← Quay lại trang sách

Turk

Tên da đen đầu tiên tôi gặp đã giết chết anh trai tôi. Tôi ngồi giữa bố mẹ trong phòng xử án ở Vermont, cổ áo sơ mi thít chặt muốn nghẹt thở, trong lúc những người đàn ông mặc vét tranh cãi và chỉ trỏ vào các loại biểu đồ xe hơi cùng dấu bánh xe. Tôi mười một tuổi còn anh Tanner mười sáu. Anh vừa lấy bằng lái xe hai tháng trước. Để ăn mừng, mẹ tôi đã nướng cho anh cái bánh, trang trí hình đường cao tốc làm bằng kẹo dẻo Fruit Rolls-Up và một cái xe đồ chơi Matchbox cũ của tôi. Kẻ giết anh đến từ Massachusetts và già hơn cả bố. Da hắn tối hơn cả màu gỗ ở bục nhân chứng, chỗ hắn ngồi gần suốt phiên tòa, và đối lại thì răng hắn gần như trắng lóa. Tôi không thể rời mắt khỏi hắn.

Bồi thẩm đoàn không đi đến được một phán quyết chung - “treo”[4], họ bảo vậy - và thế là tên đó được tự do. Mẹ tôi như phát cuồng, bà rít lên, lảm nhảm về đứa con bé bỏng của bà và công lý. Kẻ giết người bắt tay với luật sư của hắn rồi quay lại, bước về phía chúng tôi, đến khi hai bên chỉ cách nhau một thanh rào chắn. “Bà Bauer,” hắn lên tiếng. “Tôi rất xin lỗi vì mất mát của bà.”

Làm như chuyện không có gì liên can tới hắn vậy.

Mẹ tôi ngừng thổn thức, mím môi, và nhổ nước bọt.

Brit và tôi, chúng tôi đã chờ đợi giây phút này từ lâu lắm.

Tôi ngồi ghế tài xế, một tay đặt trên bánh lái chiếc xe tải nhỏ còn một tay để trên ghế giữa chúng tôi; cô ấy siết lấy nó mỗi khi cơn co thắt ập tới. Tôi biết là đau kinh khủng lắm, nhưng Brit chỉ nheo mắt lại và đưa cằm ra, vẻ cương quyết. Cũng không có gì ngạc nhiên - ý tôi là, tôi từng thấy cô ấy đấm gãy răng một thằng Mexico đẩy xe mua hàng đụng méo xe cô ấy ở siêu thị Stop & Shop - nhưng tôi nghĩ mình chưa bao giờ thấy cô ấy đẹp như lúc này, mạnh mẽ và im lặng.

Tôi nhiều lần trộm ngắm gương mặt nhìn nghiêng của cô ấy khi chúng tôi chờ đèn đỏ. Chúng tôi lấy nhau đã được hai năm, thế mà tôi vẫn chưa tin được Brit là của mình. Brit là cô gái xinh đẹp nhất tôi từng thấy, với tôi là vậy, và trong phong trào, cô ấy gần như là công chúa. Mái tóc sẫm màu của cô ấy phủ xuống lưng từng lọn xoăn dày; gò má thì ửng đỏ. Cô ấy thở hổn hển, từng hơi ngắn, như thể đang chạy marathon. Rồi đột nhiên cô ấy quay sang tôi, cặp mắt sáng xanh, như ánh sắc trong lòng ngọn lửa. “Không ai nói là sẽ đau thế này,” Brit nói giữa những hơi thở gấp.

Tôi siết lấy tay vợ, làm được thế cũng đáng kể, vì cô ấy đang nắm chặt tay tôi đến phát đau rồi. “Chiến binh này,” tôi bảo Brit, “cũng sẽ mạnh mẽ hệt như mẹ nó.” Từ lâu, tôi đã được dạy rằng Chúa cần những người chiến sĩ. Rằng chúng ta là những thiên sứ trong cuộc chiến chủng tộc này và nếu không có ta, thế giới cũng sẽ chịu chung số phận với Sodom và Gomorrah[5]. Francis - ông bố huyền thoại của Brit - sẽ đứng lên và rao giảng cho tất cả những người mới nhập hội hiểu rõ sự cần thiết của việc gia tăng lực lượng, để chúng ta có thể phản công. Thế mà giờ khi Brit và tôi ở đây, trong khoảnh khắc này, sắp đưa vào đời một sinh linh mới, một nửa trong tôi mừng vui chiến thắng nhưng nửa kia lại lấy làm kinh hoảng. Bởi vì dẫu tôi đã cố gắng hết sức, chốn này vẫn là một cái hố phân. Lúc này đây, con tôi hoàn hảo. Nhưng từ khoảnh khắc chào đời, sớm muộn nó cũng sẽ bị ô uế.

“Anh Turk!” Brittany thét lên.

Giật mình, tôi bẻ lái sang trái, suýt nữa là chạy lố qua cổng bệnh viện. “Em thấy cái tên Thor có được không?” tôi hỏi, chuyển cuộc đối thoại sang chủ đề đặt tên con, hết lòng muốn làm Brit xao nhãng mà quên đau đớn. Một gã tôi biết trên Twitter vừa có con và đặt tên thằng nhỏ là Loki. Nhóm mấy tay già già trong hội rất khoái thần thoại Bắc Âu và mặc dù giờ họ đã tách thành nhiều phe nhỏ, thói quen cũ vẫn không dễ bỏ.

“Sao không là Người dơi hay Đèn Lồng Xanh luôn đi?” Britney nổi cáu. “Em sẽ không đời nào đặt tên con theo nhân vật truyện tranh đâu.” Cô ấy cau mặt vì một cơn co thắt khác. “Nếu như nó là con gái thì sao?”

“Wonder Woman,” tôi gợi ý. “Giống như mẹ của nó.”

Sau khi anh tôi chết, tất thảy đều sụp đổ. Như thể phiên tòa đã bóc hết lớp da ngoài và phần còn lại của gia đình tôi chỉ là một đống máu lẫn nội tạng mà không có gì giữ chúng lại với nhau nữa. Bố tôi tách ra và chuyển tới sống trong một căn hộ toàn màu xanh lục - vách tường, thảm trải, toilet, bếp lò - nơi mà lần nào đến thăm, tôi cũng không khỏi thấy buồn nôn. Mẹ tôi bắt đầu uống rượu - một ly vang vào bữa trưa và sau đó là nguyên chai. Bà mất việc phụ tá ở một trường tiểu học vì ngất xỉu ở sân chơi và đứa trẻ bà phải trông nom - con bé bị Hội chứng Down - bị gãy cổ tay khi té xuống từ trên thang khỉ. Một tuần sau chúng tôi chất tất cả những gì mình có lên một chiếc xe của dịch vụ chuyển nhà U-Haul và chuyển vào sống với ông ngoại tôi.

Ông ngoại là một cựu binh chưa bao giờ ngừng chiến đấu. Lúc trước tôi không biết ông rõ lắm, vì ông chẳng ưa gì bố tôi, nhưng khi chướng ngại đó đã không còn, ông lãnh lấy trách nhiệm nuôi dạy tôi theo cách ông nghĩ đúng ra phải áp dụng từ đầu. Bố mẹ tôi, ông bảo, quá mềm mỏng với tôi, và tôi là một thằng nhóc ẻo lả. Ông sẽ rèn cho tôi cứng rắn lên. Thế là ông ngoại đánh thức tôi vào tờ mờ sáng những ngày cuối tuần rồi lôi tôi vào rừng để làm cái việc mà ông gọi là huấn luyện cơ bản. Tôi học cách phân biệt quả mọng độc với loại ăn được. Tôi có thể nhận biết loại phân để theo dấu động vật. Tôi có thể xác định giờ giấc từ vị trí của mặt trời. Khóa huấn luyện của ông cũng gần gần như lớp hướng đạo sinh vậy, chỉ khác ở chỗ xen giữa các bài học của ông là chuyện về bọn người ông đã chiến đấu, về những khu rừng sẽ nuốt chửng bạn nếu bạn sơ sẩy, về mùi thịt người bị thiêu sống.

