← Quay lại trang sách

Chương 10 (A)

Vào ngày lễ Thánh Âu Cơ Tinh, các công nhân được nghỉ việc từ giữa trưa. Hầu hết thợ xây nghe tiếng chuông báo hiệu giờ trưa với sự thở phào nhẹ nhõm. Bình thường họ làm việc từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời xuống, sáu ngày một tuần, vì thế những ngày nghỉ vào dịp lễ các Thánh là những ngày họ mong muốn. Tuy nhiên, Jack mải mê với công việc nên không nghe thấy tiếng chuông.

Cậu bị thu hút bởi sự thách đố muốn tạo ra những hình dạng mềm mại, tròn trịa từ đá cứng. Phiến đá cứng có ý muốn riêng của nó, và nếu cậu cố ý muốn tạo nó thành một cái gì đó mà nó không muốn, nó sẽ kháng cự lại. Lưỡi đục của cậu có thể bị trượt hoặc đâm xuống quá sâu làm sai lạc đi hình dạng. Nhưng một khi cậu đã quen thuộc với phiến đá trước mặt, cậu có thể biến đổi hình dạng của nó. Công việc càng khó khăn, cậu càng bị hấp dẫn. Bắt đầu cậu cảm thấy rằng những trạm khắc theo yêu cầu của Tom quá dễ dàng. Cậu chán nản với hình chữ chi, hình thoi, hình chóp, xoắn ốc và cuộn tròn, và ngay cả các hình lá cũng cứng đơ và đơn điệu. Cậu muốn khắc chiếc lá tự nhiên, mềm dẻo và không đều đặn, và muốn sao chép hình dạng khác nhau của những chiếc lá thật, của sồi, của tần bì và bạch dương, nhưng Tom không cho phép cậu. Trên hết cậu muốn khắc cảnh từ những câu truyện về Adam và Eva, về David và Goliath, về ngày phán xét sau cùng, về quỷ và con người trần truồng, nhưng cậu không dám hỏi.

Sau cùng Tom bắt cậu ngừng tay. “Hôm nay là ngày lễ nghỉ, chàng trai ạ,” ông nói. “Ngoài ra, con vẫn là người giúp việc của dượng, và dượng muốn con giúp dượng dọn dẹp. Tất cả công cụ phải cất vào kho trước giờ cơm.”

Jack cất búa và đục, rồi cẩn thận đem phiến đá mà cậu đang đục dở vào nhà kho của Tom; rồi cậu đi quanh công trường xây dựng với Tom. Các người học việc khác đã thu dọn và quét sạch đá vụn, cát, vữa khô và vỏ bào nằm rải rác trên công trường. Tom nhặt la bàn và thước nước trong khi Jack thu dọn thước đo và dây rọi, rồi cất tất cả vào kho.

Trong nhà kho Tom giữ những cây sào (1). Đây là một thanh sắt dài, vuông ở mặt ngang và thẳng đứng, tất cả có cùng chiều dài. Chúng được giữ trong một hộp gỗ đặc biệt được khóa và chỉ dùng để đo đạc.

Khi họ tiếp tục đi quanh công trường, nhặt tấm vữa và xẻng, Jack luôn nghĩ về cây sào. “Cây sào dài bao nhiêu?” cậu hỏi.

Một vài thợ xây nghe thấy và cười to. Họ luôn thấy câu hỏi của cậu tức cười. Erward thấp, một thợ già nhỏ con có mũi quặp nói: “Một sào là một sào,” và họ bắt đầu cười.

Họ thích trêu chọc người học nghề, nhất là khi họ có cơ hội tỏ ra sự hiểu biết hơn của họ. Jack rất ghét bị nhạo cười vì sự thiếu hiểu biết, nhưng cậu chấp nhận nó vì cậu tò mò. “Tôi không hiểu,” cậu kiên nhẫn nói.

“Một inch (2) là một inch, và một sào là một sào,” Erward nói.

Một sào là một đơn vị để đo lường. “Vì thế một sào là bao nhiêu feet (3)?”

“À! Tùy theo. Mười tám ở Lincoln. Mười sáu ở Đông Anglia.”

Tom cắt ngang để cho một câu trả lời hợp lý. “Trên công trường của chúng ta, một sào là mười lăm feet.”

Một thợ nề trung niên nói: “Ở Paris họ không dùng sào, nhưng một thước đo.”

Tom nói với Jack: “Toàn bộ nhà thờ đặt căn bản trên sào. Mang đến một cây sào cho dượng và dượng sẽ chỉ cho ccon. Đây là lúc con nên hiểu điều này.” Ông đưa cho Jack chìa khóa.

Jack đi đến nhà kho và lấy ra một cây sào. Nó rất nặng. Tom thích cắt nghĩa mọi chuyện và Jack thích lắng nghe. Cách tổ chức của công trường xây dựng là một mô hình bí hiểm, như dệt kim tuyến trên áo, và càng hiểu nhiều, cậu càng bị hấp dẫn.

Tom đang đứng trong gian phụ, ở phần cuối của gian cung thánh đã xây dựng được một nửa, nơi sẽ là khu trung tâm. Ông lấy cây sào và đặt nó xuống nền theo chiều ngang gian phụ. “Từ bức tường ngoài tới giữa viên đá của đường mái vòm là một sào.” Ông quay đầu cây sào. “từ đây tới giữa của gian giữa là một sào.” Ông quay đầu một lần nữa, và nó đến giữa viên đá đối diện. “Gian chính rộng hai sào.” Ông quay đầu cây sào lại, và nó chạm vào bức tường của gian phụ. “Toàn bộ nhà thờ rộng bốn sào.”

“Vâng,” Jack nói. “Và mỗi một khoang phải cách nhau một sào.”

Tom khó chịu. “Ai nói với con điều đó?”

“Không ai cả. Một khoang của gian phụ hình vuông, vì thế khi nó rộng một sào nó cũng phải dài một sào. Và những khoang của gian gữa cũng có cùng chiều dài như khoang của gian phụ, như chúng ta thấy.”

“Như chúng ta thấy,” Tom lập lại. “Con nên là một nhà triết học.” Giọng nói của ông pha lẫn tự hào và thán phục. Ông hài lòng vì Jack hiểu nhanh chóng, và cũng khó chịu vì bí mật của việc xây dựng bị một cậu bé dễ dàng nắm bắt được.

Jack quá cứng nhắc với sự hợp lý nên không để ý đến sự nhạy cảm của Tom. “Vì thế gian cung thánh phải dài bốn sào,” cậu nói. “Và toàn thể nhà thờ sẽ dài mười hai sào khi nó xây xong.” Cậu chợt có một ý tưởng khác. “Nó sẽ cao bao nhiêu?”

“Cao sáu sào. Đường mái vòm cao ba sào, hành lang trên cao một sào và khung cửa sổ cao hai sào.”

“Nhưng tại sao phải đo mọi thứ bằng sào? Tại sao không xây viên đá này lên viên đá khác như xây nhà vậy?”

“Trước hết bởi vì cách này rẻ hơn. Tất cả mái vòm của đường đi đều giống nhau, vì thế chúng ta có thể sử dụng lại các khuôn đã có sẵn. Chúng ta sử dụng phiến đá càng ít kích thước và ít hình dáng khác nhau, dượng càng phải ít làm các mẫu hơn. Và cứ như vậy. Thứ hai, nó đơn giản hóa công việc chúng ta đang làm, từ việc đặt nền móng – mọi thứ đặt căn bản trên một sào vuông – tới việc sơn tường – nó dễ dàng tính ra số lượng sơn chúng ta cần. Và khi mọi thứ đơn giản, chúng ta sẽ ít làm sai. Phần mắc nhất trong việc xây dựng là lỗi lầm. Thứ ba, Khi mọi thứ đặt căn bản trên cách tính của sào, nhà thờ trông sẽ đẹp hơn. Tỷ lệ là trọng tâm của vẻ đẹp.”

Jack gật đầu, mê mẩn. Sự cố gắng điều hành một công trình xây dựng đầy tham vọng và phức tạp như của nhà thờ chính tòa là một sự hấp dẫn không ngừng. Sự nhận biết rằng nguyên tắc của cân đối và lập đi lập lại không những đơn giản hóa việc xây dựng mà còn tạo nên sự hài hòa cho kiến trúc là một ý tưởng quyến rũ. Nhưng cậu không chắc tỷ lệ có thật sự là trọng tâm của vẻ đẹp không. Cậu thích những gì hoang dã, rải rác, vô trật tự: ngọn núi cao, cây sồi già và mái tóc của Aliena.

