← Quay lại trang sách

Kennedy

Nếu có thể nhào lộn vào văn phòng thẩm phán Thunder, tôi sẽ làm thế.

Tôi để Howard ngồi với Ruth trong phòng hội nghị. Có một cơ hội tuyệt vời để vụ kiện này được hủy hoàn toàn. Tôi đã làm kiến nghị tuyên bố trắng án và tôi biết, ngay khi bước vào văn phòng thẩm phán, rằng Odette biết cô ta tiêu rồi. “Thẩm phán,” tôi mở lời, “đứa bé đã chết, và đó đúng là một thảm kịch đau lòng, nhưng không có bằng chứng nào cho thấy Ruth Jefferson đã có hành vi cố tình, vô đạo đức hay cẩu thả. Cáo buộc giết người do tiểu bang đưa ra chẳng có bằng chứng nào ủng hộ và theo luật pháp, phải được hủy bỏ.”

Thẩm phán quay sang Odette. “Luật sư? Bằng chứng bị cáo có tính toán trước đâu? Đâu là bằng chứng cô ta có ác ý?”

Odette không trả lời thẳng. “Tôi coi bình luận triệt sản đứa bé là một chỉ dấu rõ ràng.”

“Thưa tòa, đó là câu trả lời chua chát của một phụ nữ bị phân biệt đối xử,” tôi lập luận. “Nó có liên quan mật thiết tới những sự kiện sau đó nhưng không cho thấy mưu tính giết người.”

“Tôi phải đồng ý với cô McQuarrie,” thẩm phán Thunder nói. “Hằn học, phải; nhưng không thể hiện ý định giết người, ít nhất là theo định nghĩa trong luật. Nếu luật sư phải chịu trách nhiệm cho những bình luận hằn học mà các cô đưa ra về thẩm phán sau một vụ kiện không như ý, thế thì ai cũng bị kết án giết người rồi. Cáo buộc thứ nhất được hủy bỏ, và cô McQuarrie, kiến nghị tuyên bố trắng án của cô được duyệt.”

Khi bước dọc hành lang về phòng hội nghị để báo cho khách hàng cái tin hết sảy, tôi nhìn sau lưng để đảm bảo không có ai, rồi nhảy chân sáo trong đôi giày cao gót. Ý tôi là, đâu phải ngày nào một vụ kiện giết người cũng xoay sang chiều hướng có lợi cho bạn; và chắc chắn không phải ngày nào chuyện đó cũng xảy ra với vụ kiện giết người đầu tiên bạn nhận về. Tôi để mình tưởng tượng cảnh sếp Harry gọi tôi vào văn phòng, và cũng cục cằn như thường lệ, nói rằng tôi làm ông bất ngờ lắm đấy. Tôi tưởng tượng từ rày về sau sẽ được nhận thêm nhiều vụ lớn, và Howard sẽ được thăng chức vào vị trí của tôi.

Nét mặt rạng ngời, tôi bước vào phòng hội nghị. Howard và Ruth quay sang tôi, hy vọng tràn trề. “Ông ấy đã hủy cáo buộc giết người,” tôi thông báo, cười toét miệng.

“Hết sảy!” Howard vung nắm đấm vào không khí.

Ruth thì thận trọng hơn. “Tôi biết đây là tin tốt... nhưng tốt đến mức nào?”

“Cực tốt,” tôi đáp. “Về pháp luật, tội vô ý làm chết người hoàn toàn khác giết người. Kịch bản tồi tệ nhất - bị kết án - bị cáo cũng gần như chẳng phải ngồi tù ngày nào, và thật lòng mà nói, bằng chứng y tế của chúng ta mạnh đến nỗi tôi sẽ ngạc nhiên nếu bồi thẩm đoàn không tha bổng cho...”

Ruth choàng tay qua cổ tôi. “Cảm ơn cô.”

“Nghĩ mà xem,” tôi nói. “Đến cuối tuần này, mọi chuyện có thể đã xong xuôi hết. Ngày mai tôi sẽ tới tòa thông báo bên biện hộ nghỉ, và nếu bồi thẩm đoàn đưa ra phán quyết nhanh như dự đoán của tôi thì...”

“Khoan đã,” Ruth cắt ngang. “Cái gì?”

Tôi lùi lại. “Chúng ta đã tạo cho họ đủ lý do để nghi ngờ. Đó là tất cả những gì chúng ta phải làm để thắng.”

“Nhưng tôi vẫn chưa làm chứng mà,” Ruth tỏ vẻ ngạc nhiên.

“Tôi không nghĩ cô nên ra làm chứng. Lúc này, mọi chuyện đang diễn tiến rất thuận lợi cho ta. Nếu ấn tượng cuối cùng của bồi thẩm đoàn là tên điên Turk Bauer cố tóm cổ tôi, cô đã có đủ sự ủng hộ của họ.”

Ruth đột ngột đứng thẳng dậy, thật thẳng. “Cô hứa rồi cơ mà.”

“Tôi hứa sẽ làm hết sức để cô được tha bổng, và tôi đã làm đúng như vậy.”

Ruth lắc đầu. “Cô hứa sẽ cho tôi nói lên câu chuyện từ góc độ của mình.”

“Nhưng cái tuyệt nhất ở đây là cô không phải nói,” tôi chỉ ra. “Bồi thẩm đoàn nêu phán quyết, rồi cô có thể lấy lại công việc của mình. Cô có thể giả vờ như chưa bao giờ có chuyện gì xảy ra cả.”

Giọng Ruth nhẹ nhàng, nhưng cương quyết. “Cô nghĩ tôi có thể giả vờ như chuyện này chưa từng xảy ra sao?” cô hỏi. “Tôi thấy nó mỗi ngày, đi đâu cũng thấy. Cô nghĩ tôi có thể cứ bước vào bệnh viện và nhận lại công việc của mình à? Cô nghĩ tôi sẽ không bị coi là con y tá da đen gây rắc rối sao?”

“Ruth,” tôi kêu lên, không tin nổi. “Tôi chắc chắn 99% rằng bồi thẩm đoàn này sẽ phán cô vô tội. Cô còn muốn gì nữa chứ?”

Cô ấy nghiêng đầu. “Cô vẫn còn phải hỏi ư?”

Tôi biết cô ấy đang nói tới cái gì.

Và đó chính là tất cả những thứ tôi từ chối thảo luận trước tòa án: Cảm giác thế nào khi biết bạn là mục tiêu, vì màu da bạn. Cảm giác thế nào khi làm việc chăm chỉ hết sức, là một nhân viên hoàn hảo, để rồi nhận ra rằng đứng trước định kiến, tất cả những thứ trên chẳng có ý nghĩa gì.

Đúng, tôi đã hứa để cô ấy kể cho bồi thẩm đoàn biết câu chuyện phía mình. Nhưng làm thế để được gì, khi mà chúng tôi đã cho họ một căn cứ để ra quyết định tha bổng.

“Hãy nghĩ cho Edison,” tôi nói.

“Tôi đang nghĩ cho thằng bé đây này!” Ruth đáp lại, giọng gay gắt. “Tôi đang nghĩ thằng bé sẽ nghĩ gì về một người mẹ không tự nói cho mình được.” Rồi cô ấy nheo mắt. “Tôi biết luật, Kennedy. Tôi biết trách nhiệm chứng minh tội trạng thuộc về bên công tố. Tôi cũng biết cô phải cho tôi ra làm chứng nếu đó là điều tôi yêu cầu. Vậy, câu hỏi là: liệu cô có làm việc của mình không? Hay cô chỉ là người tiếp theo trong bao nhiêu người da trắng đã dối gạt tôi?”

Tôi quay sang Howard, đang đứng xem chúng tôi nói qua nói lại như xem hai đấu thủ giằng co trong trận chung kết giải quần vợt Mỹ mở rộng. “Howard,” tôi bình tĩnh bảo, “cậu có thể ra ngoài một lúc cho tôi một mình nói chuyện với khách hàng được không?”

