chuôi kiếm. Ông tưởng tượng họ cân nhắc giữa sự đe dọa của Percy và cơn thịnh nộ của Thiên Chúa.

Hai người đàn ông nhìn nhau. Một người lắc đầu. Người khác nhún vai. Họ cùng nhau đi ra khỏi khu mỏ đá.

Ca trưởng bắt một nốt mới và các tu sĩ nổ tung ra trong một bài thánh ca chiến thắng. Các thợ mỏ reo hò vì chiến thắng và Philip nhẹ hẳn người. Trong một vài khoảnh khắc tưởng chừng đã có nguy hiểm. Bây giờ ông rạng rỡ vì vui. Mỏ đá thuộc về ông.

Ông tắt nến và đi tới xe. Ông ôm bốn tu sĩ, những người đã dám đương đầu với lính gác, và hai tập sinh, những người đã đem xe tới. “Tôi hãnh diện về anh em,” ông nói chân thành. “Và tôi tin Thiên Chúa cũng vậy.”

Các tu sĩ và các thợ mỏ bắt tay và chúc mừng lẫn nhau. Otto Blackface đi đến Philip và nói: “Thật vĩ đại, cha Philip ạ. Ông là người can đảm, nếu tôi được phép nói như vậy.”

“Thiên Chúa phù trợ chúng ta,” Philip nói. Mắt ông nhìn vào đám thợ mỏ của bá tước đang đứng chán nản quanh cửa lều của họ. Ông không muốn biến họ thành thù nghịch, bởi vì Percy có thể tiếp tục dùng họ để gây thêm rắc rối. Philip quyết định nói chuyện với họ.

Ông nắm tay Otto và dẫn ông đến lều ngủ. “Ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện hôm nay,” ông nói với Harold. “Tôi hy vọng, các anh sẽ không tức giận.”

“Chúng tôi sẽ thất nghiệp,” Harold nói. “Đó là điều khó khăn cho chúng tôi.”

Bất ngờ Philip thấy một cách để cho Harold theo về phía ông. Một cách bốc đồng ông nói: “Các ông có thể trở lại làm việc ngay hôm nay, nếu các ông muốn. Làm việc cho tôi. Tôi sẽ thuê cả nhóm các ông. Ngay cả các ông có thể ở lại trong lều của các ông.”

Harold ngạc nhiên về những thay đổi nhanh chóng này. Ông sửng sốt nhìn, sau đó ông bình tĩnh lại và nói: “Tiền công là bao nhiêu?”

“Giá trung bình,” Philip đáp lại kịp thời. “Hai xu một ngày cho thợ thủ công, một xu cho người lao động, bốn xu cho ông, và ông phải trả cho người học nghề.”

Harold quay đi, nhìn vào những người thợ của ông. Philip cho Harold đi để họ thảo luận về đề nghị này một cách riêng tư. Philip thật sự không đủ khả năng thuê thêm mười hai người, và nếu họ chấp nhận đề nghị của ông, ông sẽ phải trì hoãn việc thuê thợ xây. Điều đó có nghĩa là số đá được cắt nhanh hơn so với với nhu cầu. Ông có thể xây một kho dự trữ, nhưng tiền mặt sẽ khan hiếm. Tuy nhiên, nếu có những thợ đá của Percy trong đội công nhân của tu viện thì đó sẽ là một sự phòng thủ tốt. Nếu Percy muốn lấy đá một lần nữa cho chính ông, trước hết ông phải thuê một toán thợ mỏ; điều đó có thể khó khăn một khi tin tức về sự việc hôm nay được truyền đi. Và nếu trong tương lai Percy có mưu kế khác để đóng cửa mỏ, Philip đã có sẵn một số đá dự trữ.

Harold dường như tranh cãi với thợ của ông. Sau vài phút ông trở lại với Philip. “Nếu chúng tôi làm việc cho ông, ai sẽ là người chịu trách nhiệm?” ông nói. “Tôi hay thợ mỏ chính của ông?”

“Otto là người chịu trách nhiệm,” Philip nói không do dự. Harold chắc chắn không thể chịu trách nhiệm để tránh tình trạng ông trở về với Percy. Và cũng không thể có hai thợ chính vì sẽ dẫn đến tranh chấp. “Ông vẫn có thể điều hành nhóm của ông,” Philip nói với Harold. “Nhưng Otto vẫn là xếp của ông.”

Harold thất vọng quay về với nhóm của ông. Cuộc thảo luận lại tiếp tục. Thợ xây Tom nhập đoàn với Philip và Otto. “Kế hoạch của ông thành công, thưa cha,” ông nói với nụ cười rộng. “Chúng ta chiếm lại được hầm mỏ mà không đổ một giọt máu nào. Ông thật tuyệt vời.”