Jack ăn bữa tối nhanh chóng, rồi cậu rời làng đi về hướng bắc. Trời thu sớm ấm áp, và cậu đi chân đất. Từ khi cậu và mẹ cậu chuyển vào sống ở Kingsbridge và cậu trở thành một công nhân, cậu vẫn thích trở lại rừng theo định kỳ. Trước tiên cậu đã dùng thời gian này để tiêu hao đi năng lượng dư thừa trong người: chạy nhẩy, trèo cây và bắn vịt bằng ná. Lúc đó cậu phải làm quen với thân xác đang phát triển, cao và mạnh mẽ của cậu. Những mới lạ đó đã qua đi. Bây giờ khi cậu đi vào rừng, cậu nghĩ về những chuyện khác: tại sao tỷ lệ lại tạo nên nét đẹp, tại sao tòa nhà có thể đứng vững và cảm giác sẽ như thế nào nếu được sờ vào ngực Aliena.

Từ nhiều năm nay cậu đã ngưỡng mộ cô. Hình ảnh không phai mờ được khi cậu nhìn thấy cô từ cầu thang lâu đài đi xuống và cậu đã nghĩ cô phải là một công chúa trong truyện cổ tích. Cô vẫn còn là một khuôn mặt xa cách. Cô nói chuyện với Tu viện trưởng Philip, với thợ xây Tom, với người Do Thái Malachi, và với những người giầu có, quyền lực ở Kingsbridge; và Jack chẳng bao giờ có lý do để nói chuyện với cô. Cậu chỉ có thể nhìn thấy cô khi cô cầu nguyện trong nhà thờ hay cưỡi con ngựa nhỏ đi qua cầu và ngồi trước cửa nhà dưới ánh sáng mặt trời. Cậu thấy cô mặc áo lông thú mắc tiền trong mùa đông và lụa đẹp trong mùa hè, mái tóc tự nhiên ôm lấy khuôn mặt xinh xắn. Trước khi cậu đi ngủ, cậu tưởng tượng nó sẽ đẹp làm sao khi cởi quần áo cô ra, nhìn ngắm cô trần truồng và nhẹ nhàng hôn lên đôi môi mềm mại của cô.

Từ vài tuần nay cậu đã chán nản và thất vọng với những giấc mơ vô vọng ban ngày này. Tưởng tượng được ngắm nhìn cô từ xa, được nghe cô nói chuyện với người khác và được làm tình với cô bây giờ không còn đủ. Cậu cần những điều thực tế hơn.

Nhiều cô gái cùng lứa tuổi có thể cho cậu những điều thực tế. Trong số những người học nghề đã thường có những cuộc nói chuyện về những cô gái nào ở Kingsbridge dâm đãng và cô nào cho phép các cậu trẻ làm gì. Hầu hết đều quyết định giữ trinh tiết cho đến khi cưới hỏi, theo luật của giáo hội, nhưng có những việc bạn có thể làm mà vẫn giữ được trinh tiết, các cậu học nghề thường nói với nhau như vậy. Các cô gái cho rằng Jack khác người – có thể họ đúng, Jack nghĩ thế - nhưng một hai người trong số họ lại bị sự xa lạ của cậu hấp dẫn. Vào một ngày chủ nhật cậu đã nói chuyện với Edith, người em của một thợ học việc; nhưng khi cậu nói cậu yêu thích khắc đá, cô đã khúc khích cười. Vào chủ nhật sau cậu đã đi dạo trên những cánh đồng với Ann, người con gái tóc bạch kim của thợ may. Cậu không nói nhiều với cô, nhưng đã hôn cô, và rồi đề nghị nằm xuống trong cánh đồng lúa mạch xanh. Cậu lại hôn cô và sờ vào ngực cô, và cô đã hôn lại cậu, một cách say đắm; nhưng sau một lúc cô buông cậu ra và nói: “Cô ta là ai?” Jack như bị sét đánh, vì khi đó cậu đang nghĩ về Aliena. Cậu cố gắng lảng tránh và hôn cô ấy nhưng cô ấy quay mặt đi và nói: “Dù cô ta là ai, cô ta là một cô gái may mắn.” Họ cùng nhau đi về lại Kingsbridge và khi chia tay Ann đã nói: “Đừng mất giờ để cố quên cô ta. Anh sẽ không quên được cô ta đâu. Cô ta là người mà anh muốn, vì thế tốt hơn nên tìm cách chiếm được cô ta.” Cô mỉm cười trìu mến và nói thêm: “Anh có khuôn mặt đẹp trai. Nó không khó như anh nghĩ đâu.”

Sự tử tế của cô ấy làm cậu cảm thấy hổ thẹn, đặc biệt trong đám thợ học nghề cô ấy được coi là một trong đám phụ nữ dâm đãng, và cậu đã nói với mọi người là cậu sẽ thử cô ấy. Bây giờ cậu cho những cuộc tán gẫu như vậy là trẻ con, đến nỗi cậu muốn chui xuống đất vì xấu hổ. Nhưng nếu cậu nói với Ann tên của người phụ nữ đang theo đuổi cậu ngày đêm, Ann có lẽ đã không thất vọng như vậy. Một quan hệ giữa Aliena và Jack là chuyện khó tưởng tượng được. Aliena hai mươi hai tuổi, trong khi Jack mới mười bẩy tuổi; cô là con của một bá tước và cậu là con hoang; cô là một thương gia len giầu có và cậu là một thợ học nghề không một xu dính túi. Tệ hơn nữa, cô được biết đến là người đã từ chối nhiều người đến cầu hôn. Mỗi một bá tước trẻ coi được trong miền, và mỗi người con trai của các thương gia giầu có đã đến Kingsbridge xin cầu hôn, nhưng đều thất vọng ra về. Cơ hội nào dành cho Jack, người không có gì để cầu hôn, ngoại trừ “một khuôn mặt đẹp”?

Cậu và Aliena có một điểm chung: họ đều thích rừng. Đặc biệt trong việc này: hầu hết mọi người thích sự an toàn của cánh đồng và làng mạc, và ở xa cánh rừng. Nhưng Aliena thường đi dạo trong rừng gần Kingsbridge, và có một nơi hẻo lánh cô thích dừng lại và ngồi nghỉ. Cậu đã nhìn thấy cô một hai lần ở đó. Cô không nhìn thấy cậu: cậu đi nhẹ nhàng, như cậu đã học lúc còn nhỏ khi cậu phải đi tìm thức ăn trong rừng.

Cậu hướng về cánh rừng thưa mà không biết phải làm gì nếu cậu gặp cô ở đó. Cậu biết điều cậu muốn: nằm bên cạnh cô và vuốt ve thân thể cô. Cậu có thể nói với cô, nhưng cậu sẽ nói gì? Nó dễ dàng hơn khi nói chuyên với các cô gái cùng tuổi với cậu. Cậu đã trêu tức Edith khi nói: “Anh không tin bất cứ điều gì mà anh em đã nói xấu về em,” và dĩ nhiên cô tò mò muốn biết anh cô đã nói xấu về cô điều gì. Với Ann cậu có thể nói thẳng: “Em có muốn đi dạo qua cánh đồng với anh chiều nay không?” Nhưng khi cậu cố tìm một lời mở đầu với Aliena, đầu óc cậu rỗng tuếch. Trong mắt cậu, cô thuộc thế hệ cũ. Cô rất nghiêm trang và có tinh thần trách nhiệm. Không phải cô luôn luôn thích điều đó, cậu biết: vào lứa tuổi mười bẩy cô hoàn toàn thích vui đùa. Từ đó cô đã chịu bao rắc rối khủng khiếp, nhưng đứa bé gái thích vui chơi ngày trước phải còn lại đâu đó bên trong người phụ nữ trang nghiêm này. Đối với Jack, điều đó lại làm cô hấp dẫn hơn.

Cậu đến gần vị trí của cô. Khu rừng yên tĩnh trong cơn nóng ban ngày. Cậu di chuyển lặng lẽ qua những bụi cây. Cậu muốn nhìn thấy cô trước khi cô thấy cậu. Cậu chưa chắc chắn có dám đến gần cô không. Cậu sợ nhất là không gây được cảm tình nơi cô. Cậu đã nói với cô ngay khi cậu vừa trở lại Kingsbridge, vào ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, vào ngày các thiện nguyện viên đã đến làm việc trong công trường nhà thờ, và cậu đã nói sai đề tài đến nỗi bốn năm qua cậu khó có thể nói chuyện lại với cô. Bây giờ cậu không muốn làm một lỗi lầm như vậy nữa.