Dịp cuối tuần nọ, ông ngoại quyết định đưa tôi đi cắm trại. Việc nhiệt độ ngoài trời chỉ còn bốn độ hay dự báo tuyết rơi cũng không nghĩa lý gì. Chúng tôi lái xe đến rìa Northeast Kingdom, gần biên giới Canada. Tôi đi vệ sinh, và khi tôi trở ra thì ông ngoại đã biến mất.

Xe tải của ông, trước đó đậu ở chỗ đổ xăng, cũng không thấy đâu nữa. Dấu hiệu duy nhất cho thấy ông tôi từng ở đó là vết bánh xe trên tuyết. Ông đã bỏ đi, mang theo ba lô của tôi, túi ngủ của tôi và cái lều. Tôi trở vào trạm xăng và hỏi nhân viên ở đó xem cô có biết chuyện gì đã xảy ra với cái ông đi xe tải xanh lam không, nhưng cô này chỉ lắc đầu. “Gì cơ?” cô ta nói, giả vờ như mình không biết nói tiếng Anh mặc dù vẫn còn trên địa phận Vermont.

Tôi có áo khoác, nhưng không có nón hay găng tay - chúng đã nằm lại trong xe. Tôi đếm được sáu mươi bảy cent trong túi. Tôi chờ đến khi một người khách ghé lại đổ xăng và rồi, trong lúc nhân viên tính tiền đang bận rộn, tôi liền chôm một đôi găng tay, một cái nón màu cam đi săn và một chai soda.

Mất tới năm giờ tôi mới lần tới chỗ ông ngoại - kết hợp giữa việc vắt não nhớ xem sáng đó ông đã lảm nhảm cái gì về phương hướng trong khi tôi gà gật ngái ngủ, và vừa đi trên cao tốc vừa dò tìm manh mối - như giấy gói loại thuốc lá mà ông thích nhai, cùng một chiếc găng của tôi. Đến lúc thấy cái xe tải đậu bên vệ đường và có thể theo dấu chân ông băng tuyết vào rừng, tôi không còn run lập cập nữa. Tôi bốc hỏa. Cơn giận, hóa ra, là một nguồn nhiên liệu tái tạo.

Ông ngoại đang cúi người bên đống lửa trại khi tôi bước vào khoảng rừng trống. Không nói một lời, tôi bước thẳng tới và xô ông suýt ngã vào mớ than hồng. “Lão già khốn kiếp,” tôi hét lên. “Ông không thể tự dưng bỏ tôi lại mà đi như vậy.”

“Sao lại không? Nếu tao không biến mày thành một thằng đàn ông thì đứa nào sẽ làm thay tao hả?” ông đáp.

Mặc dù người ông gấp đôi cái thân tôi, tôi vẫn chộp lấy cổ áo khoác của ông và xách ông dậy. Tôi nắm tay lại, đưa ra sau và định đấm ông nhưng ông chụp được tay tôi trước khi cú đấm giáng tới.

“Mày muốn đánh nhau hả?” ông nói, lùi về và vờn quanh tôi.

Bố đã từng dạy tôi cách đấm. Ngón cái đặt ngoài nắm tay, và xoay cổ tay cuối cú đấm. Thế nhưng tất cả chỉ là nói suông; tôi chưa bao giờ đánh ai trong đời.

Bấy giờ, tôi đưa nắm đấm ra sau và tung nó về phía trước như một mũi tên, chỉ để ông ngoại tóm được và bẻ quặt cánh tay tôi ra sau lưng. Hơi thở của ông nóng hổi bên tai tôi. “Thằng bố dặt dẹo của mày chỉ mày trò đó đó hả?” tôi cố vùng ra, nhưng ông ghìm tôi lại. “Mày muốn biết cách đánh nhau? Hay mày muốn biết cách đánh thắng?”

Tôi nghiến răng. “Tôi... muốn... thắng,” tôi gầm ghè.

Cuối cùng ông cũng buông lỏng, một tay vẫn kẹp chặt vai trái của tôi.

“Mày nhỏ con, nên mày hạ người thật thấp khi áp sát tao. Rồi mày dùng thân mình che mắt tao, và tao đoán mày sẽ từ dưới vung nắm đấm lên. Nếu tao né, nắm đấm của tao sẽ dộng vào mặt mày, nghĩa là tao sẽ đứng thẳng, người không che chắn gì hết. Điều cuối cùng tao nghĩ mày sẽ làm là đấm vòng qua vai như thế này.”

Ông giơ nắm tay phải, vung nó lên theo một vòng cung chóng mặt và khựng lại ngay trước khi nó “hun” vào gò má tôi. Rồi ông buông tôi ra và bước lùi lại. “Lên đi.”

Tôi chỉ trợn mắt nhìn ông.

Cảm giác đánh người nó thế này: như một cọng thun bị kéo căng đến phát đau, và bắt đầu run rẩy. Và rồi khi bạn vung nắm đấm, khi bạn buông cọng thun ra, cú bật tạo cảm giác rất kích thích. Cả người bạn phừng phừng, và bạn thậm chí không nhận ra mình dễ bị kích động đến thế.

Máu xịt ra từ mũi ông ngoại vấy xuống tuyết; nó nhuộm đỏ nụ cười của ông. “Thằng cháu tao phải thế chứ,” ông khen ngợi.

Mỗi lần Brit ngồi dậy trong khi chuyển dạ, những cơn co thắt trở nên tệ hại đến mức cô y tá - một người phụ nữ tóc đỏ tên Lucille - bảo cô ấy nằm xuống trở lại. Nhưng khi cô ấy làm theo, co thắt ngừng lại, và thế là Lucille bảo cô ấy đứng dậy đi tới đi lui. Đó là một vòng tròn ác nghiệt, lặp đi lặp lại đã bảy giờ liền, và tôi bắt đầu tự hỏi có khi nào tới lúc chào đời, thằng con mình đã là thiếu niên.

Nhưng tôi không nói ý nghĩ đó với Brit.

Tôi giữ vợ thật chắc khi một bác sĩ gây tê cắm kim truyền dịch - Brit xin làm thế, một việc khiến tôi vô cùng kinh ngạc, vì chúng tôi dự định sẽ sinh con tự nhiên, không dùng thuốc. Người Mỹ da trắng chúng tôi tránh xa mấy thứ đó; đại đa số thành viên Phong trào hết sức coi thường bọn nghiện ngập. Tôi thì thầm vào tai vợ khi cô ấy gập người trên giường, bác sĩ dùng tay kiểm tra sống lưng cô, hỏi xem liệu đó có phải ý hay. Khi anh là người mang thai, Brit nói, anh được quyền quyết định.

Và tôi phải thú nhận, cái thứ mà họ truyền vào mạch vợ tôi, dù là gì đi nữa, cũng có tác dụng tốt. Cô ấy bị buộc vào giường, nhưng không lăn lộn quằn quại nữa. Brit nói rằng cô ấy không có cảm giác ở vùng dưới rốn nữa. Rằng nếu không phải vì đã trót lấy tôi, cô ấy sẽ cầu hôn bác sĩ gây tê.