Philip có khuynh hướng chấp nhận lời khen, nhưng ông nhận ra ông phạm tội kiêu ngạo. “Chính Chúa đã làm phép lạ,” ông nói để nhắc nhở chính mình cũng như nhắc nhở Tom.

Otto nói: “Cha Philip đã đề nghị thuê Harold và thợ của ông ta để cùng làm việc với tôi.”

“Thật sao?” Tom không hài lòng. Việc tuyển thợ thủ công là trách nhiệm của thợ xây dựng tổng thể chính, chứ không phải của tu viện trưởng. “Tôi không nghĩ, ông ấy có đủ tiền để thuê thêm người.”

“Tôi không thể,” Philip thừa nhận. “Nhưng tôi không muốn những người này lang thang không có gì làm, rồi chờ đợi Percy và nghĩ ra một cách khác dành lại mỏ đá.”

Tom trầm tư suy nghĩ, rồi ông gật đầu. “Và nó cũng chẳng có hại gì khi chúng ta có một số đá dự trữ, trong trường hợp Percy thành công.”

Philip vui vì Tom cũng có cùng suy nghĩ như ông.

Dường như Harold đã thỏa thuận được với nhân viên của ông. Ông trở lại với Philip và nói: “Ông có đồng ý trao tiền lương cho tôi và cho tôi được chia tiền phù hợp theo ý tôi?”

Philip lưỡng lự. Nó có nghĩa là người thợ chính có thể nhận nhiều hơn phần lương của ông. Nhưng ông nói: “Điều đó tùy thuộc thợ xây dựng tổng thể chính.”

“Thông thường là như vậy,” Tom nói. “Nếu đó là điều mà thợ của ông muốn, tôi cũng đồng ý.”

“Nếu như vậy, chúng tôi đồng ý,” Harold nói.

Harold và Tom bắt tay nhau. Philip nói: “Thế thì mọi người đạt được điều mà họ muốn. Tốt thôi!”

“Có một người không được cái mà họ muốn,” Harold nói.

“Ai vậy?” Philip hỏi.

“Vợ của Bá tước Percy, Regan,” Harold buồn rầu nói. “Khi bà ấy biết những gì xẩy ra ở đây, thì sẽ có một cuộc đổ máu.”

II

Hôm nay không đi săn bắn, vì thế những thanh niên ở lâu đài chơi một trong những trò chơi mà William Hamleigh ưa thích, đó là ném đá những con mèo.

Có rất nhiều mèo trong lâu đài, vì thế có thêm hoặc bớt một con cũng không sao. Những thanh niên đóng cửa ra vào, kéo cửa sổ của hội trường xuống, và đẩy đồ đạc dựa vào tường để mèo không thể trốn sau chúng; sau đó họ đổ một đống đá giữa phòng. Một con mèo già, chuyên gia bắt chuột, có lông màu xám, cảm nhận được bầu khí khát máu, nên ra ngồi gần cửa, hy vọng có thể chạy ra.

Mỗi người phải bỏ một xu vào trong nồi cho mỗi viên đá họ ném, và người nào ném chết con mèo sẽ được nhận chiếc nồi.

Khi họ rút thăm xem ai ném đá trước, con mèo trở nên bồn chồn, chạy qua chạy lại trước cửa ra vào.

Walter ném trước. Đó là sự may mắn, bởi vì mặc dù con mèo đã cảnh giác, nhưng nó vẫn chưa biết trò chơi nên có thể bị bất ngờ. Quay lưng lại phía con thú, Walter nhặt một viên đá và dấu nó trong tay; rồi ông nhìn quanh và bất ngờ ném.

Ông ném trật. Viên đá trúng vào cửa và con mèo nhảy lên và chạy. Những thanh niên khác cười chế nhạo.

Người ném thứ hai là người không may mắn, vì con mèo vẫn còn khỏe và đôi chân còn nhanh nhẹn, nhưng sau này nó sẽ mệt mỏi và có thể bị thương. Tới phiên một cận vệ trẻ. Cậu quan sát con mèo chạy xung quanh phòng tìm một lối ra, và đợi cho đến khi nó đi chậm lại; rồi cậu ném. Nó là một cú ném tốt, nhưng con mèo nhìn thấy và tránh được. Những người khác rên lên vì thất vọng.