Cậu đồng nghiệp gật và lách ra ngoài. Tôi quay trở lại với Ruth. “Cái quái gì vậy? Giờ không phải lúc để khăng khăng bảo vệ nguyên tắc. Cô phải tin tôi. Nếu cô bước lên bục nhân chứng và bắt đầu nói về chủng tộc, cô sẽ xóa hết lợi thế chúng ta hiện có trong mắt bồi thẩm đoàn. Cô sẽ nói về những vấn đề làm họ cảm thấy xa lạ và khó chịu. Hơn nữa, cô sẽ để lộ ra sự tức giận và phẫn nộ của mình, và điều đó chỉ khiến bồi thẩm đoàn mất hết chút đồng cảm hiện tại họ dành cho cô thôi. Những gì họ cần nghe, tôi đã nói hết rồi.”

“Trừ sự thật,” Ruth đáp.

“Cô đang nói gì vậy?”

“Tôi đã cố hồi sức tim phổi cho đứa trẻ đó. Ban đầu tôi nói với cô mình không động vào bé. Tôi nói thế với tất cả mọi người. Nhưng không phải vậy.”

Bất chợt, tôi cảm thấy muốn bệnh. “Sao trước giờ cô không cho tôi biết chuyện này hả?”

“Đầu tiên, tôi nói dối vì sợ mất việc. Sau đó, tôi nói dối vì không chắc mình có thể tin cô. Rồi sau nữa, mỗi lần định thú nhận với cô, tôi lại thấy hổ thẹn vì đã che giấu sự thật quá lâu, thế là để càng lâu càng khó.” Ruth hít vào một hơi sâu. “Đây là điều lẽ ra tôi nên nói, ngay từ ngày đầu tiên chúng ta gặp mặt: Tôi không được phép động vào đứa bé; hồ sơ y tế đã ghi rõ như vậy. Thế nhưng khi bé tái đi, tôi đã tháo khăn quấn bé ra. Tôi di chuyển bé. Tôi gõ chân bé và trở bé nằm nghiêng, tất cả những việc cô phải làm khi muốn hồi sức cho một đứa trẻ. Thế rồi tôi nghe có tiếng bước chân, và tôi lật đật quấn bé vào chăn trở lại. Tôi không muốn người ta thấy tôi làm cái việc mình không được phép làm.”

“Viết lại chuyện đã rồi để làm gì, hả Ruth?” tôi hỏi, sau một lúc im lặng. “Bồi thẩm đoàn có thể nghe chuyện đó và nghĩ rằng cô đã cố hết sức. Nhưng họ cũng có thể nghĩ cô đã phạm sai lầm và vô tình hại chết đứa bé.”

“Tôi muốn họ biết tôi đã làm việc của mình,” Ruth cương nghị đáp. “Cô cứ khẳng định chuyện này không liên quan gì tới màu da của tôi - vấn đề là tôi làm được hay không làm được việc. Thế đấy, ngoài những chuyện khác, tôi cũng muốn họ biết tôi là một y tá tốt. Biết rằng tôi đã cố gắng cứu mạng đứa trẻ kia.”

“Cô cứ nghĩ khi bước lên bục làm chứng, cô có thể kể câu chuyện của mình và kiểm soát mọi chuyện - nhưng không phải vậy đâu. Odette sẽ xé xác cô. Cô ta sẽ làm bất cứ điều gì có thể để chỉ ra rằng cô là một kẻ nói dối.”

Ruth nhìn tôi. “Tôi thà họ nghĩ tôi nói dối còn hơn là một kẻ giết người.”

“Nếu cô bước lên đó và đưa ra một phiên bản sự thật khác hẳn với những gì chúng ta đã tường trình,” tôi cẩn thận giải thích, “cô sẽ mất sự tín nhiệm. Tôi cũng sẽ mất sự tín nhiệm của mình. Ruth, tôi biết điều gì là tốt nhất cho cô. Không phải tự nhiên mà chúng tôi được gọi là cố vấn - cô phải nghe tôi chứ.”

“Tôi đã chán nghe lệnh lắm rồi. Lần cuối cùng nghe lệnh, tôi đã vướng vào mớ rắc rối này đây.” Ruth khoanh tay lại. “Cô sẽ để tôi bước lên cái bục đó ngày mai,” cô chốt hạ. “Hoặc là tôi nói thẩm phán rằng cô không để tôi làm chứng.”

Và như thế, tôi biết mình sẽ thua vụ kiện này.

Một đêm nọ, khi Ruth và tôi còn chuẩn bị cho phiên xử, chúng tôi đang làm việc trong bếp còn Violet đang hưng phấn, mặc mỗi đồ lót giả vờ làm kỳ lân chạy khắp nhà. Tiếng ré của con bé thỉnh thoảng chen vào cuộc thảo luận của chúng tôi, rồi bỗng dưng âm thanh không còn trong trẻo niềm vui, mà đầy đau đớn. Một khắc sau đó, Violet bắt đầu nức nở, và hai người chúng tôi tất tả chạy ra phòng khách, nơi Violet đang nằm trên sàn, thái dương chảy máu dầm dề.

Tôi nghe đầu gối mình run rẩy, nhưng trước khi tôi kịp chạm đến con, Ruth đã bồng nó lên tay và ấn vạt áo vào vết thương đó. “Thôi nào,” Ruth dỗ dành. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

“Con trượt té,” Vi nấc khẽ trong khi máu thấm vào áo cô y tá.

“Và cô thấy ở đây con bị một vết trầy,” Ruth bình tĩnh nói. “Một vết trầy mà cô sẽ chữa ngay thôi.” Rồi cô ấy bắt đầu sai tôi chạy khắp nhà tôi, bảo tôi lấy một miếng vải thấm nước ẩm, thuốc mỡ kháng sinh và một cái băng cá nhân hình bướm từ hộp sơ cứu y tế. Cô ấy không lúc nào rời khỏi Violet, không lúc nào ngừng nói. Ngay cả khi đề nghị lái xe tới Yale - New Haven kiểm tra xem có cần khâu vết thương không, Ruth cũng hết sức bình tĩnh và cương quyết, trong khi tôi cứ rối lên cả, nào là sợ Violet có sẹo trên đầu, lại sợ bị Dịch vụ Bảo vệ Trẻ em phạt vì không để mắt tới con nhỏ và cho con mang tất chạy trên sàn gỗ trơn trợt. Trong lúc Violet bị khâu hai mũi, tôi không phải người con bé bám vào, mà là Ruth, người cam đoan rằng nếu họ cùng hát thật to, con bé sẽ không thấy đau gì hết. Thế rồi ba chúng tôi gào lên bài Let It Go, và Violet chẳng khóc một chút nào. Khuya hôm đó, khi con tôi có một miếng băng sạch trên đầu và đã ngủ say trong giường nó, tôi liền cảm ơn Ruth vì chuyện vừa qua.

Cô rất giỏi công việc của mình, tôi nhủ với cô ấy.

Tôi biết, cô đáp lại.

Đó là tất cả những gì Ruth muốn. Để mọi người biết cô ấy bị đối xử bất công vì chủng tộc, và để đanh dự người chăm sóc y tế của cô vẫn vẹn nguyên, dù có bị một phán quyết có tội làm ô uế.

“Uống rượu một mình,” Micah lên tiếng khi từ bệnh viện về nhà và thấy tôi ở bên chai Syrah trong nhà bếp tối thui. “Đó là dấu hiệu đầu tiên đấy, biết không?”

Tôi nâng ly lên, hớp một ngụm đầy. “Dấu hiệu của cái gì?”

“Tuổi trưởng thành, chắc vậy,” anh thú nhận. “Em vừa có một ngày làm việc tồi tệ à?”

“Nó bắt đầu rất tuyệt. Thậm chí còn huyền thoại nữa. Rồi chẳng mấy chốc tất cả đi tong hết.”

Micah ngồi xuống cạnh tôi và nới lỏng cà vạt. “Em có muốn nói về chuyện đó không? Hay anh nên lấy một chai cho mình?”

Tôi đẩy chai Syrah về phía anh. “Em tưởng em ăn chắc rồi, được trắng án chắc rồi,” tôi thở dài. “Rồi Ruth đi mà quyết định phá hỏng mọi chuyện.”

Trong khi chồng tôi rót cho mình một ly rượu, tôi kể anh nghe tất cả. Từ cái cách Turk Bauer văn vẻ về sự thù ghét của hắn tới ánh mắt hắn lúc định chộp lấy tôi; từ nỗi hưng phấn cồn lên trong tôi khi kiến nghị tuyên bố trắng án được duyệt tới khi Ruth thừa nhận đã cố cứu lấy đứa bé, và cuối cùng là phát hiện làm choáng váng: tôi phải để Ruth ra làm chứng nếu đó là yêu cầu của cô ấy. Cho dù nó sẽ phá hỏng cơ hội thắng vụ giết người đầu tiên của tôi.