Lucille đi vào và kiểm tra dữ liệu in từ cái máy gắn vô người Brit, vốn dùng để đo nhịp tim em bé. “Cô đang làm tốt lắm,” cô y tá động viên, mặc dù tôi cá là cô ta nói thế với tất cả mọi người. Tôi thôi chú ý khi y tá nói chuyện với Brit - không phải vì tôi không quan tâm, mà vì đó chỉ là mấy thông tin cơ học không ai muốn nghĩ tới nếu vẫn còn muốn thấy vợ mình hấp dẫn - và rồi tôi nghe Lucille bảo Brit đã tới lúc rặn.

Brit nhìn thẳng vào mắt tôi. “Anh?” cô ấy mở lời, nhưng từ tiếp theo nghẹn trong cổ, và cô ấy không nói được điều mình muốn nói.

Tôi nhận ra vợ mình đang sợ hãi. Người phụ nữ dũng cảm này thật sự lo sợ chuyện sắp xảy ra. Tôi đan những ngón tay mình vào tay Brit. “Anh ở đây,” tôi nhủ với vợ, mặc dù bản thân cũng hoảng chẳng kém.

Lỡ như chuyện này thay đổi mọi thứ giữa tôi và Brit?

Lỡ như đứa bé xuất hiện và tôi chẳng có cảm xúc gì với nó thì sao?

Lỡ như tôi hóa ra là một hình mẫu tồi? Một ông bố tệ?

“Lần tiếp theo cô cảm thấy cơn co thắt,” Lucille dặn, “tôi muốn cô rặn thật mạnh.” Nữ y tá nhìn lên tôi. “Anh, hãy ra sau cô ấy và khi cô ấy tới cơn co thắt, anh hãy đỡ vợ dậy để cô ấy có thể rặn.”

Tôi thật sự biết ơn lời chỉ dẫn. Chuyện này thì tôi làm được. Khi mặt Brit ửng đỏ, khi cơ thể cô ấy cong lên như một cây cung, tôi vòng tay xuống nắm lấy bờ vai vợ. Brit phát ra một thứ tiếng trầm, khàn, như một con thú trong cơn đau hấp hối. “Hít vào sâu,” Lucille hướng dẫn. “Cô đang ở đỉnh cơn co thắt... giờ hãy cúi xuống cho cằm sát ngực và rặn mạnh, đẩy xuống hết...”

Sau đó, hít vào một hơi, Brit rũ người xuống, cố giũ tôi ra như thể không chịu nổi cái đụng chạm từ tôi. “Bỏ tay anh ra,” cô ấy cộc lốc.

Lucille ra hiệu cho tôi lại gần. “Cô ấy không có ý đó đâu.”

“Khốn kiếp, tôi có ý đó đấy,” Brit phun ra, một cơn co thắt khác lại trỗi lên.

Lucille nhướng mày nhìn tôi. “Anh đứng đây,” cô đề nghị. “Tôi sẽ giữ chân trái của Brit còn anh giữ chân phải...”

Đó là một cuộc chạy bộ đường dài, không phải đua nước rút. Một giờ sau, tóc Brit dính bết vào trán; bím tóc rối nùi. Ngón tay của cô ấy đã cắt lên mu bàn tay tôi những vầng trăng nhỏ, và mấy lời cô ấy phát ra chẳng còn nghĩa lý gì. Tôi không biết hai chúng tôi còn chịu được cảnh này bao lâu nữa. Nhưng rồi vai Lucille gồng lên trong lúc Brit trải qua một cơn co thắt dài, và nét mặt nữ y tá thay đổi. “Chờ một lúc,” Lucille nói, rồi cô nhắn tin cho bác sĩ. “Brit, tôi muốn cô hít thở thật chậm... và chuẩn bị trở thành một người mẹ.”

Vài phút sau là bác sĩ sản khoa xông vào phòng và đeo vội một đôi bao tay nhựa latex, nhưng cố giúp Brit không rặn cũng giống như bị bảo phải chặn đứng sóng cồn chỉ với vỏn vẹn một bao cát vậy. “Xin chào cô Bauer,” bác sĩ lên tiếng. “Hãy đón em bé ra đời nào.” Anh ta ngồi xuống một cái ghế trong lúc Brit lại một lần nữa căng cứng người. Khuỷu tay tôi vòng qua đầu gối vợ để cô ấy có thể tì vào đó và khi tôi nhìn xuống, đỉnh đầu bé con của chúng tôi nhú ra như một vầng trăng trong thung lũng giữa chân Brit.

Nó xanh nhợt. Mới thoáng trước còn chẳng có gì, giờ ở đó đã có một cái đầu tròn trịa cỡ trái bóng mềm, và nó tái xanh.

Hoảng hốt, tôi nhìn mặt Brit, nhưng mắt cô ấy nhắm nghiền trong khi gắng sức. Cơn giận, thứ mà dường như lúc nào cũng âm ỉ cháy trong máu tôi, bắt đầu bốc lên. Bọn chúng đang cố lừa chúng ta. Bọn chúng nói dối. Cái lũ khốn nạn...

Và rồi đứa bé cất tiếng khóc. Giữa một dòng máu và dịch nhờn, nó đã trượt vào thế giới này, vừa khóc ré vừa đấm vào không khí bằng hai nắm tay bé xíu, làn da ửng hồng lên. Họ đặt con tôi - con trai tôi - lên ngực Brit và lấy khăn lau cho nó. Vợ tôi đang khóc, và tôi cũng thế. Ánh mắt Brit không rời đứa trẻ. “Hãy xem tác phẩm của chúng ta này, anh Turk.”

“Thằng bé thật hoàn hảo,” tôi thì thầm bên làn da vợ. “Em thật hoàn hảo.” Vợ tôi khum tay đỡ quanh mái đầu đứa con bé bỏng của chúng tôi, như thể chúng tôi là một mạch điện mà giờ đã trở nên hoàn chỉnh. Như thể chúng tôi có thể tỏa năng lượng cho toàn thế giới.

Năm tôi mười lăm tuổi, ông ngoại sụm xuống trong nhà tắm và chết vì bị đau tim. Trước sự cố đó, tôi phản ứng giống như cách mình vẫn phản ứng với mọi thứ khác lúc bấy giờ - đâm đầu vào rắc rối. Dường như chẳng ai biết phải làm gì với cái thằng tôi - không phải mẹ tôi, người đã nhạt nhòa đi đến độ có lúc bà như hòa lẫn vào bức tường và tôi đi qua trước mặt bà mà không nhận ra mẹ mình đang ở trong phòng; không phải bố tôi, người đang sống ở Brattleboro và bán xe hơi tại đại lý hãng Honda.

Tôi gặp Raine Tesco trong một tháng hè ở với bố sau năm đầu học phổ thông. Chú Greg, bạn của bố quản lý một kiểu tiệm thay thế quán cà phê[6] (Chả biết nó là cái giống gì nữa? Quán phục vụ trà hả?) và cho tôi một chân chạy việc bán thời gian. Đúng ra thì tôi chưa đủ tuổi đi làm, nên Greg trả lương không chính thức để tôi làm mấy việc như sắp xếp nhà kho và chạy vặt. Raine là người pha chế cà phê với bắp tay xăm kín và cứ tới giờ nghỉ là ra ngoài sau quán đốt thuốc liên tục. Anh ta có một con chó Chihuahua tên Thịt, con này cũng được chủ dạy cho bập thuốc lá.

Raine là người đầu tiên thật sự hiểu tôi. Lần đầu tôi gặp Raine ở sau quán, khi ra ngoài đổ rác, anh đã mời tôi hút - mặc dù lúc đó tôi chỉ là một thằng nhóc. Tôi giả vờ biết rõ mình đang làm gì và khi tôi phá ra ho sặc sụa, anh không chế nhạo tôi. “Anh bạn này, thật tệ khi phải là mày,” anh ta nói, và tôi gật đầu. “Ý tao là, bố mày đấy?” Raine nhăn mặt lại và bắt chước giống hệt bố tôi, đang gọi một ly latte đậu nành nửa cà phê không bọt không béo cỡ vừa.