Nó lại chạy quanh phòng, bây giờ nó chạy nhanh hơn vì hoảng sợ, nhẩy lên đống bàn ghế được xếp dựa vào tường, rồi nhẩy xuống. Một hiệp sĩ già sẽ ném kế tiếp. Ông làm bộ ném để xem con mèo nhẩy như thế nào, rồi ông ném thật khi nó chạy, nhắm vào một chút phía trước của nó. Những người khác vỗ tay khen sự xảo quyệt của ông, nhưng con mèo nhìn thấy hòn đá đến và bất ngờ dừng lại. Nó tránh được hòn đá.

Trong tuyệt vọng con mèo cố gắng trốn đàng sau một chiếc rương bằng gỗ sồi trong một góc phòng. Người ném kế tiếp nhìn thấy cơ hội và lợi dụng nó: ông ném ngay khi con mèo đứng yên và trúng mông của nó. Tiếng cổ vũ vang lên. Con mèo từ bỏ chỗ ẩn trú đàng sau chiếc rương và chạy quanh phòng, nhưng bây giờ nó đi khập khiễng và chậm hơn.

Đến lượt William.

Cậu nghĩ cậu có thể giết con mèo nếu cậu cẩn thận. Để làm cho nó mệt hơn, cậu la hét cho nó chạy nhanh hơn; rồi cậu làm bộ ném và nó lại chạy. Nếu ai đó đã trì hoãn trò chơi như thế, người đó sẽ bị la ó, nhưng Wiilliam là con của bá tước, vì thế họ kiên nhẫn chờ đợi. Con mèo đi chậm lại vì đau đớn. Nó đến bên cửa ra vào một cách hy vọng. William giơ cánh tay lên. Không ngờ con mèo lại dừng lại, dựa người vào bức tường bên cánh cửa. William bắt đầu ném. Trước khi viên đá rời khỏi tay cậu, cánh cửa bật mở, và một linh mục mặc áo đen đứng giữa cửa. William ném, nhưng con mèo nhẩy lên giống như một mũi tên bật ra khỏi cây cung và hú lên đắc thắng. Vị linh mục ở cửa hét lên kinh hãi và nắm chặt áo choàng của mình. Các thanh niên bật cười. Con mèo bắn vào chân linh mục, rồi rơi xuống chân ông và thoát ra khỏi cửa. Vị linh mục đứng chết lặng giống như một bà già hoảng sợ vì một con chuột, và những thanh niên cười rống lên.

William nhận ra vị linh mục. Đó là Giám mục Waleran.

Cậu cười to hơn nữa. Việc một linh mục nữ tính hoảng hốt vì một con mèo, cộng thêm ông ấy lại là kẻ thù của gia đình nên nó lại càng thú vị hơn.

Vị giám mục lấy lại bình tĩnh nhanh chóng. Mặt ông đỏ bừng, chỉ ngón tay vào William và nói bằng giọng chói tai: “Anh sẽ phải đau khổ đời đời trong tầng sâu nhất của hỏa ngục.”

Trong nháy mắt tiếng cười của William biến thành nỗi sợ hãi. Mẹ cậu đã gây cho cậu những cơn ác mộng. Khi cậu còn nhỏ, bà đã kể cho cậu về những gì quỷ làm cho những người trong hỏa ngục: đốt họ trong lửa, chọc mắt họ ra, cắt chỗ kín của đàn ông bằng dao sắc. Và từ đó cậu ghét nghe nói về chuyện đó. “Im đi!” cậu hét lên với giám mục. Cả phòng im lặng. William rút dao và đi về phía Waleran. “Ông đừng đến đây giảng đạo, con rắn độc ạ.” Waleran không sợ gì, nhưng ông có vẻ thích thú tìm kiếm điểm yếu của William; và điều đó làm William giận dữ hơn. “Tôi sẽ cho ông biết tay…”

Cậu đủ điên tiết để đâm lưỡi dao vào vị giám mục, nhưng cậu ngưng lại vì một giọng nói từ cầu thang phía sau cậu: “William, đủ rồi!”

Đó là bố cậu.

William dừng lại và một lúc sau cậu cho dao vào vỏ.

Waleran bước vào trong phòng. Một linh mục khác theo sau ông và đóng cửa lại: Dean Baldwin.

Ông bố nói: “Tôi ngạc nhiên khi gặp ông, thưa giám mục.”

“Bởi vì trong lần gặp sau cùng, ông đã tạo cho tu viện trưởng cơ hội phản bội đàng sau lưng tôi, phải không? Đúng, tôi nghĩ ông sẽ ngạc nhiên. Tôi không phải là người dễ tha thứ.” Ông đưa mắt lạnh nhìn William một lúc, rồi lại nhìn ông bố. “Nhưng tôi không mang mối hận khi nó thuận theo quyền lợi của tôi. Chúng ta cần nói chuyện với nhau.”