Một vài phút sau cậu nhìn trộm qua thân cây sồi và thấy cô.

Cô đã chọn một nơi thật đẹp. Có một thác nước nhỏ chảy vào hồ sâu được bao xung quang bởi đá rêu phong. Mặt trời chiếu trên bờ hồ, nhưng một hai dặm phía sau lại có bóng mát dưới tàn cây sồi. Aliena ngồi đọc sách dưới ánh sáng lốm đốm của mặt trời.

Jack rất ngạc nhiên. Một phụ nữ đọc sách? Giữa bầu trời? Chỉ có các tu sĩ mới đọc sách, và không có nhiều tu sĩ đọc mọi thứ sách ngoài các giờ kinh. Nó còn là một cuốn sách không bình thường- nhỏ hơn nhiều so với các cuốn sách trong thư viện tu viện, như thể nó đặc biệt làm cho phụ nữ, hay cho người muốn đem nó đi khắp nơi. Cậu ngạc nhiên là cậu không còn nhút nhát. Cậu vội vàng xuyên qua bụi cây và đi ra chỗ cô. Cậu nói: “Cô đang đọc gì đấy?”

Cô giật mình và nhìn cậu với nỗi kinh hoàng trong ánh mắt. Cậu nhận ra cậu đã làm cô hoảng sợ. Cậu cảm thấy bối rối và sợ một lần nữa lại vấp phải lỗi lầm. Bàn tay phải của cô thọc nhanh vào trong tay áo phía trái. Cậu nhớ lại một lần cô đã mang một con dao trong tay áo – có lẽ bây giờ vẫn vậy. Một lúc sau cô nhận ra cậu, và sự sợ hãi của cô biến nhanh như khi nó đến. Cô dễ chịu ra, tuy nhiên vẫn còn bực tức. Cậu cảm thấy như không được chào đón, và cậu muốn quay lại ngay và biến mất trong rừng. Nhưng như thế cậu sẽ khó nói chuyện với cô một lần nữa, vì thế cậu ở lại, đối diện với nét mặt không thân thiện của cô và nói: “Xin lỗi, tôi đã làm cô sợ.”

“Anh không làm tôi sợ,” cô vội vàng nói.

Cậu biết nó không đúng sự thật, nhưng cậu không muốn tranh luận với cô. Cậu lập lại câu hỏi ban đầu của cậu: “Cô đang đọc gì đấy?”

Cô nhìn xuống cuốn sách trên đùi cô, và nét mặt cô lại thay đổi: bây giờ cô có vẻ đăm chiêu. “Trong chuyến đi cuối cùng đến Normandy bố tôi đã mang cuốn sách này về. Ông đem về cho tôi. Một vài ngày sau ông bị bắt đi tù.”

Jack nhích gần hơn và nhìn vào trang sách mở. “Nó bằng tiếng Pháp!” cậu nói.

“Tại sao anh biết?” cô ngạc nhiên nói. “Anh biết đọc?”

“Vâng – nhưng tôi nghĩ mọi cuốn sách đều viết bằng tiếng Latin.”

“Hầu hết. Nhưng cuốn này khác. Nó là cuốn thơ được gọi là “Truyện của Alexander.”

Jack nghĩ ngợi: Tôi đang nói chuyện với cô ấy! Thật tuyệt diệu! Nhưng bây giờ tôi phải nói gì đây? Làm sao tôi có thể tiếp tục câu chuyện? Cậu nói: “Um… Cuốn sách viết về cái gì?”

“Nó là câu truyện của một vị vua được gọi là Alexander Đại đế, và cách ông đã chinh phục những mảnh đất tuyệt vời ở miền đông, nơi đá quý mọc trên cây nho và những bông hoa có thể nói.”

Jack bị thu hút và quên đi sự lo lắng của cậu. “Làm sao những bông hoa có thể nói? Chúng có miệng không?”

“Nó không nói.”

“Cô có cho rằng câu truyện này có thật không?”

Cô thích thú nhìn cậu, và cậu nhìn chằm chằm vào đôi mắt đen đẹp của cô. “Tôi không biết,” cô nói. “Tôi luôn thắc mắc không biết câu truyện có thật không. Hầu hết mọi người không quan tâm đến – miễn là câu truyện làm họ thích.”

“Ngoại trừ đối với các linh mục. Họ luôn luôn nghĩ các câu truyện thiêng liêng là thật.”

“Dĩ nhiên chúng là thật.”

Jack hoài nghi về các câu truyện thiêng liêng cũng như cậu hoài nghi về các truyện khác; nhưng mẹ cậu, người đã dạy cậu đặt nghi vấn, cũng dạy cậu phải biết cẩn thận, vì thế cậu không tranh luận. Cậu cố gắng không nhìn vào ngực Aliena đang nằm ngay trong khóe mặt cậu: cậu biết khi cậu nhìn xuống cô ấy sẽ biết cậu đang nhìn gì. Cậu cố nghĩ chuyện gì đó để nói. “Tôi biết một số câu truyện,” cậu nói. “Tôi biết ‘Bài ca của Roland’ và ‘cuộc hành hương của William thành Orange’ –“

“Anh muốn nói gì? Anh biết họ?”

“Tôi có thể kể lại chúng.“

„Giống như một người hát rong?“

„Người hát rong là gì?”

“Một người đi khắp nơi, làm trò và kể truyện.”

Đối với Jack, đó là một khái niệm mới. “Tôi chưa bao giờ nghe nói về những người đó.”

“Có rất nhiều người hát rong ở nước Pháp. Khi tôi còn nhỏ, tôi thường ra ngoại quốc với bố tôi. Tôi thích những người hát rong.”

“Nhưng họ làm gì? Chỉ đứng ngoài đường và kể tuyện thôi sao?”

“Tùy theo. Họ vào hội trường của các lãnh chúa vào dịp lễ. Họ trình diễn ở chợ và hội chợ. Họ tiêu khiển khách hành hương bên ngoài nhà thờ. Một vài bá tước lớn có người hát rong riêng.”

Jack nhận ra rằng không những cậu đang nói chuyện với cô, cậu còn có cuộc trò chuyện mà cậu không có được với bất cứ cô gái nào ở Kingsbridge. Cậu và Aliena là những người trong thị trấn, ngoại trừ mẹ cậu, biết về những bài thơ lãng mạng bằng tiếng Pháp, cậu chắc như thế. Họ có cùng sở thích và họ đang thảo luận về nó. Ý tưởng này quá thú vị đến nỗi cậu không còn nhớ họ đang nói chuyện gì và cậu cảm thấy bối rối và ngu dại.

May mắn, cô tiếp tục: “Thông thường người hát rong chơi đàn vĩ cầm khi ông ta kể truyện. Ông ta chơi nhanh và cao khi kể về trận chiến, chậm rãi và ngọt ngào khi kể về hai người yêu nhau, dằn mạnh từng tiếng khi kể về phần hài hước.”

Jack thích ý tưởng đó: Nhạc nền để làm tăng các điểm của câu truyện. “Tôi ước mơ có thể chơi đàn vĩ cầm.”

“Anh thực sự có thể kể truyện không?” cô nói.

Cậu không thể tin được là cô lại thực sự để ý đến cậu, hỏi cậu về bản thân cậu. Và khuôn mặt cô dễ thương hơn khi cô phấn khởi vì tò mò. “Mẹ tôi dạy tôi,” cậu nói. “Chúng tôi đã sống trong rừng, chỉ có hai chúng tôi. Bà kể cho tôi những câu truyện, rồi lại kể lại.”

“Nhưng làm sao anh nhớ được chúng? Một số câu truyện phải cần nhiều ngày để kể.”

“Tôi không biết. Nó giống như cô biết đường đi trong rừng. Cô không giữ cả khu rừng trong đầu, nhưng khi cô ở đâu, cô biết sẽ đi tiếp như thế nào.” Nhìn vào nội dung cuốn sách cô đang đọc, cậu khám phá ra một điều gì đó. Cậu ngồi xuống cỏ bên cạnh cô để nhìn rõ hơn. “Vần điệu khác,” cậu nói.

Cô không biết rõ cậu muốn nói gì. “Trong cách nào?”