“Ngày mai em phải làm gì đây?” tôi hỏi. “Dù em có hỏi Ruth cái gì đi nữa, cô ấy cũng sẽ tự buộc tội mình. Và đó là chưa kể bên công tố sẽ làm gì cô ấy khi đối vấn đấy.” Tôi rùng mình, nghĩ tới Odette, người thậm chí không biết đối thủ sắp hai tay dâng cả vụ kiện cho cô ta. “Em không tin nổi mình đã gần đến thế rồi,” tôi khẽ khàng. “Em không tin nổi cô ấy sẽ phá hỏng tất cả.”

Micah hắng giọng. “Suy nghĩ cấp tiến số một: có lẽ em nên gạt mình ra khỏi phương trình.”

Tôi đã uống đủ để thấy hình ảnh ông xã hơi nhòe đi một chút, thế nên có lẽ tôi mới nghe nhầm. “Gì chứ?”

“Em không phải là người gần thắng. Mà là Ruth.”

Tôi khịt mũi. “Cũng vậy thôi. Chúng em sẽ cùng thắng, hoặc cùng thua hết.”

“Nhưng cô ấy có nhiều thứ để mất hơn em,” Micah nhẹ nhàng bảo. “Danh tiếng. Sự nghiệp. Cuộc đời. Đây là vụ kiện quan trọng đầu tiên của em, Kennedy. Nhưng là vụ kiện duy nhất quan trọng với Ruth.”

Tôi vò đầu. “Suy nghĩ cấp tiến số hai là gì?”

“Nếu như điều tốt nhất cho Ruth không phải là thắng vụ kiện này thì sao?” Micah đáp lại. “Nếu như điều quan trọng đối với Ruth không phải là cô ấy sẽ nói gì... mà là sự thật rằng cuối cùng cô ấy cũng có cơ hội nói?”

Có đáng không nếu được nói ra điều cần nói rồi bị tống vào nhà ngục? Có đáng không khi tự chuốc vào thân một phán quyết có tội? Điều đó đi ngược lại tất cả những gì tôi từng được dạy, tất cả những gì từ trước đến nay tôi vẫn tin vào.

Thế nhưng tôi không phải là người bị phán xử.

Tôi ấn ngón tay vào hai bên thái dương. Lời Micah nói xoay mòng mòng trong trí.

Anh cầm ly của mình lên và rót rượu qua tôi. “Em cần nó hơn anh,” anh nói, rồi đặt lên trán tôi một nụ hôn. “Đừng thức khuya quá nhé.”

Sáng thứ sáu, khi đang vội tới gặp Ruth trong bãi đậu xe, tôi đi qua đài tưởng niệm ở công viên gần tòa thị chính. Tạc trên đài là Sengbe Pieh, một trong nhiều nô lệ từng dự vào cuộc nổi loạn trên tàu Amistad. Năm 1839, con tàu đó đã chở một nhóm người châu Phi bị bắt đi làm nô lệ ở Cuba. Những người này nổi loạn, giết chết thuyền trưởng và đầu bếp, rồi buộc các thủy thủ khác quay tàu về quê hương họ. Bọn thủy thủ này, trái lại, đã đánh lừa nhóm người châu Phi và hướng về phương bắc, giao họ vào tay chính quyền Hoa Kỳ. Họ bị giam cầm trong một nhà kho ở New Haven, chờ ngày đem xử.

Những người châu Phi nổi loạn vì một đầu bếp lai nghe nói đoàn thủy thủ da trắng định giết người da đen ăn thịt. Những người da trắng trên tàu lại tưởng chính bọn khác màu da mới là lũ ăn thịt người.

Không bên nào đúng.

Lúc tôi tới bãi đỗ, Ruth thậm chí không nhìn vào mắt tôi. Cô ấy lập tức bước vội về tòa án, Edison bên cạnh, cho đến khi tôi nắm lấy tay cô ấy. “Cô vẫn quyết tâm làm chuyện này sao?”

“Cô nghĩ ngủ qua một đêm tôi sẽ đổi ý à?” cô ấy vặn lại.

“Tôi đã hy vọng vậy,” tôi thú nhận. “Tôi xin cô đấy, Ruth.”

“Mẹ, có chuyện gì vậy?” Edison nhìn mặt cô ấy rồi nhìn tôi, vẻ hoang mang.

Tôi nhướng mày như muốn nói, Hãy nghĩ xem cô sắp làm gì với con mình.

Cô ấy rụt tay qua cùi chỏ con trai. “Đi thôi,” cô đáp lại và bắt đầu tiến về phía trước.

Đám đông tụ tập về trước tòa án; giờ, khi báo giới đưa tin phần làm chứng của bên công tố đã xong, cơn khát máu đang mạnh hơn bao giờ hết. Tôi thấy Wallace Mercy và bầu đoàn của ông ấy qua khóe mắt, họ đang im lặng chờ và cầu nguyện. Có lẽ tôi nên cho Wallace biết về Ruth; có khi ông ta thuyết phục được cô ấy thụp đầu xuống và để công lý được thực thi theo hướng có lợi cho mình. Nhưng nghĩ lại, biết Wallace quá rồi, ông sẽ không bỏ qua cơ hội được nói lên ý kiến. Chắc hẳn ông ta sẽ đề nghị hướng dẫn Ruth nói ra điều cô muốn nói trong lòng.

Howard đang đi tới đi lui trước phòng xử. “Vậy,” cậu đồng nghiệp lo lắng dò hỏi. “Chúng ta có nghỉ không? Hay là.”

“Có,” tôi thẳng thừng đáp. “Hoặc là.”

“Trong trường hợp chị muốn biết, nhà Bauer trở lại rồi đấy. Họ đang ngồi trong kia.”

“Cảm ơn, Howard,” tôi mỉa mai. “Giờ tôi cảm thấy tốt hơn rồi.”

Tôi chỉ nói với Ruth thêm một lần duy nhất, vài phút trước khi chúng tôi được gọi đứng lên khi thẩm phán bước vào. “Tôi muốn khuyên cô một điều này thôi,” tôi thì thầm. “Hãy tỏ ra bình tĩnh hết mức có thể. Giây phút cô cao giọng, bên công tố sẽ nhảy bổ vào cô. Và hãy trả lời tôi hệt như cách cô trả lời khi Odette đối vấn.”

Ruth nhìn tôi. Nhanh thôi, ánh mắt chúng tôi gặp nhau, nhưng chỉ bấy nhiêu là đủ để tôi nhìn ra thoáng run rẩy trong đó, nỗi sợ. Tôi mở miệng, cảm nhận được điểm yếu, định lôi cô ấy vào, nhưng rồi tôi nhớ tới lời Micah. “Chúc may mắn,” tôi nói.

Tôi đứng dậy, và gọi Ruth Jefferson lên bục nhân chứng.

Ở vị trí đó, không hiểu vì sao trông Ruth nhỏ hẳn ra. Tóc cô ấy được búi thấp phía sau, như thường lệ. Trước đây tôi có bao giờ nhận thấy trông nó nghiêm nghị thế nào không? Đôi tay Ruth gấp lại thật chặt đặt trên đùi. Tôi biết đó là vì cô ấy cố giữ cho mình không run rẩy, nhưng bồi thẩm đoàn nào biết được. Với họ, trông cô chỉ cứng nhắc và trang trọng quá sức thôi. Cô ấy khẽ khàng lặp lại lời thề, không để lộ cảm xúc. Tôi biết đó là vì Ruth cảm thấy mình đang bị phơi bày. Nhưng sự ngại ngùng có thể bị lầm tưởng là kiêu ngạo, và có thể là sai lầm chí mạng với cô.

“Ruth,” tôi bắt đầu hỏi, “cô bao nhiêu tuổi rồi?”

“Bốn mươi bốn,” cô ấy đáp.

“Cô sinh ra ở đầu?”

“Ở Harlem, thành phố New York.”

“Cô đi học ở đó luôn à?”