Mỗi lần tôi tới thăm bố, Raine dành thời gian để gặp tôi. Tôi kể anh nghe rằng thật bất công quá thể khi bị phạt ở lại trường sau giờ tan học vì đánh một đứa dám gọi mẹ tôi là thứ ma men. Anh bảo vấn đề không phải ở tôi, mà là ở mấy ông thầy bà cô, không nhận ra tôi có tiềm năng lớn thế nào và tôi thông minh ra sao. Anh đưa sách cho tôi đọc, như quyển The Turner Diaries[7], để cho tôi biết rằng mình không phải là người duy nhất cảm thấy người khác có âm mưu muốn dìm mình xuống. Anh cho tôi mượn CD về nhà, những ban nhạc theo chủ nghĩa dân tộc da trắng với thứ nhịp điệu nghe như tiếng búa đóng đanh. Chúng tôi lái xe đi vơ vẩn và anh sẽ nói những chuyện như chủ tịch của tất cả các đài truyền thông lớn đều có họ Do Thái như Moonves và Zucker và chúng mớm cho ta đủ thứ tin tức, để ta tin bất cứ thứ gì chúng muốn. Những chuyện anh nói có lẽ nhiều người đã nghĩ tới, nhưng chẳng bao giờ đủ dũng cảm để lên tiếng công khai.

Nếu có người thấy lạ khi một thanh niên hai mươi muốn đi chơi với một thằng nhóc mười lăm, thì cũng không ai nói năng gì. Có lẽ bố mẹ thấy nhẹ nhõm vì biết lúc tôi đi với Raine, ít ra tôi cũng không đánh đấm ai hay cúp học hay đâm đầu vô rắc rối. Vậy nên lúc anh rủ tôi dự một lễ hội cùng mấy người bạn nữa, tôi chớp lấy ngay cơ hội để đi. “Ở đó có mấy thứ như kiểu ban nhạc không?” tôi hỏi, đoán rằng đó là một trong những lễ hội âm nhạc rộ khắp vùng nông thôn Vermont trong tháng Bảy.

“Có, nhưng nó giống như trại hè hơn,” Raine giải thích. “Tao đã thông báo với mọi người là mày sẽ tới. Họ nóng lòng gặp mày lắm đấy.”

Chưa bao giờ có ai hào hứng gặp tôi, nên tôi phấn chấn lắm. Thứ Bảy đó, tôi xách ba lô và túi ngủ rồi ngồi vào ghế hành khách với con Chihuahua tên Thịt chồm hỗm trong lòng trong khi Raine đón ba người bạn nữa - tất cả đều biết tên tôi, như thể Raine thật sự đã kể với họ về thằng tôi này. Bọn họ ai nấy đều mặc áo đen, trên ngực có logo TĐBM. “Nó là viết tắt cho cái gì vậy?” tôi hỏi.

“Tử đội Bắc Mỹ[8],” Raine đáp. “Một kiểu nhóm của bọn tao ấy mà.”

Tôi muốn có một cái như vậy hết sức. “Vậy, ừm, làm sao mới được làm thành viên nhóm đó?” tôi hỏi, làm ra vẻ thật tự nhiên.

Một tay trong bọn phá lên cười. “Mày được mời vào,” anh ta trả lời.

Ngay lúc đó tôi quyết định mình sẽ làm tất cả để được mời.

Chúng tôi lái đi trong khoảng một giờ rồi Raine theo lối thoát, ngoặt về bên trái ở chỗ một tấm biển viết tay cắm cột ghi ngắn gọn hai chữ IE. Sau đó chúng tôi còn gặp nhiều tấm biển như thế, chúng chỉ lối băng những cánh đồng ngô, qua các nông trại xập xệ và cả một cánh đồng rải rác mấy con bò thơ thẩn. Khi chúng tôi lên đến một cái đỉnh hẹp, tôi thấy khoảng trăm chiếc xe đậu trên một cánh đồng bùn lầy.

Cảnh tượng trông như một ngày hội lớn. Ở đó có sân khấu và một ban nhạc chơi ầm ĩ đến mức tim tôi đập thình thình như phách nặng. Các gia đình thơ thẩn đó đây ăn xúc xích rán và bánh chiên, bọn con nít vắt vẻo trên vai bố chúng trong những chiếc áo thun đề CHIẾN ĐẤU VÌ TƯƠNG LAI TRẺ EM DA TRẮNG! Con Thịt quấn quýt bên chân tôi trong sợi xích của nó, làm dây xích quấn nhằng nhịt khi nó chén vội mấy vụn bắp rang rơi rớt. Một gã lạ mặt tới vỗ vai Raine và chào đón anh nồng nhiệt kiểu lâu ngày mới gặp, để tôi một mình lảng ra xa vài mét hướng tới một trường bắn súng.

Một gã béo có lông mày như sâu bướm bò ngang trán nhăn nhở cười với tôi. “Mày muốn thử không, nhóc?”

Có một đứa cỡ tuổi tôi đang bắn một mục tiêu gắn trên đống củi. Nó đưa khẩu Browning bán tự động cho ông già và tới lấy lại hồng tâm. Đó là gương mặt nhìn nghiêng của một người đàn ông với cái mũi khoằm phóng đại. “Có vẻ mày giết được thằng Do Thái rồi đấy, Gunther,” người đàn ông nói, miệng cười nhăn nhở. Rồi ông ta bế con Thịt lên và chỉ tay tới một cái bàn. “Tao giữ con chó,” ông ta bảo tôi. “Mày muốn bắn gì thì chọn đi.”

Có một chồng mục tiêu đủ loại: những gương mặt Do Thái nhìn nghiêng, cả mặt người Da Đen nữa, với cặp môi khổng lồ và trán dốc về sau. Họ còn có hồng tâm hình Martin Luther King Jr trên cùng in dòng chữ: GIẤC MƠ CỦA TÔI ĐÃ THÀNH HIỆN THỰC.

Trong một thoáng, tôi cảm thấy buồn nôn. Mấy bức ảnh làm tôi nhớ tới những bộ phim hoạt hình chúng tôi xem trong tiết sử, với các kiểu minh họa phóng đại gớm ghiếc đã đưa đến Chiến tranh Thế giới. Tôi tự hỏi cái công ty quái quỷ nào đã sản xuất ra thể loại mục tiêu ngắm bắn này, bởi vì chắc chắn chúng không được bán trong khu vực dụng cụ đi săn của siêu thị Wal-Mart. Như thể ở đây có cả một xã hội bí mật mà tôi chưa từng biết tới, và tôi vừa nghe thì thầm bên tai mật khẩu để được nhận vào.

Tôi chộp lấy một mục tiêu có bộ tóc xoăn xù đâm ra lỉa chỉa quanh đường biên hồng tâm. Người đàn ông gắn nó lên một sợi dây phơi đồ. “Chẳng thể nhận ra đó là cái bóng,” gã cười khẩy. Đặt con Thịt lên bàn cho nó ngửi ngửi đám mục tiêu, gã kéo cái của tôi về lại bên rìa đống củi. “Mày biết dùng vũ khí chứ hả?” gã hỏi.