“Chúng hay hơn. Trong ‘Bài ca của Roland’, chữ ‘sword’ vần với ‘horse’, hay ‘lost’, hay với ‘ball’. Trong sách của cô, ‘sword; vần với ‘horde’ nhưng không vần với ‘horse’; ‘lord’ nhưng không với ‘loss’; ‘board’ nhưng không vần với ‘ball’. Nó hoàn toàn là một âm điệu khác. Nhưng nó hay hơn, hoàn toàn hay hơn. Tôi thích vần điệu này.”

“Anh có thể…” Cô trông khác thường. “Anh có thể kể cho tôi một vài câu trong ‘Bài ca của Roland’ không?”

Jack thay đổi vị trí của mình để cậu có thể nhìn cô. Cái nhìn chăm chú, sự náo nức lấp lánh trong đôi mắt mê hồn của cô cho cậu cảm giác nghẹt thở. Cậu nuốt nước bọt xuống và bắt đầu.

Vua toàn nước Pháp,

A-lịch-sơn Đại Đế

đã chiến đấu bẩy năm trên đất Tây Ban Nha.

Ông đã chinh phục cao nguyên và đồng bằng.

Không còn pháo đài nào xót lại,

không còn thành phố hay tường thành nào cho ông đột phá.

Ngay cả Saragossa trên ngọn núi cao

do vua Marsilly Saracen cai trị.

Ngay cả ông thờ phượng Mahomed,

cầu nguyện với Apollo,

nhưng ngay cả thế, ông vẫn không an toàn.

Jack ngưng lại và Aliena nói: “Anh có thể! Anh thực sự có thể kể truyện! Giống như một người hát rong!”

“Cô có thấy ý tôi nói vần điệu là làm sao không?”

“Vâng, dù sao tôi vẫn thích câu truyện,” cô nói. Mắt cô lấp lánh niềm vui. “Anh hãy kể tiếp cho tôi nghe.”

Jack cảm thấy như ngất đi trong hạnh phúc. “Nếu cô thích,” cậu nói yếu ớt. Cậu nhìn vào mắt cô và bắt đầu đoạn thứ hai.

II

Một trò chơi trong mùa hè được gọi là bánh-bao-nhiêu. Giống như nhiều trò chơi khác, nó có hơi hướng một chút mê tín dị đoan nên làm Philip khó chịu. Nhưng nếu ông cố loại trừ tất cả các nghi thức liên quan đến các tôn giáo thời xưa, một nửa truyền thống của người dân sẽ bị cấm, và một cách nào đó người dân sẽ chống lại ông; vì thế ông kín đáo khoan dung mọi thứ và chỉ ngăn cấm một hai thứ thái quá.

Các tu sĩ kê bàn trên bãi cỏ ở cuối phía tây gần tu viện. Người phụ việc trong nhà bếp khênh qua sân một nồi lớn bốc khói. Tu viện là chủ của những khu nhà trọ, vì thế tu viện có nhiệm vụ cung cấp bữa tiệc cho người thuê nhà vào những dịp lễ lớn. Chính sách của Philip là rộng rãi về lương thực và chặt chẽ về nước uống, vì thế nó chỉ có bia nhẹ và không có rượu. Tuy nhiên mỗi ngày lễ vẫn có năm sáu người uống say mềm.

Các cư dân hàng đầu của Kingsbridge ngồi cùng bàn với Philip: Thợ xây Tom và gia đình ông; thợ thủ công chính lão thành, cộng với người con trai cả của Tom, Alfred; và các thương gia, có cả Aliena nhưng không có người Do Thái Malachi, người sẽ tham gia sau nghi thức cầu nguyện.

Philip xin mọi người yên lặng và cầu nguyện trước bữa ăn; rồi ông trao ổ bánh-bao-nhiêu cho Tom. Thời gian càng trôi qua, Philip càng quý mến Tom hơn. Không có nhiều người nói điều họ nghĩ và làm điều họ nói. Khi gặp bất ngờ, khủng hoảng và thảm họa, Tom bình tĩnh cân nhắc hậu quả, đánh giá thiệt hại và đưa ra kế hoạch đáp ứng tốt nhất. Tom ngày nay không còn giống như năm năm trước đây khi ông bước chân vào tu viện xin việc. Khi đó ông kiệt sức, hốc hác và gầy gò như thể các đốt xương đang chực chọc thủng lớp da rám nắng của ông. Trong những năm qua ông đã lấy lại sức, nhất là từ khi người đàn bà của ông trở về. Ông không mập, nhưng có da có thịt và mắt ông không còn nỗi tuyệt vọng. Ông ăn mặc sang trọng, trong bộ áo dài của Lincoln màu xanh, giày da mềm và một thắt lưng với khóa bạc.

Philip phải đặt một câu hỏi và người nhận ổ bánh-bao-nhiêu phải trả lời. Ông hỏi: “Bao nhiêu năm nữa nhà thờ chính tòa sẽ xong?”

Tom cắn một miếng bánh. Bánh được làm bằng những hạt cứng nhỏ, và khi Tom nhả những hạt ra bàn tay, mọi người cùng đếm to. Một đôi khi có người cắn miếng to đầy miệng và không một người nào ở bàn xung quanh có khả năng đếm được, nhưng hôm nay không đáng lo vì có các thương gia và thợ thủ công có mặt. Câu trả lời là ba mươi. Philip giả vờ như mất tinh thần. Tom nói: “Tôi còn sống lâu thế sao?” và mọi người cười to.

Tom đưa bánh cho vợ ông, Ellen. Philip rất cảnh giác người phụ nữ này. Giống như nữ hoàng Maud, bà có uy quyền trên người khác, một loại uy quyền mà Philip không cạnh tranh nổi. Ngày bà ấy bị đuổi ra khỏi tu viện, bà đã làm một điều kinh khủng mà Philip không dám nghĩ tới. Ông đã nghĩ bà sẽ đi biệt tăm, nhưng ông kinh hoàng vì bà trở về và Tom đã xin Philip tha lỗi cho bà. Một cách khôn ngoan, Tom đã lý luận rằng Thiên Chúa có thể tha tội cho bà, vì vậy Philip không có quyền từ chối. Philip cho rằng bà ấy không thật lòng ăn năn. Nhưng Tom đã hỏi ông trong ngày các thiện nguyện viên đến cứu nhà thờ và Philip đã đáp ứng ước muốn của Tom. Họ đã làm lễ cưới trong nhà thờ xứ, một nhà thờ bằng gỗ nhỏ trong làng đã có trước tu viện. Từ đó Ellen đã thay đổi cách sống và không tạo nên lý do để ông phải hối hận về quyết định của mình. Tuy nhiên bà làm ông khó chịu.

Tom hỏi bà: “Có bao nhiêu người đàn ông yêu bà?”

Bà cắn một miếng bánh nhỏ làm mọi người cười ồ. Trong trò chơi này, tất cả những câu hỏi này đều có hai ý. Philip biết rằng nếu ông không hiện diện, trò chơi có thể trở thành thô tục.

Ellen đếm ba hột. Tom giả vờ bị xúc phạm. “Tôi sẽ nói cho ông ba gười yêu tôi là ai,” Ellen nói. Philip hy vọng bà sẽ không nói điều gì gây khó chịu. “Người đầu tiên là Tom. Người thứ hai là Jack. Và người thứ ba là Alfred.”

Một tràng pháo tay tán thưởng cho sự hóm hỉnh của bà, và ổ bánh lại được chuyển đi quanh bàn. Người kế tiếp là con gái của Tom, Martha. Cô mười hai tuổi và nhút nhát. Bánh dự đoán là cô sẽ có ba đời chồng, một điều khó có thể xẩy ra.

Martha đưa bánh cho Jack, và khi cô đưa cho cậu ấy, Philip nhìn thấy sự thán phục trong mắt cô, và ông nhận ra rằng cô ngưỡng mộ người anh ghẻ của cô.