“Chỉ vài năm thôi. Sau đó tôi chuyển tới Dalton theo diện học bổng.”

“Cô đã hoàn thành đại học chưa?” tôi hỏi.

“Rồi, tôi hoàn thành chương trình cử nhân ở Đại học tiểu bang New York ở Plattsburgh, rồi lấy bằng y tá ở Yale.”

“Chương trình học ở đó dài bao lâu?”

“Ba năm.”

“Khi cô tốt nghiệp với tấm bằng y tá, cô đã có lời thề chứ?”

Cô ấy gật đầu. “Nó được gọi là lời thề Florence Nightingale,” Ruth giải thích.

Tôi lấy một mẩu giấy làm bằng chứng và đưa nó cho cô ấy. “Đây có phải lời thề đó không?”

“Phải.”

“Phiền cô đọc to nó nhé?”

“Trước Chúa trên cao và những người có mặt ở đây, tôi long trọng thề sẽ tuân thủ đạo đức nghề nghiệp của ngành y tá; trung thành hợp tác với những thành viên khác của đội y tá và bằng tất cả khả năng của mình, trung thành thực hiện chỉ thị của bác sĩ hoặc y tá...” cô ấy ngừng lại một chút. “... ở vị trí phụ trách giám sát công việc của tôi.” Ruth hít một hơi thở sâu, dấn về phía trước. “Tôi sẽ không làm bất cứ điều gì ác ý hoặc gây hại cho người khác, không cho thuốc có hại hoặc tiếp tay làm bất cứ việc sai trái nào. Tôi sẽ giữ kín những thông tin về người bệnh mà tôi được biết qua quá trình làm việc. Tôi thề dốc lòng tận tụy nâng cao chuẩn mực và danh dự nghề y tá; nguyện cống hiến cả đời mình để phục vụ và bảo vệ lý tưởng cao nhất của nghề.”

Ruth ngước nhìn tôi. “Lời thề đó có ý nghĩa quan trọng với y tá các cô không?”

“Chúng tôi rất coi trọng nó,” Ruth xác nhận. “Cũng như lời thề Hippocrates cho bác sĩ vậy.”

“Cô đã làm việc ở bệnh viện Mercy West Haven bao lâu rồi?”

“Hơn hai mươi năm,” Ruth đáp. “Cả sự nghiệp của tôi.”

“Trách nhiệm của cô là gì thế?”

“Tôi là một y tá cho trẻ sơ sinh. Tôi hộ sinh, phụ việc trong phòng mổ, chăm sóc cho người mẹ và sau đó, là đứa trẻ.”

“Một tuần cô làm việc hết bao nhiêu giờ đồng hồ?”

“Hơn hai mươi tiếng,” cô đáp. “Chúng tôi thường được yêu cầu làm thêm.”

“Ruth, tình trạng hôn nhân của cô ra sao?”

“Tôi là một người vợ góa,” cô trả lời. “Chồng tôi là một người lính đã hi sinh ở Afghanistan, chuyện đã xảy ra mười năm trước rồi.”

“Cô có con cái gì không?”

“Có, con trai tôi, Edison. Thằng bé nay mười bảy tuổi.” Mắt cô ấy sáng lên và lướt dọc phòng xử tìm cậu bé.

“Cô có nhớ đã đi làm vào buổi sáng ngày 2 tháng 10 năm 2014?”

“Có,” Ruth đáp. “Tôi tới vào lúc bảy giờ sáng để trực ca mười hai giờ.”

“Cô được giao nhiệm vụ chăm sóc Davis Bauer à?”

“Phải. Người mẹ vừa hạ sinh bé sớm ngày hôm đó. Tôi được phân công chăm sóc hậu sản cho Brittany Bauer, và kiểm tra sơ bộ sức khỏe đứa nhỏ.”

Cô ấy mô tả quá trình kiểm tra, và cho biết mình đã tiến hành tất cả trong phòng bệnh.

“Vậy là Brittany Bauer có mặt ở đó?”

“Phải,” Ruth xác nhận. “Cả chồng cô ấy nữa.”

“Cô có phát hiện gì quan trọng trong quá trình kiểm tra không?”

“Tôi nghe tiếng rì rầm ở tim và đã ghi chú vào hồ sơ người bệnh. Đó không phải là chi tiết đáng báo động - chỉ là một tình trạng thường gặp ở trẻ sơ sinh. Nhưng lần tới ghé lại, chắc chắn bác sĩ nhi cần phải xem qua, thế nên tôi đã ghi nhận nó.”

“Cô có biết vợ chồng Bauer trước ngày sinh con trai họ?”

“Không,” Ruth trả lời. “Tôi gặp họ lần đầu khi bước vào căn phòng đó. Tôi chúc mừng họ có một bé trai xinh xắn, và giải thích rằng mình đến làm kiểm tra sơ bộ.”

“Cô ở trong phòng với họ bao lâu?”

“Khoảng mười, mười lăm phút.”

“Cô có trao đổi gì với bố mẹ bé lúc đó không?”

“Tôi nói về tiếng rì rầm, giải thích rằng đó không phải là chuyện đáng ngại. Và tôi bảo họ từ lúc sinh ra, đường huyết bé đã có chuyển biến tốt. Thế rồi sau khi tắm rửa cho bé, tôi đề nghị cho bé bú mẹ.”

“Câu trả lời cô nhận được là gì?”

“Anh Bauer bảo tôi tránh xa vợ anh ta. Rồi anh ta bảo muốn gặp cấp trên của tôi nói chuyện.”

“Cô cảm thấy thế nào về điều đó?”

“Tôi rất sốc,” cô ấy thú nhận. “Tôi không biết mình đã làm gì khiến họ khó chịu nữa.”

“Tiếp theo chuyện gì xảy ra?”

“Cấp trên của tôi, Marie Malone, tới tìm tôi. Cô ấy giải thích rằng anh Bauer yêu cầu không để cho nhân viên người Mỹ gốc Phi động vào con trai anh ta. Cô ấy nói tôi sẽ được rút ra, phân cho nhiệm vụ khác.”

“Khi nào cô mới gặp lại đứa trẻ?”

“Sáng ngày thứ Bảy. Tôi đang ở phòng trẻ thì Corinne - y tá mới của bé - đưa bé vào để cắt bao quy đầu.”

“Nhiệm vụ của cô sáng đó là gì?”

Cô ấy cau mày. “Tôi có hai - không, ba bệnh nhân. Đó là một đêm điên cuồng, bận tối tăm mặt mũi; tôi đã nhận một ca không thuộc nhiệm vụ của mình vì một y tá khác bị ốm. Tôi vào phòng trẻ để lấy vải sạch và để ăn một thanh ngũ cốc năng lượng, bởi suốt ca trực tôi chưa ăn miếng nào.”

“Chuyện gì đã xảy ra sau khi thằng bé tiểu phẫu xong?

“Lúc đó tôi không ở trong phòng, nhưng tôi cho rằng mọi chuyện được tiến hành suôn sẻ. Rồi bỗng Corinne chụp lấy tôi và nhờ tôi canh chừng thằng bé vì một bệnh nhân khác của cô phải mổ cấp cứu, và theo quy định thì chúng tôi phải giám sát bé sơ sinh sau khi cắt bao quy đầu.”

“Cô có nhận lời không?”

“Tôi không có lựa chọn. Chẳng có ai khác làm nhiệm vụ đó nữa. Tôi biết Corinne hoặc Marie, y tá phụ trách của tôi, sẽ sớm quay lại để tiếp quản thôi.”

“Lúc cô vừa thấy đứa bé, trông nó thế nào?”

“Thật xinh đẹp,” Ruth đáp. “Thằng bé được quấn trong khăn và đang say ngủ. Nhưng vài phút sau, tôi nhìn xuống và thấy da bé tái đi. Bé phát ra tiếng ầm ừ. Tôi nhận thấy bé đang khó thở.”

Tôi bước về phía bục nhân chứng và đặt tay lên lan can. “Lúc đó cô làm gì, hả Ruth?”

Cô ấy hít vào một hơi sâu. “Tôi tháo khăn quấn bé ra. Tôi bắt đầu chạm vào bé, gõ lên chân bé, cố tìm cách để bé phản ứng lại.”