Tôi đã vài lần thử bắn bằng súng ngắn của ông ngoại nhưng chưa bao giờ đụng tới cái gì như này. Tôi nghe người đàn ông giải thích cách hoạt động của khẩu súng; rồi tôi đeo tai nghe và kính bảo vệ, tì báng súng vào vai, nheo mắt, và bấm cò. Một loạt đạn khạc ra, như một trận ho khan. Tiếng động thu hút sự chú ý của Raine, và anh vỗ tay, có vẻ rất ấn tượng, khi mục tiêu được kéo lại chỗ tôi với ba phát đạn găm gọn vào trán. “Xem anh bạn kìa,” Raine tấm tắc. “Có khiếu đấy.”

Raine gấp mục tiêu lại và nhét nó vào túi sau, để chốc nữa có thể khoe đám bạn rằng tôi là một xạ thủ cừ khôi cỡ nào. Tôi lại cầm lấy dây xích con Thịt, và chúng tôi băng qua khoảng sân tụ tập. Trên sân khấu, một người đàn ông đang thu hút sự chú ý của khán giả. Khí chất của ông quyền uy tới mức giọng nói trở thành một thứ nam châm, và tôi thấy mình bị kéo về phía đó để thấy ông rõ hơn. “Tôi muốn kể với tất cả các bạn một câu chuyện nhỏ,” người đàn ông nói. “Có một thằng da đen ở thành phố New York, vô gia cư, dĩ nhiên. Bấy giờ hắn đang đi bộ qua Công viên Trung tâm và nhiều người nghe hắn nói oang oang, tuyên bố rằng hắn sẽ đấm một thằng da trắng trong giấc ngủ. Nhưng những người này, họ không nhận ra chúng ta đang trong một cuộc chiến tranh. Rằng chúng ta đang chiến đấu bảo vệ dòng giống mình. Vậy nên họ không hành động. Họ lờ đi mối đe dọa và coi đó là lời nói càn của một thằng dở điên dở dại. Và chuyện gì đã xảy ra? Cái thứ quái vật của đất đó tiếp cận một người Mỹ da trắng - một người đàn ông như bạn, có lẽ, hoặc như tôi, một người chẳng làm gì ngoài việc sống cuộc đời Chúa đã định cho anh ta - một người đàn ông đang chăm lo cho bà mẹ già chín mươi tuổi. Con quái vật của đất đã đấm người đàn ông đó, khiến người này ngã xuống, đập đầu vào vệ đường, và chết. Người đàn ông da trắng này, chỉ đang đi dạo công viên, đã bị giáng một vết thương chí mạng. Vậy mà, các bạn đoán thử xem - chuyện gì đã xảy ra với thằng da đen kia? Ồ, những người anh em, chị em của tôi... tuyệt nhiên chẳng có chuyện gì cả”

Tôi nghĩ tới kẻ đã giết anh trai tôi, tự do đi khỏi phòng xét xử. Tôi nhìn những người xung quanh gật đầu và vỗ tay, rồi nghĩ: Tôi không đơn độc.

“Ông ấy là ai vậy?” tôi hỏi.

“Francis Mitchum,” Raine thì thầm, “ông ấy là một trong nhóm thành viên kỳ cựu. Nhưng ổng, ừm, là một huyền thoại.” Anh bạn tôi gọi tên người diễn thuyết như cách một người ngoan đạo gọi Chúa trời - nửa thì thầm, nửa cầu nguyện. “Mày thấy cái mạng nhện trên khuỷu tay ổng không? Mày chỉ được xăm nó khi đã giết người. Mỗi lần giết, mày được thêm một con ruồi.” Raine ngừng lại. “Mitchum, ổng có tới mười con.”

“Tại sao bọn da đen không bao giờ bị tuyên phạt vì tội phân biệt chủng tộc?” Francis Mitchum hỏi, một câu hỏi tu từ. “Vì sao chúng được miễn tội? Chúng làm gì có cửa được khai hóa, nếu không nhờ sự giúp đỡ của người da trắng. Hãy xem chúng tới từ đâu, từ châu Phi. Ở đó còn chẳng có chính quyền văn minh. Tất cả bọn chúng đang tàn sát lẫn nhau ở Sudan. Người Hutu giết người Tutsi. Và chúng cũng đang làm chuyện đó trên đất nước chúng ta. Mấy băng nhóm trong các thành phố của ta - đó chỉ là xung đột bộ tộc giữa bọn đen. Và giờ, chúng đang nhắm vào người Mỹ da trắng. Bởi vì chúng biết chúng có thể thoát tội.” Ông cao giọng khi hướng mắt nhìn ra đám đông. “Giết một thằng da đen cũng như giết một con hươu.” Rồi ông ngừng lại. “Thật ra, tôi xin rút lại câu đó. Ít ra thịt hươu còn ăn được.”

Nhiều năm sau, tôi nhận ra lần đầu tiên mình đến Trại Đế chế Vô hình - lần đầu tiên tôi nghe Francis Mitchum diễn thuyết - có lẽ Brit cũng đang ở đó, cùng đi với bố mình. Tôi thích nghĩ rằng có khi lúc ấy, Brit đang đứng phía bên kia sân khấu, lắng nghe người diễn giả mê hoặc đám đông. Rằng có khi chúng tôi đã va phải nhau tại quầy kẹo bông gòn, hoặc đứng cạnh bên nhau khi tia lửa từ cây thập giá bốc cháy bắn lên nền trời đêm tăm tối.

Rằng chúng tôi đã được trời định cho nhau.

Trong một tiếng đồng hồ, Brit và tôi tung ra hết cái tên này đến cái tên khác như ném bóng chày: Robert, Ajax, Will. Garth, Erik, Odin. Mỗi lần tôi nghĩ mình đã nảy ra cái gì đó mạnh mẽ và đúng chất da trắng, Brit lại nhớ tới một đứa nhỏ cùng tên trong lớp cô ấy, cái đứa đã từng xơi hồ dán hay nôn mửa vô cái kèn tuba của nó. Mỗi lần vợ tôi nêu ra một cái tên cô ấy thích, nó lại làm tôi nhớ tới thằng khốn nào đó tôi từng đụng phải.

Khi cuối cùng nó cũng đến với tôi, như một tia sét, tôi nhìn xuống gương mặt say ngủ của con trai và thì thầm: Davis. Họ của vị chủ tịch Liên minh miền Nam Hoa Kỳ.

Brit nhẩm cái tên này trong miệng. “Nó thật khác biệt.”

“Khác biệt là tốt mà.”

“Davis thì được, nhưng không được Jefferson à,” vợ tôi gặng lại.

“Không, vì thế thì thằng bé sẽ được gọi là Jeff.”

“Và Jeff là cái tay hút ma túy và sống trong tầng hầm nhà bà mẹ hắn,” Brit tiếp luôn.

“Nhưng Davis,” tôi khẳng định, “Ừm, Davis là đứa trẻ được mấy đứa khác ngưỡng mộ.”

“Không phải Dave. Hoặc Davy hay David.”

“Đứa nào dám gọi sai tên con mình như vậy sẽ bị nó cho một trận nhớ đời,” tôi hứa.

Tôi chạm vào mép tấm chăn quấn con tôi, không muốn đánh thức thằng bé. “Davis,” tôi gọi, thử cái tên. Đôi bàn tay bé xíu của nó mở ra, như thể nó đã biết tên mình.

“Chúng ta nên ăn mừng,” Brit nói khẽ.

Tôi cúi xuống mỉm cười với vợ. “Em nghĩ họ có bán champagne ở căn-tin không nhỉ?”

“Anh biết em thật sự muốn món gì không? Chocolate sữa lắc.”

“Anh tưởng người ta chỉ thèm ăn trước khi sinh con thôi chứ...”

Brit bật cười. “Em khá chắc là mình có thể dùng chiêu bài hormone ít nhất ba tháng nữa...”