Jack hấp dẫn Philip. Trước đây cậu là một đứa trẻ xấu xí, có mái tóc màu cà rốt, làn da nhợt nhạt và đôi mắt lồi màu xanh; nhưng bây giờ cậu là một thanh niên, các đặc nét đã hài hòa và khuôn mặt cậu trở thành hấp dẫn khiến người lạ phải quay lại nhìn. Nhưng trong cá tính, cậu buông thả như mẹ cậu. Cậu có ít nguyên tắc và không biết vâng lời. Cậu không thích hợp là một người giúp việc, vì thay vì chuẩn bị vữa và đá ổn định, cậu cố gắng xếp đầy vật dụng cho một ngày rồi đi làm việc khác. Cậu luôn luôn vắng mặt. Một ngày kia khi thấy không có phiến đá nào trên công trường thích hợp cho công việc cậu đang làm, vì thế, không nói với ai, cậu đi tới mỏ đá và chọn ra phiến đá cậu thích. Hai ngày sau cậu đem phiến đá về trên lưng một con ngựa con đi mượn. Nhưng mọi người đã tha thứ cho tính ương ngạnh của cậu, một phần cậu là một thợ khắc đá thật sự đặc biệt, và phần khác vì cậu đáng yêu – một đặc điểm chắc chắn cậu không thừa kế từ mẹ cậu, theo quan điểm của Philip. Philip đã có vài ý nghĩ về tương lai của Jack. Nếu cậu theo cuộc sống tu trong giáo hội, cậu dễ dàng lên chức giám mục.

Martha hỏi Jack: “Còn bao lâu nữa anh sẽ lập gia đình?”

Jack cắn một miếng bánh nhỏ: rõ ràng cậu muốn lập gia đình sớm. Philip tự hỏi không biết cậu đã để ý đến ai. Jack hoảng hốt khi trong miệng cậu đầy hạt cứng, và khi chúng được đếm, mặt cậu lộ vẻ khó chịu. Tất cả là ba mươi mốt. “Khi đó tôi sẽ bốn mươi tám tuổi!” cậu phản đối. Mọi người cười vui nhộn, chỉ trừ Philip, người đã nhẩm tính lại và thấy đúng, và ngạc nhiên vì Jack có thể tính nhanh như thế. Ngay cả Milius, người thủ quỹ, cũng không tính nhanh được như vậy.

Jack ngồi gần Aliena. Philip đã thấy họ ở chung với nhau nhiều lần trong mùa hè này. Có thể bởi vì chúng đều nhanh trí. Không có nhiều người ở Kingsbridge có thể nói chuyện cùng trình độ với Aliena; và Jack, qua cách bất trị của cậu, đã trưởng thành hơn các thợ học nghề khác. Philip vẫn còn ngạc nhiên vì tình bạn của họ, bởi vì ở lứa tuổi của họ, hơn nhau năm tuổi là một chênh lệch lớn.

Jack đưa bánh cho Aliena và hỏi cùng câu mà Martha đã hỏi cậu: “Bao nhiêu năm nữa cô sẽ lấy chồng?”

Mọi người lẩm bẩm phản đối, bởi vì nó quá dễ để hỏi lại cùng câu hỏi. Mục đích của trò chơi là khôi hài và đùa cợt. Nhưng Aliena, một người nổi tiếng là đã từ chối nhiều lời cầu hôn, làm mọi người cười khi cắn một miếng lớn, tỏ ra rằng cô chưa muốn lấy chồng sớm. Nhưng mưu đồ của cô không thành công: cô nhả ra chỉ có một hạt.

Nếu năm tới cô kết hôn, Philip nghĩ, chú rể vẫn chưa xuất hiện. Tất nhiên ông không tin vào chuyện tiên đoán của bánh mì. Khả năng là cô sẽ chết như một gái già – ngoại trừ cô không phải là một gái già, vì theo tin đồn, cô đã bị William Hamleigh quyến rũ hay cưỡng hiếp.

Aliena đưa bánh cho em cô, Richard, nhưng Philip không nghe cô hỏi gì. Ông vẫn đang nghĩ về Aliena. Không may mắn, cả Aliena và ông đều thất bại trong việc bán len năm nay. Số len thặng dư không lớn – ít hơn một phần mười số lượng của ông và tỷ lệ còn nhỏ hơn đối với Aliena – nhưng nó cũng làm thất vọng. Sau đó, Philip đã lo lắng cô từ chối sự thỏa thuận về số len trong năm tới, nhưng cô giữ lời và trả cho Philip một trăm lẻ bẩy bảng Anh.

Tin tức gây xôn xao tại hội chợ len ở Shiring là sự loan báo của Philip về hội chợ len năm tới ở Kingsbridge. Hầu hết mọi người hoan nghinh ý tưởng đó, vì tiền thuê và thuế má tại Shiring quá mắc và Philip dự định quy định mức giá thấp hơn. Cho đến nay, bá tước William vẫn chưa có phản ứng gì.

Nhìn chung, Philip cảm thấy tu viện có triển vọng hơn nhiều so với sáu tháng trước. Ông đã vượt qua được trở ngại gây ra do mỏ đá bị đóng cửa và chống lại ý định muốn đóng cửa chợ của William. Bây giờ chợ chủ nhật của ông phát triển mạnh và đủ thu nhập để trả tiền mua đá từ quặng mỏ gần Marlborough. Mặc dù những khủng hoảng, việc xây dựng nhà thờ chính tòa vẫn không bị đình trệ. Điều lo lắng duy nhất của Philip là Maud vẫn chưa được đăng quang. Mặc dù bà đã được các giám mục chấp thuận, nhưng quyền chỉ huy của bà dựa trên sức mạnh quân sự cho đến khi bà được đăng quang. Vợ của Stephen vẫn còn trấn giữ Kent, và các quận của London còn chia rẽ. Một tình cờ không may mắn hay một quyết định xấu có thể lật đổ bà như cuộc chiến ở Lincoln đã tiêu diệt Stephen và rồi tất cả sẽ lại hỗn loạn.

Philip tự nhủ lòng không nên bi quan. Ông nhìn những người chung quanh bàn. Trò chơi đã chấm dứt và mọi người đã lui vào phòng ăn. Họ là những người trung thực, tốt bụng, làm việc chăm chỉ và đến nhà thờ thường xuyên. Thiên Chúa sẽ chăm sóc họ.

Họ ăn súp rau, cá nướng với gia vị tiêu và gừng, nhiều thứ vịt và tráng miệng bằng chè được điểm tô bằng sọc xanh sọc đỏ. Sau bữa ăn tất cả đem ghế vào trong nhà thờ còn đang xây dở để xem kịch.

Các thợ mộc đã làm hai màn đặt ở hai gian bên cạnh, ở đầu phía đông, che khuất khoảng không gian giữa tường hai gian cạnh và viên đá đầu tiên của đường mái vòm. Các tu sĩ sẽ diễn kịch đã có mặt sau tấm màn, chờ đi ra diễn ở gian giữa. Người đóng vai Thánh Adolphus, một tập sinh không có râu và có bộ mặt thiên thần, đang nằm trên bàn ở phía xa của gian giữa, được bọc trong vải niệm, giả vờ chết và cố nín cười.

Philip có cảm xúc lẫn lộn về vở kịch cũng như về trò chơi bao-nhiêu-bánh. Vở kịch này cũng dễ rơi vào bất kính và thô tục. Nhưng dân chúng quá thích nó nên nếu ông không cho phép họ sẽ tự diễn vở kịch này bên ngoài nhà thờ, và khi nó không còn dưới sự kiểm soát của ông, nó có thể trở nên phàm tục. Ngoài ra, những người thích nó lại là các tu sĩ diễn kịch. Mặc quần áo khác, đóng vai trò của người khác, hành động kỳ quặc - ngay cả phạm thượng - dường như tạo nên sự thoải mái trong một đời sống nghiêm trang.

Trước khi vở kịch bắt đầu, thông thường vẫn có giờ kinh ngắn do cha phụ trách phụng vụ chủ sự. Sau đó Philip kể ngắn gọn về tiểu sử và công trình kỳ diệu của Thánh Adolphus. Rồi ông ngồi xuống ghế giữa đám khán giả và chăm chú theo dõi vở kịch.

Từ phía sau bức màn bên trái xuất hiện một hình dáng lớn mà thoạt nhìn giống như người vô hình được trùm trong quần áo lòe loẹt, và khi nhìn kỹ hơn thì đó là những mảnh quần áo nhiều màu được gắn lại với nhau bằng kim. Mặt ông được sơn vẽ và mang một bị tiền. Đây là người man rợ giầu có. Có tiếng thì thầm tán phục cách diễn của ông, rồi trở thành tiếng cười ồ khi họ nhận ra diễn viên bên dưới bộ trang phục: đó là thầy Bernard, thầy phụ trách nhà bếp, người mà mọi người biết và yêu thích.