Bồi thẩm đoàn lộ vẻ bối rối. Odette ngả lưng ra ghế, tay khoanh trước ngực, một nụ cười nở ra.

“Tại sao cô lại làm thế? Cô đã được cấp trên dặn là không được động vào bé cơ mà?”

“Tôi phải làm thôi,” Ruth thú nhận. Tôi có thể thấy nó, cách cô vùng thoát ra, như một chú bướm vùng khỏi vỏ kén. Giọng cô ấy nhẹ đi, những nếp hằn quanh miệng dịu lại. “Trong tình huống như vậy, đó là điều một y tá phải làm.”

“Thế rồi sao?”

“Bước tiếp theo là phải gọi mã cấp cứu, triệu tập cả đội đến hồi sức tim phổi cho bé. Thế nhưng tôi nghe tiếng bước chân. Tôi biết có người đang đến và tôi không biết làm gì nữa. Tôi nghĩ mình sẽ gặp rắc rối nếu người ta thấy tôi động vào đứa nhỏ, trong khi tôi đã được bảo không làm. Vậy là tôi quấn bé lại vào khăn, lui lại, và Marie bước vào phòng trẻ.” Ruth nhìn xuống đùi mình. “Cô ấy hỏi tôi đang làm gì.”

“Cô trả lời ra sao, hả Ruth?”

Khi cô ấy ngẩng lên, cặp mắt cô mở to đầy hổ thẹn.

“Tôi nói tôi không làm gì cả.”

“Cô nói dối à?”

“Phải.”

“Hơn một lần, rõ là như vậy - khi cô bị cảnh sát thẩm vấn sau đó, cô khẳng định mình không có hành động gì để hồi sức tim phổi cho bé. Tại sao không?”

“Tôi sợ mình sẽ mất việc.” Cô ấy quay sang bồi thẩm đoàn, thú nhận tất cả. “Từng tế bào trong cơ thể tôi lệnh cho tôi giúp đứa trẻ đó... nhưng tôi biết mình sẽ bị khiển trách khi làm trái lệnh cấp trên. Và nếu tôi mất việc, biết lấy ai chăm lo cho con trai tôi bây giờ?”

“Vậy về căn bản, cô đã rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan, hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp, hoặc làm trái lời cấp trên chỉ thị?”

Cô ấy gật đầu. “Đó là tình huống mà đằng nào cũng mất.”

“Chuyện gì xảy ra tiếp theo?”

“Đội cấp cứu vào cuộc. Nhiệm vụ của tôi là ấn ngực. Tôi đã làm hết sức, tất cả chúng tôi, nhưng cuối cùng vẫn là không đủ.” Cô ấy ngước lên. “Khi bác sĩ thông báo giờ chết, và khi anh Bauer lôi cái bóp bóng ra từ sọt rác và cố gắng tiếp tục tự cứu con mình, tôi gần như không chịu nổi.” Như một mũi tên tìm tới mục tiêu của nó, mắt cô ấy hướng về phía Turk Bauer, dưới dãy ghế ngồi phòng xử. “Tôi nghĩ: mình đã bỏ qua cái gì? Mình có thể làm gì khác không?” Cô ấy ngập ngừng. “Rồi tôi nghĩ: Liệu mình có được phép làm như thế?”

“Vài tuần sau cô nhận được một lá thư,” tôi tiếp tục. “Cô có thể cho chúng tôi biết về nội dung của nó chứ?”

“Đó là thư từ Bộ y tế. Đình chỉ giấy phép hành nghề y tá của tôi.”

“Nhận được lá thư đó, cô đã nghĩ gì?”

“Tôi nhận ra tôi bị quy trách nhiệm vì cái chết của Davis Bauer. Tôi biết mình đã bị đình chỉ công tác, và đó là chuyện đã rồi.”

“Từ lúc đó đến nay cô có đi làm việc gì không?”

“Tôi nhận trợ cấp, một thời gian ngắn,” Ruth đáp. “Rồi tôi vào làm ở McDonald’s.”

“Ruth, cuộc sống của cô đã thay đổi ra sao sau sự kiện này?

Cô ấy hít vào một hơi sâu. “Tôi không còn chút tiền để dành nào nữa. chúng tôi chỉ sống qua tuần. Tôi lo về tương lai của con tôi. Tôi không thể dùng xe vì không đủ tiền đăng ký.”

Tôi quay lưng lại, nhưng Ruth chưa ngừng lời.

“Buồn cười thật,” cô ấy nói khẽ. “Cô nghĩ mình là một thành viên được tôn trọng của cộng đồng - bệnh viện nơi cô làm việc, thành phố nơi cô sinh sống. Tôi có một công việc tuyệt vời. Tôi có những người đồng nghiệp là bè bạn tôi. Tôi sống trong một ngôi nhà mà tôi rất tự hào về nó. Thế nhưng tất cả chỉ là ảo ảnh. Tôi chưa bao giờ là thành viên của những cộng đồng đó. Người ta chịu đựng, nhưng không đón chào tôi. Tôi đã và sẽ luôn khác họ.” Cô ấy ngẩng lên. “Và bởi màu da, tôi sẽ luôn là kẻ bị người ta đổ tội.”

Ôi Chúa ơi, tôi nghĩ. Ôi chúa ơi, chúa ơi, im đi, Ruth. Đừng đi tới đó. “Tôi không còn câu hỏi gì nữa,” tôi nói, cố gắng giảm thiểu thiệt hại của chúng tôi.

Bởi vì Ruth không còn là nhân chứng nữa. Cô ấy là một quả bom hẹn giờ.

Khi tôi ngồi xuống bàn biện hộ, Howard đang há hốc mồm. Cậu chuyển cho tôi một mẩu giấy: CHUYỆN GÌ ĐANG XẢY RA THẾ?

Tôi viết lên mé dưới mảnh giấy: Đó là ví dụ cho một việc bạn KHÔNG BAO GIỜ muốn nhân chứng làm.

Odette sải bước về phía cái bục. “Cô đã được chỉ thị không được động vào đứa trẻ?”

“Phải,” Ruth đáp.

“Và cho đến ngày hôm nay, cô vẫn nói mình chưa từng động vào đứa bé cho tới lúc y tá phụ trách bảo cô?”

“Phải.”

“Vậy mà giờ cô lại vừa làm chứng rằng thực ra, cô có động vào đứa bé trong khi nó lên cơn tai biến?”

Ruth gật đầu. “Đúng thế.”

“Vậy rốt cuộc là thế nào?” Odette hỏi gặng. “Cô có động vào Davis Bauer khi đứa bé mới bị ngưng thở hay không?”

“Tôi có động vào.”

“Tôi hỏi lại lần nữa cho rõ nhé. Cô đã nói dối cấp trên à?”

“Phải.”

“Cô đã nói dối với đồng nghiệp, Corinne?”

“Phải.”

“Cô đã nói dối với đội quản lý rủi ro ở Mercy West Haven, có đúng không?”

Cô ấy gật đầu. “Đúng.”

“Cô đã nói dối cảnh sát?”

“Phải, tôi đã làm thế.”

“Mặc dù cô biết họ có trách nhiệm và nghĩa vụ đạo đức phải tìm hiểu chuyện gì đã xảy ra với đứa nhỏ?”

“Tôi biết, nhưng...”

“Cô muốn bảo vệ công việc của cô,” Odette sửa lại, “bởi vì trong thâm tâm cô biết mình đã làm một chuyện mờ ám. Chẳng phải thế à?”

“Ừm...”

“Nếu cô đã nói dối hết thảy mọi người,” Odette nhấn mạnh, “vậy tại sao bây giờ bồi thẩm đoàn này phải tin cô?”

Ruth quay sang những người đàn ông và phụ nữ chen chúc trong bàn bồi thẩm “Bởi vì hiện tại tôi đang nói lên sự thật.”

“Phải, phải,” Odette nói. “Nhưng đó không phải là thú nhận duy nhất của cô, đúng không?”

Cô ta định làm gì vậy?

“Vào khoảnh khắc đứa bé đó chết - khi bác sĩ thông báo giờ - trong thâm tâm cô đâu có quan tâm quái gì, phải không Ruth?”

“Dĩ nhiên là tôi có quan tâm chứ!” Ruth ngồi thẳng lên trên ghế. “Chúng tôi đã cố gắng hết sức, như với bất cứ bệnh nhân nào...”