Tôi đứng dậy, tự hỏi chẳng biết căn-tin có mở cửa lúc bốn giờ sáng không. Thế nhưng tôi thật sự không muốn rời đi. Ý tôi là, Davis chỉ vừa đến đây thôi mà. “Rủi anh bỏ lỡ cái gì thì sao?” Tôi hỏi. “Em biết đấy, một cột mốc quan trọng nào đó chẳng hạn.”

“Đâu phải như thằng bé sẽ ngồi dậy, đứng lên đi hay tự dưng nói được đâu anh,” Brit đáp. “Nếu anh có bỏ lỡ cái gì thì đó là lần đầu tiên cu cậu đi ị, và thật ra, đó là thứ mà anh sẽ muốn tránh.” Cô ấy ngước nhìn tôi với cặp mắt xanh lam lúc thì thẫm màu như biển, lúc lại trong vắt như thủy tinh, bao giờ cặp mắt ấy cũng khiến tôi có thể vì vợ mà làm tất cả. “Chỉ năm phút thôi mà,” Brit nài nỉ.

“Năm phút.” Tôi nhìn xuống con trai lần nữa, chân chẳng muốn bước đi. Tôi muốn ở đây và đếm đi đếm lại những ngón tay thằng bé, cả những cái móng xíu xiu kia. Tôi muốn ngắm đôi vai nhỏ dâng lên và hạ xuống khi con thở. Tôi muốn nhìn cặp môi hơi chu ra, như thể trong mơ thằng nhỏ đang hôn ai đó. Thật điên rồ khi nhìn vào thằng bé, bằng xương bằng thịt, và biết rằng Brit cùng tôi có thể tạo nên một thứ có thực và chắc chắn từ loại nguyên liệu hư ảo và mơ hồ như tình yêu.

“Lấy kem sữa béo và một trái anh đào anh nhé,” Brit nói thêm, phá vỡ cơn mơ mộng của tôi. “Nếu họ có.”

Một cách miễn cưỡng, tôi lách ra ngoài hành lang, đi qua khu vực của y tá, xuống thang máy. Căn-tin đang mở cửa, do một người phụ nữ đội lưới trùm tóc đang chơi ô chữ trông nom. “Cô có bán sữa lắc không?” Tôi hỏi.

Cô này liếc mắt lên nhìn tôi. “Không.”

“Còn kem thì sao?”

“Có, nhưng chúng tôi hết rồi. Sáng xe chở hàng mới tới.”

Cô này không có vẻ gì là muốn giúp đỡ tôi, và chuyển sự chú ý trở lại cái ô chữ. “Tôi vừa có con,” tôi buột miệng.

“Wow,” cô ả đáp lạnh tanh. “Một phép màu y học, ngay trong hàng chờ mua đồ của tôi.”

“À không, vợ tôi mới sanh con,” tôi sửa lại. “Và cô ấy muốn uống sữa lắc.”

“Tôi muốn trúng số và có được tình yêu bất diệt của diễn viên Benedict Cumberbatch, nhưng thay vào đó tôi phải chấp nhận cái cuộc sống huy hoàng này.” Nữ nhân viên nhìn tôi như thể tôi đang làm mất thời giờ của cô ả; như thể có hàng trăm người đang xếp hàng chờ sau tôi. “Anh muốn nghe lời khuyên của tôi không? Mua kẹo cho cô ấy. Ai cũng thích chocolate hết.” Cô ả thò tay ra sau và lôi xuống một hộp chocolate Ghirardelli vuông. Tôi lật nó úp xuống, xem xét cái nhãn.

“Cô chỉ có vậy thôi à?”

“Ghirardelli đang giảm giá.”

Tôi lật trở lên và thấy biểu tượng vòng tròn có chữ U - chứng tỏ nó là hàng đạt chuẩn Do Thái, rằng bạn phải trả một khoản thuế cho bọn mafia Do Thái. Tôi để nó lại lên kệ và đặt lên quầy một gói kẹo Skittles, với hai đô. “Cô khỏi thối nhé,” tôi bảo ả nhân viên.

Sau bảy giờ, cánh cửa mở ra, và ngay sau đó tôi trở nên căng thẳng.

Kể từ khi Davis ra đời, Lucille đã vào đây hai lần - để kiểm tra tình trạng Brit và đứa trẻ, và để xem thằng bé bú được chưa. Nhưng lần này - cái thứ này không phải là Lucille.

“Tên tôi là Ruth,” cô ta giới thiệu. “Tôi là y tá chăm sóc cho chị hôm nay.”

Tất cả những gì tôi nghĩ được khi đó là: Mày phải bước qua xác tao đã.

Phải vận hết từng chút khả năng kiềm chế trong người tôi mới không đẩy cô ta xa khỏi vợ tôi, con trai tôi. Nhưng đám bảo vệ chỉ cách đây một tiếng còi báo động, và nếu họ tống tôi ra khỏi bệnh viện, gia đình tôi biết làm sao? Nếu tôi không thể ở đây để bảo vệ người nhà mình, thì thế là tôi đã bại.

Vậy nên thay vào đó, tôi ngồi sát ra mép ghế, tất cả cơ bắp trong người chuẩn bị phản ứng.

Brit giữ Davis chặt đến độ tôi nghĩ thằng bé sắp ré lên. “Thằng bé đáng yêu làm sao!” nữ y tá da đen tấm tắc. “Tên bé là gì vậy?”

Vợ tôi nhìn sang tôi, ánh mắt dò hỏi. Cô ấy chẳng muốn trò chuyện với con mụ y tá này gì hơn với một con dê hay con thú gì khác. Nhưng cũng như tôi, Brit biết người da trắng đã trở thành bộ phận thiểu số ở đất nước này và chúng tôi luôn là đối tượng bị tấn công; chúng tôi phải cố gắng hòa nhập.

Tôi gật cằm một lần, khẽ tới nỗi tôi chẳng biết Brit có thấy không. “Tên thằng bé là Davis,” vợ tôi đáp gọn.

Nữ y tá đến gần chúng tôi hơn, miệng nói gì đó về việc kiểm tra Davis, và Brit co lại. “Cô không cần phải rời thằng bé,” cô ta nhượng bộ.

Thế rồi tay cô ta bắt đầu rờ rẫm khắp người con tôi, như kiểu thầy phù thủy điên chữa bệnh. Cô ta ấn ống nghe lên lưng Davis rồi len nó vào giữa thằng bé và Brit. Cô ta nói gì đó về tim của con tôi, và tôi gần như chẳng nghe được gì vì máu dồn về sôi réo bên tai.

Thế rồi cô ta bế thằng bé lên.

Brit và tôi rất sốc khi cô ta tự tiện bồng con chúng tôi đi - dù chỉ đến chỗ máy sưởi để tắm - đến nỗi nhất thời cả tôi và vợ đều không nói nên lời.

Tôi bước về phía y tá, tới chỗ cô ta đang cúi xuống bên trên con trai tôi, nhưng Brit nắm đuôi áo tôi lại. Đừng làm to chuyện.

Chẳng lẽ anh cứ phải đứng đực ở đây?

Chứ anh muốn cô ta biết anh khó chịu và trút hết lên đầu con mình hả?

Anh muốn Lucille trở lại. Chuyện gì xảy ra với Lucille rồi?

Em đâu biết. Có lẽ chị ta đi rồi.

Sao cô ta làm vậy được, khi bệnh nhân của cô ta còn ở đây?

Em có biết đâu, anh Turk, em đâu phải là người điều hành bệnh viện này.

Tôi dõi theo nữ y tá như diều hâu trong lúc cô ta lau chùi cho Davis, gội đầu và lấy khăn quấn thằng bé lại. Cô ta đeo một cái vòng điện tử nhỏ lên cổ chân con tôi - như cái mà bạn thỉnh thoảng vẫn thấy trên các tù nhân đã được thả ra nhưng bị quản chế. Như thể chưa gì thằng nhỏ đã bị hệ thống này trừng phạt.