Ông nhìn lên và nhìn xuống nhiều lần để mọi người thán phục ông, và trượt vào hàng ghế đầu của các trẻ em nhỏ, gây cho chúng hoảng sợ; sau đó ông lên đến bàn thờ, nhìn quanh như để chắc chắn xem có phải ở đó chỉ có một mình ông không, và ông đặt bị tiền đàng sau bàn thờ. Ông quay về phía khán giả, liếc đểu và nói bằng giọng to: “Các Ki Tô hữu ngu ngốc sợ không dám ăn cắp tiền của tôi đâu, bởi vì họ nghĩ nó được Thánh Adolphus bảo vệ. Ha ha ha!” Rồi ông đi ra sau bức màn.

Từ phía đối diện xuất hiện một nhóm người sống ngoài vòng pháp luật, ăn mặc rách rưới, mang gươm gỗ và rìu, mặt mũi bôi phấn và nhọ nồi. Họ rình rập chung quanh gian giữa, trông sợ hãi, cho đến khi một người trong họ nhìn thấy túi tiền đàng sau bàn thờ. Sau đó là cuộc tranh luận: Có nên ăn cắp hay không? Người trộm cướp tốt cho rằng như vậy chắc chắn sẽ mang lại sự bất hạnh cho họ; người trộm cướp xấu cho rằng một vị thánh chết không thể làm hại họ. Sau cùng họ lấy bị tiền và lui vào một góc để đếm.

Người man rợ vào lại, nhìn khắp nơi tìm bị tiền và nổi cơn thịnh nộ. Ông đến bên mộ Thánh Adolphus và nguyền rủa vị thánh vì đã không bảo vệ bị tiền của ông.

Vào lúc đó, vị thánh trỗi dậy khỏi mộ.

Người man rợ giật mình kinh hoàng. Vị thánh lờ ông đi và đến bên đám người trộm cướp. Đột ngột ông đánh ngã từng người một bằng cách dùng ngón tay chỉ vào họ. Họ giả vờ chết đau đớn khổ sở, lăn lộn trên mặt đất, cuộn người theo các hình dạng kỳ cục và tạo ra những khuôn mặt ghê tởm.

Vị thánh chỉ tha mỗi người trộm tốt, người bây giờ đem bị tiền lên cất sau bàn thờ. Vị thánh quay lại phía khán giả và nói: “Tất cả những ai coi thường sức mạnh của Thánh Adolphus, hãy coi chừng!”

Khán giả hào hứng vỗ tay hoan hô. Các diễn viên đứng ở gian giữa, cười bẽn lẽn. Mục đích của vở kịch, dĩ nhiên, là tính luân lý của câu truyện, nhưng Philip biết rằng người dân thích nhất là sự lố bịch, sự nổi giận của người man rợ và cái chết đau đớn của những người trộm cướp.

Khi tiếng vỗ tay đã ngưng Philip đứng dậy, cám ơn các diễn viên và thông báo cuộc đua sẽ bắt đầu trên đồng cỏ bên bờ suối.

Đây là lần đầu tiên bé Jonathan năm tuổi khám phá ra cậu không phải là người chạy nhanh nhất ở Kingsbridge. Cậu tham dự cuộc đua của trẻ em, mặc tu phục đặc biệt được may cho cậu và gây ra tiếng cười vang khi cậu vén áo lên tới hông và chạy phơi chiếc mông bé tí ra trước mặt mọi người. Tuy nhiên cậu chạy đua với những trẻ lớn hơn và cậu về gần chót. Khi nhận ra cậu thua cuộc, cậu bị sốc và thất vọng đến nỗi Tom cảm thấy đau khổ thay cậu và bế cậu lên để an ủi cậu.

Mối quan hệ đặc biệt giữa Tom và đứa trẻ mồ côi trong tu viện đã phát triển dần dần, và không ai trong làng thắc mắc tự hỏi xem có một nguyên do bí mật trong đó không. Tom dành cả ngày ở trong khuôn viên tu viện, nơi Jonathan tự do chạy nhẩy, vì thế mà không có gì ngạc nhiên khi họ thường xuyên gặp nhau; ngoài ra Tom ở trong lứa tuổi mà những đứa con của ông đã lớn không còn dễ thương, và ông cũng chưa già đủ để có cháu, vì thế mà chuyện ông quan tâm đến trẻ con của người khác là chuyện tự nhiên. Như Tom được biết, chưa ai nghi ngờ ông là bố của Jonathan. Nếu có, dân chúng cho rằng Philip là bố thật của đứa bé. Đó là một giả thuyết tự nhiên – dĩ nhiên Philip sẽ kinh hoàng khi nghe nó.

Jonathan phát hiện Aaron, người con trai cả của Malachi, và lách ra khỏi vòng tay của Tom để đi chơi với bạn cậu, quên đi sự thất vọng.

Khi cuộc đua của các thợ học nghề tiếp diễn, Philip đến và ngồi trên cỏ bên cạnh Tom. Nó là một ngày mùa hè nóng lực, và đầu hói của Philip lấm tấm mồ hôi. Sự thán phục Tom dành cho Philip lớn lên theo thời gian. Nhìn quanh, nhìn vào những người trẻ chạy trên cỏ, những cụ già ngủ gật trong bóng râm, và những đứa trẻ té nước trên sông, ông nhận ra rằng chính Philip là người đã gắn bó tất cả lại với nhau. Ông điều hành ngôi làng, thi hành công lý, quyết định căn nhà mới nên xây ở đâu, giải quyết tranh chấp; ông thuê hầu hết đàn ông và nhiều đàn bà nữa làm nhân công hoặc người phục vụ trong tu viện; và ông quản lý tu viện, trung tâm điều hành mọi việc. Ông chống lại các bá tước rình rập xâm chiếm, đàm phán với hoàng gia và giữ giám mục trong vị trí. Tất cả những người khỏe mạnh đang thi đua dưới ánh mặt trời này nhiều hay ít đều mang ơn Philip. Chính Tom là một thí dụ điển hình.

Tom rất ý thức về sự khoan hồng của Philip đã ân xá cho Ellen. Đối với một tu sĩ, nó không dễ để có thể tha thứ những gì bà ấy đã làm. Và điều đó có ý nghĩa lớn đối với Tom. Khi bà ấy đi xa, niềm vui xây dựng nhà thờ của ông bị nhạt vì cô đơn. Bây giờ, bà ấy đã trở về, ông cảm thấy thỏa mãn. Mặc dù bà ấy vẫn cứng đầu, hay gây gỗ và không muốn thua ai, nhưng một cách nào đó nó trở thành không quan trọng: một niềm đam mê trong bà cháy như một ngọn nến trong đèn lồng, và nó thắp sáng cuộc đời ông.

Tom và Philip quan sát cuộc đua, trong đó các chàng trai phải đi bằng tay: Jack thắng cuộc. “Cậu trai đó đặc biệt,” Philip nói.

“Không có nhiều người có thể đi nhanh bằng tay,” Tom nói.

Philip cười. “Thật vậy – nhưng tôi không nói về kỹ năng nhào lộn của cậu ấy.”

“Tôi biết.” Sự thông minh của Jack từ lâu đã là niềm vui và nỗi đau của Tom. Jack có một sự tò mò sáng tạo về việc xây dựng – một cái gì đó mà Alfred thiếu – và Tom thích dạy cậu những mánh lới của thương mại. Nhưng Jack thiếu sự khéo léo trong xử thế và hay cãi lại người lớn tuổi hơn mình. Tốt hơn nên che giấu ưu thế của mình, nhưng Jack chưa học được điều đó, ngay cả sau nhiều năm bị Alfred bắt nạt.

“Chàng trai cần được giáo dục,” Philip tiếp tục.

Tom cau mày. Jack đã được học. Cậu ấy là thợ học nghề. “Ý ông muốn nói gì?”

“Cậu ấy nên học thêm viết, học văn phạm Latin, và đọc những triết gia cổ đại.”

Tom càng bối rối hơn. “Để làm gì? Cậu ấy sẽ là một thợ xây.”

Philip nhìn vào mắt ông. “Ông có chắc chắn không?” ông hỏi. “Cậu ấy là một chàng trai không làm những gì ông chờ đợi.”

Tom đã chẳng bao giờ nghĩ về điều này. Có những người trẻ không theo kỳ vọng của người khác: con của lãnh chúa từ chối chiến đấu, con cái vua chúa gia nhập tu viện, con ghẻ của nông dân thành giám mục. Thật vậy, Jack thuộc mẫu người này. “Vâng, ông nghĩ cậu sẽ làm gì?” ông hỏi.