Ông bố gật đầu trầm tư. “Tốt hơn mời ông lên lầu. Cả con nữa, William.”

Giám mục Waleran và Dean Baldwin leo cầu thang lên nơi ở của bá tước, và William theo sau. Cậu thất vọng vì con mèo đã trốn thoát. Mặt khác cậu nhận ra rằng cậu đã may mắn thoát hiểm: nếu cậu đâm giám mục, có lẽ cậu sẽ bị treo cổ. Nhưng William ghét điệu bộ kiểu cách và sự tinh xảo của Waleran.

Họ đi vào phòng ngủ của ông bố, nơi William đã hãm hiếp Aliena. Mỗi lần vào đây cậu lại nhớ lại cảnh đó: thân thể trắng ngần của cô, sự sợ hãi trên nét mặt của cô, tiếng hét của cô, khuôn mặt nhăn nhó của em cô khi cậu bị bắt buộc phải chứng kiến cảnh tượng đó, và rồi – nước bài xuất sắc nhất của William - cậu đã để cho Walter hưởng thụ cô sau đó. Cậu ước muốn giữ cô ở đây như một tù nhân, vì thế cậu sẽ có cô bất cứ khi nào cậu cần.

Từ ngày đó cậu bị ám ảnh vì cô. Cậu đã cố gắng tìm cô. Một ông kiểm lâm bị bắt khi đang bán con ngựa chiến của William ở Shiring. Khi bị tra tấn ông thú nhận đã ăn cắp con ngựa của một cô gái mà theo lời mô tả của ông, cô ấy là Aliena. William đã nghe được từ nhà tù Winchester rằng cô đã thăm viếng bố cô trước khi ông ấy qua đời. Và bà bạn của cậu, Kate, chủ nhà điếm nơi cậu thường xuyên lui tới, kể với cậu rằng bà đã đề nghị cho cô một chỗ trong nhà bà. Nhưng sau cùng dấu vết cô đã mất.

“Đừng bận tâm về chuyện đó, chàng trai ạ.” Kate thông cảm nói. “Cậu muốn ngực lớn và tóc dài? Chúng tôi có cho cậu. Tại sao tối nay không lấy Betty và Millie cùng một lúc, để cậu có riêng cho cậu bốn bộ ngực to? “Nhưng Betty và Millie không còn ngây thơ, không sợ hãi đến chết và họ không làm vừa lòng cậu. Kể từ đêm với Aliena trong căn phòng bá tước này, cậu thực ra chưa hài lòng với bất kỳ một phụ nữ nào.

Cậu ngưng không còn nghĩ về cô nữa. Giám mục Waleran đang nói chuyện với mẹ. “Tôi đoán rằng bà biết tu viện Kingsbridge đã chiếm quyền sở hữu mỏ đá của bà?”

Họ chưa biết. William ngạc nhiên và bà mẹ tức giận. “Cái gì?” bà nói. “Bằng cách nào?”

Các lính canh đã đuổi được các thợ đá ra khỏi mỏ, nhưng ngày hôm sau khi họ thức giấc họ thấy mỏ đá tràn ngập các tu sĩ đang hát thánh ca, và họ sợ phải đụng vào những người của Thiên Chúa. Tu viện trưởng Philip đã thuê các thợ mỏ của bà và bây giờ họ làm việc chung với nhau trong một sự hài hòa trọn vẹn. Tôi ngạc nhiên tại sao các lính canh không trở lại báo cáo với bà.”

“Họ ở đâu, những kẻ hèn nhát?” Bà mẹ rít lên. Bà ta đỏ mặt. “Tôi sẽ gặp họ… Tôi sẽ cắt trứng của họ…”

“Tôi biết tại sao họ không trở lại,” Waleran nói.

“Đừng bận tâm đến người lính gác đó,” ông bố nói. “Họ chỉ là lính. Ông tu viện trưởng ranh mãnh kia mới là người chịu trách nhiệm. Tôi chẳng bao giờ tưởng tượng ông ấy lại có một mánh khóe như thế. Ông ấy đánh lừa chúng ta. Đó là tất cả.”

“Chính xác,” Waleran nói. “Ông ấy có vẻ thánh thiện đơn sơ, nhưng ông ấy có xảo trá của con chuột nhà.”

William nghĩ Waleran cũng giống như vậy, cũng là một con chuột nhà màu đen có mõm nhọn và mái tóc đen bóng mượt, ngồi trong góc nhà với một mẩu bánh ở chân, đôi mắt cảnh giác lư?