“A, nhưng đây đâu phải một bệnh nhân bất kỳ. Đây là con trai của một kẻ thượng tôn da trắng. Con trai của người đàn ông đã phủi bỏ bao nhiêu năm chuyên môn và kinh nghiệm hành nghề y tá của cô...”

“Cô sai rồi.”

“... người đàn ông đã nghi ngờ khả năng làm việc của cô bởi màu da cô mang trên mình. Cô căm ghét Turk Bauer và căm ghét con anh ta, chẳng phải vậy sao Ruth?”

Giờ Odette chỉ còn cách Ruth một bước, đang gào vào mặt cô ấy. Ruth nhắm mắt lại với mỗi lời công kích, như thể đang đối diện với một cơn bão. “Không,” cô ấy thì thầm. “Tôi chưa bao giờ nghĩ vậy.”

“Cô đã nghe đồng nghiệp Corinne nói rằng cô nổi giận sau khi bị rút khỏi ca của Davis Bauer, có đúng vậy không?”

“Đúng thế.”

“Cô đã làm việc hai mươi năm ở Mercy West Haven?”

“Phải.”

“Cô đã làm chứng rằng mình là một y tá có kinh nghiệm, vững chuyên môn và yêu công việc, nói thế có đúng không nhỉ?”

“Đúng thế,” Ruth thừa nhận.

“Vậy mà bệnh viện lại dễ dàng chọn chiều theo ý của bệnh nhân thay vì tôn trọng nhân viên của họ, gạt cô ra khỏi vai trò chuyên môn mà cô đã đảm nhận suốt bao năm?”

“Có vẻ là như thế.”

“Hẳn là điều đó làm cô giận điên, nhỉ?”

“Tôi đã tức giận,” cô ấy đáp.

Bình tĩnh nào, Ruth, tôi nghĩ.

“Tức giận? Cô đã nói, và tôi xin trích lại, ‘Đứa bé đó không có ý nghĩa gì với tôi hết’.”

“Đó là điều tôi buột miệng nói trong cơn giận tức thời...”

Mắt Odette lóe lên. “Cơn giận tức thời! Đó cũng là chuyện đã xảy ra khi cô bảo bác sĩ Atkins triệt sản bé trong lúc cắt bao quy đầu, có phải không?”

“Đó là lời nói đùa thôi,” Ruth đáp. “Lẽ ra tôi không nên nói thế. Đó là một sai lầm.”

“Còn gì là sai lầm nữa hả?” Odette căn vặn. “Sự thật rằng cô đã ngừng chăm sóc đứa trẻ trong lúc nó cố gắng thở, chỉ vì sợ chuyện đó sẽ ảnh hưởng đến cá nhân mình?”

“Người ta đã ra chỉ thị bảo tôi không được làm gì hết.”

“Vậy ra cô đã cố tình đứng im khi đứa trẻ tội nghiệp càng lúc càng tái mét, nghĩ rằng, Lỡ như mình mất việc?”

“Không...”

“Hoặc là cô nghĩ: Đứa bé này không đáng nhận sự giúp đỡ của mình. Bố mẹ nó không muốn mình động vào nó vì mình là người da đen, nên mình sẽ cho họ toại nguyện.”

“Không đúng...”

“Tôi hiểu rồi. Lúc đó cô nghĩ: Mình ghét cặp bố mẹ kỳ thị chủng tộc của đứa bé này?”

“Không!” Ruth đưa tay lên ôm đầu, để không nghe tiếng Odette nữa.

“Ồ, vậy có lẽ là: Mình ghét đứa bé này vì mình ghét cặp bố mẹ kỳ thị chủng tộc của nó?”

“Không,” Ruth bùng nổ, lớn tiếng đến nỗi bức tường của phòng xử án như bị chấn động rung lên. “Tôi nghĩ rằng đứa bé chết đi còn hơn là được nuôi dưỡng bởi kẻ đó?

Cô ấy chỉ thẳng về Turk Bauer, trong khi một bức màn im lặng trùm lên bồi thẩm đoàn, phòng xử án và, phải, cả tôi nữa. Ruth đưa tay lên miệng. Muộn quá rồi, tôi nghĩ thầm.

“P-phản đối!” Howard lắp bắp. “Đề nghị hủy hết lời khai.”

Chính vào lúc đó, Edison vùng chạy khỏi phòng xử án.

Tôi chụp lấy cổ tay Ruth ngay khi chúng tôi được cho về và lôi cô vào phòng hội nghị. Howard đủ thông minh để biết đường tránh ra xa. Ngay khi cửa đóng lại, tôi xổ vào khách hàng của mình. “Chúc mừng. Cô đã làm đúng cái điều không nên làm, Ruth.”

Cô ấy đi về phía cửa sổ, quay lưng lại với tôi.

“Cô đã chứng minh được quan điểm của mình chưa? Cô có mừng vì được đứng trên bục làm chứng? Tất những gì bồi thẩm đoàn trông thấy, lúc này, là một người phụ nữ da đen giận dữ. Một người tức giận và thù địch đến độ tôi sẽ không ngạc nhiên nếu thẩm phán hối tiếc quyết định hủy cáo buộc giết người. Cô đã cho mười bốn thành viên bồi thẩm đoàn đó lý do tin rằng cô đủ phẫn nộ để khoanh tay nhìn đứa bé đó chết đi trước mắt.”

Một cách chậm rãi, Ruth quay lại. Ánh mặt trời chiều như vầng hào quang phủ quanh cô ấy, tạo nên khung cảnh huyền hoặc lạ lùng. “Tôi không nổi giận. Tôi đang giận. Bao nhiêu năm nay tôi đã giận rồi. Tôi chỉ không để lộ ra ngoài thôi. Cô không hiểu được đâu, suốt 365 ngày trong năm, tôi phải nghĩ làm sao để bề ngoài và cách nói năng không da đen quá, thế là tôi diễn. Tôi đeo lên mình bộ mặt công vụ, như một lớp vữa tường. Mệt lắm, Kennedy ạ. Mệt muốn chết đi được. Nhưng tôi vẫn làm, bởi vì không có tiền bảo lãnh. Tôi làm thế, vì tôi có con trai. Tôi làm vì nếu không, tôi có thể mất việc. Nhà ở. Mất cả chính mình. Thế là thay vào đó, tôi làm việc, mỉm cười, gật đầu, trả các hóa đơn, im lặng và giả vờ hài lòng, bởi vì các người muốn - không - cần tôi như thế. Và nỗi hổ thẹn lớn nhất, đáng buồn nhất là suốt bao nhiêu năm cuộc đời thảm hại của mình, tôi đã tin vào trò bịp kia. Tôi tưởng nếu làm tất cả những điều đó, tôi có thể là một trong số các người.”

Cô ấy bước về phía tôi. “Nhìn cô đi,” Ruth nhạo báng. “Cô hết sức tự hào về bản thân vì là một luật sư biện hộ và làm việc với những người da màu cần giúp đỡ. Nhưng cô có bao giờ nghĩ bất hạnh của chúng tôi có liên hệ trực tiếp tới may mắn của cô? Biết đâu ngôi nhà bố mẹ cô mua được rao bán vì người chủ không muốn má tôi ở trong khu phố. Biết đâu những con điểm cao đã đưa cô vào trường luật chỉ trở thành có thể vì mẹ cô không phải làm việc mười tám tiếng một ngày, để đêm về thì đọc truyện cho cô, nhắc cô làm bài tập. Cách bao nhiêu lâu cô mới tự nhắc nhở mình may mắn thế nào khi sở hữu được nhà, bởi vì cô có thể tích lũy số vốn sở hữu theo cách mà với những gia đình da màu, là không thể có? Bao nhiêu lâu cô mới mở miệng ở chỗ làm và nghĩ tuyệt làm sao khi không có ai cho rằng cô đang nói thay tất cả những người cùng màu da với mình? Cô gặp bao nhiêu khó khăn mới tìm được một tấm thiệp sinh nhật có hình đứa trẻ cùng màu da con gái? Bao nhiêu lần cô đã thấy tranh vẽ Chúa trời trông giống như cô?” Ruth ngừng lại, ngực nặng nhọc phập phồng theo hơi thở, má đỏ bừng. “Định kiến tác dụng theo hai chiều, cô biết đấy. Có người khổ sở vì nó, và có người hưởng lợi từ nó. Ai đã chết và tôn cô làm Robin Hood vậy? Ai bảo tôi cần cô cứu giúp tôi? Cô đang ngự trên lưng ngựa cao kia, phán rằng tôi đã phá hỏng vụ kiện mà vì nó cô lao tâm vất vả; tự khen mình vì đã biện hộ cho một phụ nữ da đen nghèo khổ, khốn đốn như tôi... nhưng cô chính là một phần lý do tôi phải sống đời cúi gằm sát đất.”