“Nó tùy thuộc vào việc cậu ấy học gì,” Philip nói. “Nhưng tôi muốn cậu ấy làm việc cho giáo hội.”

Tom rất ngạc nhiên: Jack dường như không thích giới giáo sĩ. Tom bị một chút thương tổn. Ông ước mong Jack trở thành thợ xây dựng tổng thể chính, và ông sẽ thật sự thất vọng nếu cậu chọn con đường khác trong đời sống.

Philip không chú ý đến nét không vui của Tom. Ông tiếp tục: “Thiên Chúa cần những người trẻ tốt nhất và thông minh nhất để làm việc cho Ngài. Hãy nhìn vào những người học nghề đang cạnh tranh xem ai có thể nhẩy cao nhất. Tất cả họ có khả năng để trở thành thợ mộc, thợ xây hay thợ cắt đá. Nhưng bao nhiêu người trong số họ có thể trở thành giám mục? Chỉ có một - Jack.”

Điều đó đúng, Tom nghĩ. Nếu Jack có cơ hội tiến thân trong giáo hội, với người bảo trợ mạnh mẽ như Philip, cậu nên lợi dụng cơ hội đó, bởi vì nó sẽ đem đến sự giầu sang và quyền lực hơn một thợ xây. Tom nói miễn cưỡng: “Ông đã có dự tính gì rõ ràng với cậu ấy chưa?”

“Tôi muốn Jack trở thành một tập sinh trong tu viện.”

“Một tu sĩ?” Đời sống tu sĩ còn khó thích hợp với Jack hơn là đời sống linh mục. Cậu chống lại ngay cả luật lệ trong công trường xây dựng – làm sao cậu có thể hòa nhập trong luật lệ của tu viện?

“Cậu ấy sẽ dùng hầu hết thời giờ để học hỏi,” Philip nói. “Cậu ấy sẽ học mọi thứ mà cha giáo tập có thể dạy cậu, và chính tôi sẽ dạy thêm cho cậu ấy.”

Khi một cậu bé gia nhập tu viện, thông thường bố mẹ em dâng cúng rộng rãi cho tu viện. Tom tự hỏi không biết một đề nghị như thế sẽ phải trả bao nhiêu.

Philip đoán được điều ông nghĩ. “Tôi không chờ đợi ông tặng cho tu viện điều gì,” ông nói. “Nó đủ rồi, khi ông trao con ông cho Chúa.”

Điều mà Philip không biết là Tom đã cho tu viện một người con: bé Jonathan, người đang chèo thuyền ở bờ sông với chiếc áo choàng kéo lên tới ngang hông. Tuy nhiên, Tom biết mình nên kìm hãm cảm xúc trong việc này. Đề nghị của Philip rất rộng lượng, rõ ràng ông rất để ý đến Jack. Đề nghị này cho Jack một cơ hội lớn. Một người bố sẽ sẵn sàng cho con mình có một cơ hội tiến thân như thế. Tom giận vì con ghẻ của ông chứ không phải con ruột Alfred của ông là người được cho cơ hội tuyệt vời này. Cảm xúc này không xứng đáng và ông vội nén xuống. Ông nên vui mừng, khuyến khích Jack và hy vọng chàng trai sẽ học cách hòa mình với đời sống tu viện.

“Chuyện này phải làm ngay,” Philip thêm vào. “Trước khi cậu ấy phải lòng cô gái nào.”

Tom gật đầu. Nhìn qua đồng cỏ, cuộc thi của phụ nữ sắp đến đích. Tom quan sát. Sau một lúc ông nhận ra Ellen đang dẫn trước. Aliena theo sát bà, nhưng khi họ về đích Ellen vẫn đến trước hơn một chút. Bà giơ tay ra dấu hiệu chiến thắng.

Tom chỉ vào bà và nói với Philip. “Không phải tôi mà bà ấy mới là người cần thuyết phục.”

Aliena ngạc nhiên vì bị Ellen đánh bại. Ellen là mẹ của một cậu bé mười bẩy tuổi, nhưng ít nhất cô vẫn hơn Aliena mười tuổi. Họ cười với nhau khi họ thở hổn hển và toát mồ hôi trên vạch đến. Aliena quan sát thấy Ellen có đôi chân rắn chắc và hình dáng gọn gàng. Những năm tháng trong rừng làm bà dẻo dai.

Jack đến chúc mừng mẹ chiến thắng. Họ rất thương nhau, Aliena có thể nói như thế. Họ hoàn toàn khác nhau: Ellen có làn da ngâm đen và đôi mắt sâu màu vàng nâu, trong khi Jack có mái tóc đỏ và mắt xanh. Cậu phải giống bố cậu, Aliena nghĩ. Không ai biết gì về bố của Jack, chồng trước của Ellen. Có lẽ họ mắc cở về ông.

Khi cô nhìn hai người bên nhau, Aliena chợt nghĩ rằng Jack phải gợi Ellen nhớ về người chồng bà đã mất. Đó là lý do tại sao bà thương cậu. Có lẽ người con trai là những gì còn lại của người đàn ông mà bà ngưỡng mộ. Sự giống nhau về hình dáng có thể có một sức mạnh ghê gớm. Em của Aliena, Richard, một đôi khi làm cô nhớ về bố cô, qua một cái nhìn hay một cử chỉ, và đó là lúc cô cảm thấy một cảm xúc dâng tràn; mặc dù nó không ngăn cản cô ước muốn Richard có cá tính giống bố cô hơn.

Cô biết cô không nên không hài lòng với Richard. Cậu đã ra chiến trường và chiến đấu dũng cảm, và đó là những gì có thể đòi hỏi nơi cậu. Nhưng những ngày này cô có nhiều điều không hài lòng. Cô có sự giầu sang và ổn định, một căn nhà và người phục vụ, quần áo đẹp, đồ trang sức sang trọng và một vị trí được tôn trọng trong thị trấn. Nếu có người nào hỏi, cô sẽ trả lời là cô hạnh phúc. Nhưng bên dưới vỏ bên ngoài là một dòng sóng ngầm của thao thức. Cô chẳng bao giờ mất hứng thú làm việc, nhưng vào một số buổi sáng cô băn khoăn tự hỏi việc cô mặc áo gì có quan trọng không, việc cô đeo nữ trang có cần thiết không. Không ai để ý đến việc cô ăn mặc ra sao, vì thế tại sao cô phải mặc đẹp? Nghịch lý thay, cô dần dần ý thức hơn về thân thể của mình. Khi cô đi loanh quanh, cô cảm thấy ngực mình chuyển động. Khi cô xuống tắm ở khu vực dành cho phụ nữ bên bờ sông, cô xấu hổ vì cô có quá nhiều lông. Ngồi trên lưng ngựa cô nhận thức được phần thân thể cô chạm vào yên ngựa. Cảm giác thật lạ. Nó giống như có một kẻ rình trộm theo dõi cô mọi lúc, cố nhìn cô trần truồng qua quần áo cô đang mặc, và kẻ rình trộm đó chính là cô. Cô đang xâm phạm chính bầu khí riêng tư của cô.

Cô nằm xuống trên cỏ, thở hổn hển. Mồ hôi chẩy xuống giữa ngực và bên trong đùi cô. Sốt ruột cô nghĩ về vấn đề cụ thể trước mắt. Cô đã không bán hết được số len trong năm nay. Nó không phải là do lỗi của cô: hầu hết các thương gia vẫn còn dư lại số len không bán được, và ngay cả Tu viện trưởng Philip cũng vậy. Philip vẫn bình tĩnh, nhưng Aliena lo lắng. Cô sẽ làm gì với số len còn lại này? Dĩ nhiên cô có thể giữ nó lại cho năm tới. Nhưng chuyện gì sẽ xẩy ra khi năm tới cô lại không bán được? Cô không biết len thô giữ được bao lâu. Cô có cảm giác nó sẽ bị khô, trở nên giòn và khó có thể biến chế.