Tôi nhìn nữ y tá da đen trừng trừng, dữ dội đến độ cô ta có bốc cháy thì tôi cũng chẳng thấy ngạc nhiên. Cô ta mỉm cười với tôi, nhưng ánh mắt chẳng có gì là tươi cười cả. “Thơm tho sạch sẽ,” cô ta thông báo. “Nào, để xem chúng ta có thể cho cu cậu bú được không.”

Nữ y tá tiến tới mở cổ bộ váy bệnh nhân của Brit, và tôi không đừng được nữa. “Tránh xa cô ấy ra,” tôi nói, giọng trầm và thẳng thừng như một mũi tên. “Tôi muốn nói chuyện với sếp của cô.”

Một năm sau ngày tôi đến Trại Đế chế Vô hình, Raine hỏi tôi có muốn gia nhập Tử đội Bắc Mỹ không. Chỉ tin vào điều Raine tin tưởng thôi thì không đủ, rằng da trắng là chủng tộc thượng đẳng. Đã đọc đi đọc lại Mein Kampf[9] đến ba lần cũng không đủ nốt. Để trở thành một trong số họ, đúng nghĩa, tôi phải chứng tỏ bản thân, và Raine hứa rằng tôi sẽ biết ở đâu và khi nào là đến đúng thời điểm.

Một đêm nọ khi đang ở nhà bố, tôi tỉnh dậy vì nghe có tiếng đập cửa sổ phòng mình. Tôi không lo ngại họ sẽ đánh thức người trong nhà; bố tôi đã đi dự tiệc tối để bàn chuyện kinh doanh ở Boston, sau nửa đêm mới về. Ngay khi tôi vừa kéo cửa lên, Raine và hai thằng nữa xộc vào, đóng bộ đen thùi như ninja. Raine lập tức vật tôi xuống sàn, cẳng tay chèn lên họng tôi. “Nguyên tắc số một,” anh nói, “không mở cửa nếu mày không biết ai sẽ vào.” Anh ta chờ đến khi tôi nổ đom đóm mắt rồi mới thả tôi ra. “Nguyên tắc số hai: không bắt tù nhân.”

“Em không hiểu,” tôi lên tiếng.

“Tối nay, Turk,” anh bạn bảo tôi, “chúng ta là những người canh giữ. Chúng ta sẽ dọn sạch rác rưởi ở Vermont này.”

Tôi tìm một chiếc quần thể thao đen và một áo len dài tay in lưới mà tôi lộn trái mặc, để đen đồng bộ. Vì tôi không có nón len đen nên Raine đưa tôi đội cái của anh, còn anh cột túm tóc lại thành đuôi ngựa. Chúng tôi lái đi trong xe của Raine, chuyền tay nhau một chai Jägermeister và mở nhạc rock ầm ĩ, lái tới Dummerston.

Tôi chưa bao giờ nghe nói tới Rainbow Cattle Company, nhưng vừa tới nơi, tôi đã hiểu ngay đó là chỗ như thế nào. Có những người đàn ông nắm tay nhau khi đi từ bãi đậu xe vào quán bar, và mỗi lần cửa mở, người đứng ngoài lại thoáng thấy một cái sân khấu chiếu đèn sáng trưng và một “nữ hoàng giả hiệu”[10] đang hát nhép. “Làm gì thì làm cũng đừng có cúi xuống,” Raine cười hinh hích.

“Chúng ta làm gì ở đây vậy?” tôi hỏi, không rõ tại sao anh lại lôi tôi tới một quán bar cho bọn gay.

Vừa lúc đó thì hai người đàn ông bước ra, khoác tay nhau. “Làm cái này này,” Raine đáp, và anh nhảy bổ vào một trong hai gã lạ mặt, đập đầu hắn xuống đất. Bạn hẹn của hắn chạy đi hướng khác, nhưng bị vật ngã bởi một người bạn của Raine.

Cánh cửa lại mở ra, và một cặp nam khác loạng choạng bước vào bóng tối bên ngoài. Đầu hai người tựa vào nhau trong khi họ cùng cười vì một trò đùa riêng nào đó. Một người thò tay vào túi lấy chùm chìa khóa, và khi ông ta quay đầu về phía bãi đỗ, gương mặt ông được ánh đèn một chiếc xe chạy ngang chiếu sáng.

Lẽ ra tôi phải liên kết được mọi chuyện với nhau sớm hơn - cái dao cạo điện trong tủ thuốc, khi mà bố tôi toàn dùng dao cạo thường; tuyến đường vòng bố thường chọn để ngừng lại mua cà phê mỗi ngày trên đường đi và về từ chỗ làm tại cửa hàng của Greg; cách ông bỏ lại mẹ tôi nhiều năm trước chẳng giải thích một lời; việc ông ngoại chẳng lúc nào ưa bố. Tôi giật mũ xuống thấp hơn và kéo cái đồ bịt mặt Raine đưa lên cao, để mình không bị nhận ra.

Thở hồng hộc, Raine tung thêm một cú đá vào nạn nhân của anh rồi để gã đó cuống cuồng bỏ chạy vào màn đêm. Anh đứng thẳng dậy, cười với tôi, và hất đầu, chờ tôi lên trước. Nhờ vậy mà tôi nhận ra rằng trong khi mình chẳng mảy may hay biết, Raine đã biết tỏng chuyện bố tôi từ đầu.

Năm tôi bốn tuổi, cái nồi đun nước nóng trong nhà tôi nổ tung đúng lúc nhà chẳng có ai. Tôi nhớ đã hỏi nhân viên đánh giá thiệt hại của công ty bảo hiểm xem cái gì trục trặc, ông ta nói gì đó về van an toàn và sự ăn mòn rồi đung đưa hết chân này tới chân kia, ông bảo khi có quá nhiều hơi nước, mà cấu trúc của vật chứa không đủ mạnh để giữ nó bên trong, chuyện thế này sẽ xảy ra. Suốt mười sáu năm ròng, hơi nước nóng tích tụ trong tôi, vì tôi không phải và sẽ không bao giờ là người anh đã chết; vì tôi không thể giữ bố mẹ lại bên nhau; vì tôi không phải là đứa cháu trai mà ông ngoại muốn có; vì tôi quá ngu ngốc, quá nóng đầu hay kỳ cục. Khi tôi nghĩ lại khoảnh khắc đó, nó nóng đến trắng lòa: túm lấy cổ họng bố và dộng đầu ông xuống vệ đường; bẻ quặt tay ông ra sau lưng và đá lên tấm lưng đó đến khi ông hộc máu. Lật cái thân hình mềm oặt ngửa lên, gọi ông là thằng bóng, trong khi dộng nắm đấm vào mặt ông lần nữa rồi lần nữa. Vùng vẫy kịch liệt trong tay Raine, trong lúc anh kéo tôi đến chỗ an toàn khi tiêng còi cứ lớn dần rồi ánh sáng đỏ xanh nhuộm khắp bãi xe.

Câu chuyện truyền đi, như mọi câu chuyện khác, và trong quá trình đó, nó đã bị thổi phồng và biến tướng: Thành viên mới nhất của Tử đội Bắc Mỹ - tức là tôi - đã tấn công sáu thằng cùng lúc. Một tay tôi cầm ống đồng còn một tay múa dao. Tôi đã cắn đứt dái tai một gã và nuốt chửng nó.

Dĩ nhiên, không có gì trong đó là sự thật. Nhưng cái này thì đúng: Tôi đã đánh bố mình tàn tệ đến mức ông bị đưa vào viện, và người ta phải cho ông ăn qua ống hút hàng tháng ròng.