Chúng tôi chỉ cách nhau vài phân. Tôi nghe được hơi nóng phả ra từ làn da cô ấy; tôi có thể thấy mình phản chiếu trong con ngươi cô khi cô bắt đầu nói tiếp. “Cô bảo cô có thể đại diện tôi, Kennedy. Cô không thể đại diện tôi. Cô không biết tôi. Cô thậm chí chưa bao giờ cố gắng.” Ruth nhìn xoáy vào mắt cô. “Cô đã bị sa thải,” Ruth nói, rồi cô bước khỏi căn phòng.

Trong vài phút, tôi đứng một mình giữa phòng hội nghị, cố chống lại bao nhiêu cảm xúc ào ạt dâng trào. Vậy ra đây là lý do họ gọi nó là phiên xử[60]. Tôi chưa bao giờ cảm thấy tức giận, hổ thẹn và bị sỉ nhục đến mức này. Bao nhiêu năm tôi hành nghề luật sư, không thiếu những khách hàng ghét tôi, nhưng chưa ai từng sa thải tôi cả.

Đây là cảm giác của Ruth.

Được rồi, tôi đã hiểu: nhiều người da trắng đã bạc đãi cô ấy. Nhưng điều đó không đồng nghĩa cô ấy có thể dễ dàng vơ tôi vào chung một nắm; đánh giá một cá nhân bằng phần còn lại.

Đây là cảm giác của Ruth.

Làm sao cô ấy dám cáo buộc tôi không thể đại diện cô, chỉ vì tôi không phải da đen? Làm sao cô ấy dám nói tôi không cố gắng hiểu cho cô ấy? Sao cô ấy dám đặt lời vào miệng tôi? Sao cô ấy dám bảo tôi cái điều tôi đang nghĩ?

Đây là cảm giác của Ruth.

Rên lên, tôi ném mình ra cửa. Thẩm phán đang đợi chúng tôi trong phòng.

Ngay khi nó mở ra, giữa khung cửa rộng chính là Howard. Chúa ơi, tôi đã quên mất cậu đồng nghiệp của mình. “Cô ấy sa thải chị à?” cậu ta hỏi, rồi ngượng ngùng nói thêm, “tôi có nghe lỏm chút chút.”

Tôi bắt đầu sải bước dọc hành lang. “Cô ấy không thể đuổi tôi. Đã tới giai đoạn này rồi thì thẩm phán sẽ không đời nào cho cô ấy làm vậy.” Ruth có thể tuyên bố rằng sự hỗ trợ của luật sư không hiệu quả, nhưng nếu có kẻ không hiệu quả ở đây thì đó chính là vị khách hàng. Cô ấy đã phá hỏng chính cơ hội được tha bổng của cô ấy.

“Giờ thì sao đây?”

Tôi dừng bước và quay sang cậu đồng nghiệp. “Tôi cũng chẳng biết hơn gì cậu,” tôi đáp.

Thường thì khi vụ kiện gần kết thúc, luật sư biện hộ sẽ đưa đề nghị tuyên bố trắng án cho thẩm phán. Thế nhưng lần này, khi tôi cùng Odette bước tới trước mặt thẩm phán Thunder, ông nhìn tôi như thể tôi gan trời mới dám đề ra ý đó. “Không có bằng chứng gì cho thấy cái chết của Davis Bauer là kết quả hành động của Ruth. Hay không hành động,” tôi bổ sung một cách yếu ớt, vì giờ phút này, cả tôi cũng không chắc phải tin vào gì đây.

“Thưa tòa,” Odette lên tiếng, “rõ ràng đây là nỗ lực tuyệt vọng cuối cùng của bên biện hộ, nhất là với cái mà tất cả chúng ta vừa nghe thấy trong phiên làm chứng vừa rồi. Thực ra, tôi muốn thỉnh cầu tòa rút lại quyết định hủy cáo buộc giết người. Rõ ràng, Ruth Jefferson vừa chứng minh ác ý.”

Máu tôi đông lại. Tôi biết Odette sẽ ra sức phản công, nhưng không ngờ tới chiêu này. “Thưa tòa, quyết định đã đưa ra không thể hồi lại. Tòa đã hủy cáo buộc giết người rồi. Theo nguyên tắc bất trùng khả tố; Ruth không thể hai lần bị cáo buộc cùng một tội trạng.”

“Trong trường hợp này,” thẩm phán Thunder hậm hực nói, “cô McQuarrie đã đúng. Cô đã có cơ hội của mình, cô Lawton, và tôi đã hủy cáo buộc giết người. Tuy nhiên, tôi sẽ giữ lại quyền quyết định trên kiến nghị tuyên bố trắng án mới nhất của bên biện hộ.” Ông lần lượt nhìn từng người chúng tôi. “Buổi tranh luận kết thúc bắt đầu vào sáng ngày thứ hai. Phiên tòa này đã lộn xộn lắm rồi, hãy cố đừng làm cho tình hình tệ hơn nữa, được không hả?”

Tôi bảo Howard nghỉ hết phần còn lại của ngày và lái xe trở về nhà. Bao nhiêu suy nghĩ rối loạn trong đầu tôi, trí não như ép chặt vào sọ, chừng như tôi đang bị cảm. Khi tôi về nhà, nó ngào ngạt hương vanilla. Tôi bước vào bếp và thấy mẹ mình đang khoác tạp dề Wonder Woman trong khi Violet quỳ gối trên một chiếc ghế đầu, tay đặt trong tô bột bánh quy. “Mẹ!” con bé reo lên, giơ cao nắm tay dinh dính. “Con và bà định cho mẹ một bất ngờ nên mẹ giả vờ như không thấy nhé.”

Có thứ gì trong câu nói của con dính lại ở họng tôi. Giả vờ như không thấy.

Từ đôi môi con trẻ.

Mẹ thoáng nhìn tôi một cái rồi cau mày trên mái đầu Violet. “Con có ổn không?” bà mấp máy môi.

Đáp lại, tôi ngồi xuống bên Violet và dùng tay bốc một cục bột, bắt đầu ăn.

Con gái tôi thuận tay trái, mặc dù Micah và tôi thuận tay phải. Chúng tôi còn có ảnh siêu âm con đang mút ngón cái tay trái trong tử cung tôi. “Nếu như nó chỉ đơn giản thế thì sao?” tôi thì thầm.

“Cái gì đơn giản?”

Tôi nhìn lên mẹ. “Mẹ có nghĩ thế giới này thiên vị người thuận tay phải không?”

“Ừm, mẹ không nghĩ mình có lúc nào suy nghĩ về chuyện đó.”

“Đó là vì,” tôi chỉ ra, “mẹ thuận tay phải. Nhưng thử nghĩ mà xem. Đồ mở nắp lon, kéo, bàn có nắp gập ở trường đại học - tất cả đều dành cho người thuận tay phải.”

Violet giơ cánh tay đang cầm muỗng lên, cau mày nhìn nó. “Violet cưng,” mẹ tôi dỗ, “sao con không đi rửa tay để ăn mẻ bánh đầu tiên mới ra lò nhỉ?”

Con bé trượt khỏi ghế, hai tay giơ lên như Micah trước khi anh vào phòng mổ.

“Con muốn làm con bé gặp ác mộng đấy à?” mẹ tôi mắng. “Thật tình, Kennedy! Sao lại có mấy lời như thế hả? Có liên quan gì tới vụ kiện của con sao?”

“Con đã đọc được rằng người thuận tay trái chết sớm hơn vì hay gặp tai nạn. Hồi mẹ còn nhỏ, chẳng phải mấy sơ thường khẻ tay những đứa trẻ viết bằng tay trái hay sao?”