Nếu mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn, cô sẽ không có khả năng hỗ trợ cho Richard. Nó rất tốn kém để là một hiệp sĩ. Con ngựa chiến giá hai mươi bảng Anh đã bị mất tính khí trong cuộc chiến ở Lincoln và bây giờ nó dường như vô dụng; chẳng bao lâu nữa cậu sẽ cần con khác. Aliena có khả năng chi cho việc đó nhưng nó sẽ thâm vào nguồn vốn của cô. Richard mắc cở vì phải phụ thuộc tài chính vào cô – nó không phải là trường hợp thông thường đối với một hiệp sĩ – và cậu đã hy vọng có thể tự nuôi sống mình qua việc cướp bóc, nhưng gần đây cậu lại ở bên phía thua trận. Nếu cậu muốn lấy lại lãnh địa, Aliena sẽ phải tiếp tục có được kinh tế ổn định.

Trong cơn ác mộng cô đã mơ thấy mình mất hết tiền bạc và họ lại trắng tay, lại trở thành nạn nhân của vị linh mục không trung thực, của hàng quý tộc phóng đãng và của những người trộm cướp khát máu; và họ kết thúc trong ngục tối hôi hám, nơi họ đã gặp bố họ bị xích vào tường và chết.

Tương phản với cơn ác mộng, cô đã có một giấc mơ hạnh phúc. Trong đó cô và Richard sống chung với nhau trong lâu đài, trong tòa nhà cũ của họ. Richard cai trị khôn ngoan như bố cô, và Aliena giúp cậu như đã giúp bố cô, chào đón những khách quan trọng, phân phát nơi ăn chốn ở cho người cần đến và ngồi bên tay trái cậu trong bữa ăn. Nhưng sau này, ngay cả những giấc mơ đó vẫn để lại trong cô sự trống rỗng.

Cô lắc đầu, xua tan tâm trạng u sầu này và lại nghĩ về len. Cách đơn giản nhất để giải quyết vấn đề là không làm gì cả. Cô có thể lưu trữ các len thặng dư cho đến năm sau, và rồi, nếu không thể bán được, cô sẽ chấp nhận thiệt thòi. Cô có thể chịu đựng được. Tuy nhiên, nó sẽ nguy hiểm khi chuyện này lại tiếp tục xẩy ra, và nó sẽ là khởi đầu của con đường thất bại. Cô phải tìm kiếm một giải pháp khác. Cô đã cố bán len cho một người thợ dệt ở Kingsbridge, nhưng ông ấy đã có tất cả những gì ông cần.

Nhìn các phụ nữ Kingsbridge đang lấy lại sức trên bãi cỏ sau cuộc đua, Aliena thấy hầu hết họ đều biết cách làm vải từ len thô. Nó là một công việc buồn tẻ nhưng đơn giản: các nông dân đã biết làm nó từ thời sơ khai. Lông cừu được rửa sạch, sau đó chải cho nó không vướng vào nhau, rồi xe thành sợi. Sợi được dệt thành vải, rồi được hồ để sẵn sàng làm thành quần áo. Các phụ nữ có lẽ sẽ làm việc đó với giá một xu một ngày. Nhưng cô sẽ cần bao lâu? Và giá sản phẩm sẽ là bao nhiêu?

Cô sẽ phải thử dự án này với số lượng nhỏ. Rồi, nếu có kết quả, cô sẽ nhận thêm nhân công làm việc trong suốt buổi tối dài mùa đông.

Cô ngồi dậy, hoàn toàn phấn khởi với ý tưởng mới này. Ellen nằm bên cạnh cô. Jack ngồi phía bên kia Ellen. Cậu bắt gặp ánh mắt Aliena, mỉm cười rồi quay đi như thể cậu xấu hổ vì bị bắt gặp đang nhìn cô. Cậu là một chàng trai vui vẻ, có đầy ý tưởng trong đầu. Aliena vẫn còn nhớ khi cậu còn là một đứa bé ngộ nghĩnh chưa biết trẻ con được thụ thai ra sao. Nhưng cô đã chú ý đến cậu khi cậu chuyển vào sống ở Kingsbridge. Và bây giờ cậu đã khác xưa, hoàn toàn là một con người mới, như thể cậu đến từ hư không, như một cây hoa xuất hiện vào một buổi sáng mai mà ngày hôm trước chỗ đó vẫn không có gì, ngoài mặt đất trần trụi. Trước hết cậu không còn trông kỳ cục. Trong thực tế, cô nghĩ, nhiều cô gái nghĩ cậu đẹp trai kinh khủng. Chắc chắn cậu có nụ cười duyên dáng. Cô không quan tâm đến diện mạo của cậu, nhưng cô bị thu hút bởi trí tưởng tượng đáng ngạc nhiên của cậu. Cô phát hiện ra rằng cậu không những biết nhiều câu truyện kể bằng thơ – một số có hàng ngàn và hàng ngàn câu – nhưng cậu còn ứng khẩu được, vì thế cô không chắc chắn cậu nhớ được hay cậu tự chế thêm. Và cậu không chỉ hấp dẫn vì những câu truyện. Cậu tò mò về nhiều chuyện và băn khoăn về những chuyện mà người khác cho là tự nhiên. Có một ngày cậu đã hỏi nước từ dòng sông ở đâu mà có. “Mỗi giờ, hàng ngàn và hàng ngàn thùng nước chảy qua Kingsbridge, ngày và đêm, trong cả năm trời. Nó đã chảy từ trước khi chúng ta sinh ra, từ trước khi cha mẹ chúng ta sinh ra, từ trước khi cha mẹ của cha mẹ chúng ta sinh ra. Nó đến từ đâu? Có một hồ nước lớn ở đâu đó nuôi dưỡng nó không? Như thế cái hồ đó phải lớn hơn toàn nước Anh! Chuyện gì xẩy ra nếu chiếc hồ đó khô đi?” Cậu luôn luôn nói về những chuyện như thế hoặc ít tưởng tượng hơn, và nó làm Aliena nhận ra rằng cô thèm khát những cuộc chuyện trò thông minh. Hầu hết cư dân Kingsbridge chỉ có thể nói về nông nghiệp và ngoại tình, những chuyện không làm cô thích thú. Dĩ nhiên Tu viện trưởng Philip khác thế, nhưng ông không tham gia các cuộc nói chuyện nhàn rỗi; ông luôn bận rộn, đối phó với công việc xây dựng, với các tu sĩ hay thành phố. Aliena cho rằng thợ xây Tom cũng rất thông minh, nhưng ông là người nghĩ nhiều hơn nói. Jack là người bạn thực sự đầu tiên của cô. Cậu là một khám phá tuyệt vời, mặc dù cậu còn trẻ. Thực vậy, khi cô đi xa Kingsbridge, cô đã mong ước được trở về để có thể nói chuyện với cậu.

Cô tự hỏi cậu đã có những ý tưởng đó từ đâu. Ý nghĩ đó làm cô chú ý đến Ellen. Bà phải là người như thế nào để có thể nuôi con trong rừng! Aliena đã nói chuyện với Ellen và khám phá ra nơi bà một tinh thần giống như nơi cô, một phụ nữ độc lập và tự lập, và một cách nào đó tức giận với cách mà đời sống xã hội đã đối xử với bà. Bây giờ, trong cơn bất đồng, Aliena nói: “Ellen, bà đã học những câu truyện ở đâu?”

“Từ bố của Jack,” Ellen nói không cần suy nghĩ, nhưng rồi khuôn mặt bà thận trọng hơn, và Aliena biết không nên hỏi thêm nữa.

Một tư tưởng khác xuất hiện. “Bà có biết dệt không?”

“Dĩ nhiên,” Ellen nói. “Ai mà không biết?“

„Bà có muốn dệt để kiếm tiền không?“

„Có thể. Cô có ý gì trong đầu?”

Aliena giải thích. Ellen không thiếu tiền, dĩ nhiên, nhưng Tom là người kiếm ra tiền, và Aliena nghi ngờ bà cũng muốn tự kiếm một số tiền.

Những dự đoán thành đúng. „Vâng, tôi sẽ cố thử,“ Ellen nói.

Vào lúc đó con ghẻ của Ellen, Alfred, đi ngang. Giống bố, Alfred là người to lớn. Hầu hết mặt cậu được dấu đàng sau bộ râu rậm rạp, nhưng cặp mắt bên trên nhỏ, nên cậu nhìn có vẻ xảo quyệt. Cậu có thể đọc, viết là làm toán, nhưng mặc dù vậy cậu vẫn ngu ngốc. Tuy nhiên cậu có cuộc sống sung túc và có băng làm việc riêng, gồm các thợ xây, thợ học nghề và lao công. Aliena thấy rằng những người to lớn thường