Và nhờ đó, tôi đã trở thành huyền thoại.

“Chúng tôi muốn cô y tá kia trở lại,” tôi bảo cái cô y tá phụ trách tên Mary hay Marie gì đó. “Cái cô ở đây tối qua ấy.”

Cô này yêu cầu nữ y tá da đen đi ra, để chúng tôi nói chuyện riêng. Tôi kéo ống tay áo xuống, nhưng mắt cô ta vẫn liếc về phía cẳng tay tôi.

“Tôi có thể đảm bảo với anh rằng Ruth có hơn hai mươi năm kinh nghiệm ở đây,” y tá phụ trách nói.

“Tôi nghĩ cô và tôi đều biết tôi không phản đối vì kinh nghiệm của cô ta,” tôi đáp.

“Chúng tôi không thể đổi một nhân viên y tế đi vì lý do chủng tộc. Đó là hành vi phân biệt đối xử.”

“Nếu tôi yêu cầu được chăm sóc bởi một nữ bác sĩ sản khoa thay vì nam bác sĩ, thế có phải là phân biệt đối xử không?” Brit hỏi. “Hoặc một bác sĩ thực thụ thay vì sinh viên thực tập? Nhưng mấy người vẫn đồng ý làm vậy suốt mà.”

“Chuyện đó khác,” y tá trả lời.

“Khác chỗ nào, hả?” tôi gặng hỏi. “Theo tôi biết, các người đang làm việc trong ngành chăm sóc khách hàng, và tôi chính là khách hàng đây. Các người làm sao cho khách hàng thấy thoải mái thì làm.” Tôi đứng dậy và hít vào một hơi sâu, cao vượt lên trấn áp cô ta, chủ ý đe dọa. “Tôi không tưởng tượng được những ông bố bà mẹ ở đây sẽ bất an đến thế nào, nếu, cô biết đấy, mọi chuyện vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Nếu thay vì trò chuyện một cách bình tĩnh, dễ chịu thế này, chúng ta lại lớn tiếng với nhau. Nếu các bệnh nhân khác đâm ra lo ngại rằng có khi quyền lợi của họ cũng bị phớt lờ.”

Nữ y tá mím chặt môi. “Anh đang dọa dẫm tôi đấy à, anh Bauer?”

“Tôi không nghĩ việc đó là cần thiết,” tôi đáp gọn. “Cô nghĩ sao?”

Sự căm ghét cũng có nhiều cấp độ, và với mỗi người thì thứ tự này lại khác nhau. Cá nhân tôi ghét bọn nói tiếng Tây Ban Nha hơn người châu Á, tôi còn ghét lũ Do Thái hơn, và trên tất cả, tôi khinh đám mọi đen. Thế nhưng hơn cả các nhóm này, người mà ta ghét nhất là cái đám da trắng chống phân biệt chủng tộc. Bởi vì chúng là đồ phản bội.

Trong một thoáng, tôi chờ xem Marie có phải một trong số đó không.

Một sợi cơ trên cổ cô ta giần giật. “Tôi chắc rằng chúng ta có thể tìm một giải pháp đẹp lòng cả đôi bên,” cô ta lẩm bẩm. “Tôi sẽ ghi chú vào hồ sơ của Davis, nêu rõ... ý muốn của anh chị.”

“Tôi cho đó là ý hay đấy,” tôi nhận xét.

Khi cô ta căm phẫn rời khỏi phòng, Brit phá ra cười. “Anh yêu, khi bốc lên anh ngầu thật đấy. Nhưng anh biết không, sau chuyện này thể nào họ cũng nhổ nước bọt vào rau câu trái cây trước khi đưa em ăn.”

Tôi đưa tay vào nôi và bế Davis ôm vào lòng. Thằng bé nhỏ đến mức có duỗi thẳng người cũng chưa bằng cẳng tay tôi. “Cần gì thứ đó, anh sẽ mang bánh quế từ nhà lên cho em,” tôi bảo Brit. Rồi tôi cúi xuống hôn lên trán con tôi, và thì thầm bên làn da nó, một bí mật của riêng chúng tôi. “Và con,” tôi hứa. “Con, bố sẽ bảo vệ con đến suốt đời.”

Vài năm sau khi tôi bắt đầu tham gia phong trào Quyền lực Trắng, khi tôi đang điều hành TĐBM ở Connecticut, gan của mẹ tôi cuối cùng cũng hỏng hẳn. Tôi về nhà để giải quyết chuyện di sản và bán cái nhà của ông ngoại đi. Khi soạn lại đồ đạc của mẹ, tôi tìm thấy biên bản phiên tòa vụ anh tôi. Vì sao mẹ lại có nó, tôi không biết; chắc bà đã phải cố gắng lắm để lấy được nó. Tôi ngồi trên sàn gỗ phòng khách, xung quanh bừa bộn những thùng đồ sẽ đi tới Goodwill[11] và vào bãi rác, đọc hết xấp biên bản - từng trang một.

Phần lớn lời khai đều rất mới với tôi, như thể tôi chưa từng ngồi nghe không sót phút nào phần khai nhận hôm đó. Tôi không nói được là mình quá nhỏ nên chẳng nhớ, hay tôi đã cố tình quên đi, nhưng chứng cứ tập trung vào dải phân cách và kết quả kiểm tra thuốc cấm. Không phải của bị đơn - mà của anh tôi. Là xe của Tanner đã chạy vào đường đi xe khác, bởi vì anh đang phê thuốc. Dấu bánh xe đã nói lên tất cả: bằng chứng cho thấy người đàn ông bị xét xử vì vô ý gây chết người đã cố gắng hết sức để tránh chiếc xe đi vào làn của ông ta. Lý do mà bồi thẩm đoàn không thể tuyên bố, không chút nghi ngờ, rằng tai nạn xe hoàn toàn là lỗi của bị cáo.

Tôi ngồi đó một lúc lâu với xấp biên bản trên đùi. Đọc đi. Rồi đọc lại.

Thế nhưng tôi chỉ thấy thế này: nếu thằng da đen không lái xe đi lung tung đêm đó, anh tôi đã không chết.

Chú thích:

[4] “treo” nguyên văn là hung, chỉ tình trạng bồi thẩm đoàn không đưa ra được lời tuyên án, khác với “án treo”.

[5] Tên hai thành phố trong sách Sáng Thế đã hứng chịu sự trừng phạt của Chúa. Hiện nay và trong quá khứ, hai thành phố này được dùng như ẩn dụ để nói đến sự đồi bại, trụy lạc.

[6] Nguyên văn là alternative coffeehouse.

[7] Một tiểu thuyết xuất bản năm 1978 của William Luther Pierce có nội dung phân biệt chủng tộc nặng nề.

[8] Nguyên văn là North American Death Squad, viết tắt là NADS. Death squad là kiểu biệt đội vũ trang chuyên xử tử không xét xử hoặc làm cho một số người biến mất nhằm mục đích đàn áp chính trị, diệt chủng hoặc khủng bố.

[9] Mein Kampf (tạm dịch từ tiếng Đức: Cuộc tranh đấu của tôi) là tựa cuốn tự truyện của lãnh đạo Đức Quốc xã và trùm phát xít Adolf Hitler.

[10] Nguyên văn là drag queen, chỉ những người nam giả nữ để trình diễn giải trí.

[11] Goodwill là một tổ chức phi lợi nhuận của Mỹ chuyên triển khai những chương trình cộng đồng, mà một trong số đó là nhận đồ cũ do mọi người đóng góp rồi bán lại để gây quỹ mở lớp dạy nghề hoặc để thực hiện dịch vụ tạo công ăn việc làm cho người thất nghiệp.