Mẹ tôi đưa tay lên chống nạnh. “Lời nguyền đối với người này là phúc phần cho kẻ khác, con biết mà. Người thuận tay trái được cho là sáng tạo hơn. Chẳng phải Michelangelo, Da Vinci và Bach cũng đều thuận tay trái hết sao? Và thời Trung Cổ, con may mắn lắm mới thuận tay trái, vì phần lớn cánh đàn ông đều cầm kiếm tay phải và cầm khiên tay trái, nghĩa là con có thể đánh lén làm họ bất ngờ...” Bà đưa cái xẻng nấu ăn về phía tôi, chọc vào bên ngực phải. “... thế này này.”

Tôi bật cười. “Sao mẹ biết mấy chuyện đó vậy?”

“Mẹ đọc tiểu thuyết lãng mạn mà, con yêu,” bà đáp. “Đừng lo lắng cho Violet. Nếu muốn, con bé có thể tập dùng cả hai tay. Bố con, ông ấy thuận tay phải cũng như tay trái vậy - viết lách, gõ búa, và xuống tầng thứ hai[61].” Mẹ toét miệng cười. “Và mẹ không có nói về chuyện tập đánh bóng chày đâu nhé.”

“Eo ôi,” tôi kêu lên. “Mẹ thôi đi.” Thế nhưng trong lúc đó, trí não tôi xoay mòng mòng: Nếu như mảnh ghép của thế giới có hình thù không vừa với bạn thì sao nhỉ? Và cách duy nhất để tồn tại là cắt xẻo chính mình, gọt một góc, bào mòn một cạnh, thay đổi bản thân để khớp vào?

Thay vì thế, tại sao chúng ta không thay đổi toàn bộ bức tranh ghép hình đó?

“Mẹ?” tôi nhờ. “Mẹ trông Vi thêm vài giờ nữa giùm con nhé?”

Tôi nhớ mình từng đọc một cuốn tiểu thuyết kể rằng người bản địa Alaska, khi mới gặp người truyền giáo da trắng lần đầu, đã tưởng đó là ma. Mà tại sao họ không được tưởng là vậy chứ? Như ma, người da trắng cũng dễ dàng di chuyển qua các biên giới và ranh giới. Như ma, chúng tôi có thể đến bất cứ đầu tùy ý muốn của mình.

Tôi quyết định đã đến lúc cảm nhận vách tường chung quanh.

Việc đầu tiên tôi làm là để xe lại nhà và đi bộ một dặm đến trạm xe buýt. Lạnh tới thấu xương, tôi tạt vào một hiệu thuốc CVS để ké chút hơi ấm. Trước một dãy hàng trưng bày mà tôi chưa từng ghé lại bao giờ, tôi dừng bước và nhấc xuống một cái hộp màu tím. Kem làm mềm tóc sẫm màu, đẹp và bóng mượt. Tôi nhìn người phụ nữ xinh đẹp trên vỏ hộp. Cho tóc có độ dày vừa phải, tôi đọc. Thẳng và bóng mượt. Tôi lướt qua hướng dẫn, quy trình nhiều bước để tạo kiểu tóc giống mái tóc tôi sau khi được sấy khô.

Tiếp theo, tôi cầm lên một cái chai khác, Dầu dưỡng ẩm hồng cho tóc của Luster. Một cái hộp Ampro Pro Style màu đen. Một cái mũ trùm đầu bằng satin khẳng định rằng nó có thể giúp hạn chế xù và gãy tóc qua đêm.

Những sản phẩm này hoàn toàn xa lạ với tôi. Tôi không biết công dụng của chúng là gì, vì sao người da đen cần chúng, sử dụng chúng thế nào. Nhưng tôi cá Ruth có thể lập tức kể tên năm loại dầu gội cho người da trắng, chẳng cần suy nghĩ gì nhiều, nhờ vào cả đống quảng cáo truyền hình nhan nhản khắp nơi.

Tôi thả bộ xuống phố, ngồi lại một lúc trên băng ghế chờ xe buýt và dõi theo cảnh hai người vô gia cư xin tiền những người lạ qua đường. Họ chủ yếu nhắm vào những người da trắng lịch lãm trong bộ đồ công sở, các sinh viên đại học cắm tai nghe, và cứ sáu bảy người gì đó thì có một người thò tay vào túi tìm đồng lẻ. Trong hai người vô gia cư, có một người thường được nhận bố thí hơn người còn lại. Đó là một bà già người da trắng. Người kia - một người đàn ông da đen còn trẻ - thì họ giữ một khoảng cách an toàn.

Khu Hill của New Haven là một trong những khu vực khét tiếng sừng sỏ nhất trong thành phố. Tôi đã có hàng tá khách hàng đến từ đây - chủ yếu họ dính vào mấy vụ buôn bán ma túy gần khu nhà Church Street South dành cho người thu nhập thấp. Đó cũng là nơi Adisa, chị của Ruth, sinh sống.

Tôi lang thang dọc theo hè phố. Bọn trẻ con rượt đuổi nhau. Đám con gái tụm năm tụm ba, tiếng Tây Ban Nha nổ ran trên đầu lưỡi. Vài người đàn ông đứng ở góc đường, tay khoanh lại, những tay lính gác lặng câm. Tôi là gương mặt da trắng duy nhất rong khu vực. Trời đã bắt đầu sụp tối khi tôi ghé vào một cửa hàng tạp hóa. Nhân viên tính tiền ở quầy nhìn tôi chăm chăm khi tôi lướt qua những dãy hàng. Tôi cảm nhận được ánh mắt cô ta dán vào mình như một tia điện giữa xương vai. “Tôi có thể giúp gì không?” rốt cuộc cô ta cũng hỏi, và tôi lắc đầu rồi bước ra ngoài.

Cảm giác thật bất an khi chẳng thấy ai trông như mình cả. Những người lướt ngang không ai nhìn vào mắt tôi. Giữa họ, tôi là người lạ, một cái gai trong mắt, kẻ không giống mọi người. Vậy mà, cùng lúc, tôi cũng đã trở nên vô hình.

Khi tới được Church Street South, tôi đi vòng quanh tòa nhà. Một vài căn hộ, tôi biết, đã bị kết tội đời đời chịu cảnh mốc meo, tàn phá. Chốn này như một thành phố ma: rèm phủ kín cửa, ai nấy nhốt mình trong nhà. Dưới một góc cầu thang, tôi thấy hai thanh niên đang chuyền tay tiền mặt. Phía trên họ, một bà lão đang cố lê cái bình oxy của bà lên lầu. “Bà ơi,” tôi gọi. “Cháu giúp bà nhé?”

Ba người bọn họ sững lại, trợn mắt nhìn tôi. Hai thanh niên nhìn lên, và một thằng đưa tay lên chỗ cạp quần, từ đó tôi nghĩ mình có thể thấy lồi ra thân một khẩu súng. Chân tôi muốn rụng rời. Trước lúc tôi có thể lùi lại, bà già đã nói, “No habla ingles[62]”, và guồng chân bước vội lên những bậc thang, nhanh gấp đôi khi trước.

Tôi đã muốn sống cuộc đời của Ruth, chỉ một buổi chiều thôi, nhưng không muốn mình gặp nguy hiểm. Mà nguy hiểm là tương đối. Tôi có một người chồng có công việc tốt và một ngôi nhà đã trả thế chấp xong, tôi không phải lo sợ điều mình nói hay việc mình làm có thể đe dọa khả năng đặt thức ăn lên bàn và thanh toán hóa đơn các loại. Với tôi, nguy hiểm trông khác hẳn: đó là bất cứ thứ gì có thể chia rẽ tôi với Violet, với Micah. Thế nhưng dù ông kẹ của riêng bạn mang bộ mặt nào, nó cũng sẽ cho bạn những cơn ác mộng. Nó có quyền năng làm bạn khiếp hãi, thôi thúc bạn làm những chuyện bình thường bạn không tưởng nổi mình có thể làm, tất cả chỉ để được an toàn.

Với tôi, điều đó có nghĩa là guồng chân chạy qua màn đêm đang thít chặt lại xung quanh, cho đến khi chắc chắn không có ai bám theo mình cả. Sau khi đã vượt qua nhiều tòa nhà khác, tôi chậm chân lại ở một ngã tư đường. Đến lúc này, tim tôi không còn đánh thình t