Phần thứ nhất Chương I
Chiều tối ngày hăm hai tháng ba năm ngoái, tôi đã gặp phải một sự cố tai bay vạ gió lạ lùng quá đỗi. Suốt ngày hôm ấy, tôi lang thang khắp thành phố để tìm thuê một căn phòng. Căn phòng cũ quá ẩm thấp, mà dạo ấy tôi đã bắt đầu chứng ho khổ ho sở. Ngay từ mùa thu tôi đã định chuyển nhà, vậy mà kéo dài mãi đến tận đầu xuân. Suốt ngày tôi không sao tìm được một nơi ưng ý. Trước hết, tôi muốn một căn phòng riêng, nhưng cũng không biệt lập với mọi người, sau nữa, dù chỉ một buồng thôi, nhưng nhất thiết phải rộng và cố nhiên càng rẻ càng tốt. Tôi nhận thấy rằng ở trong một căn phòng chật chội thì ngay cả ý nghĩ cũng chật chội. Mỗi khi tư duy những cuốn truyện mới, tôi vẫn thường thích đi đi lại lại khắp phòng. Thêm nữa, những lúc suy nghĩ về tác phẩm và hình dung chúng được viết ra như thế nào tôi luôn luôn thấy thú vị hơn là thực sự bắt tay vào viết chúng, nhưng quả thật, điều đó chẳng phải là vì lười. Vậy thì vì cái gì?
Ngay từ sáng, tôi đã cảm thấy không được khỏe và đến chiều tối thì lại càng tồi tệ: hình như tôi bắt đầu sốt. Hơn nữa, cả ngày tôi phải cuốc bộ và bây giờ thì mệt lử. Chiều lại, trước khi màn đêm sập xuống, tôi đi dọc đại lộ Vôdơnhexenxki. Tôi rất thích mặt trời tháng ba ở Petersburg, đặc biệt là lúc hoàng hôn, vào những buổi chiều giá lạnh và trong sáng. Cả đường phố chợt bừng lên trong ánh chiều rực rỡ. Những tòa nhà cũng đột ngột bừng sáng. Những mảng màu sắc xám xịt, vàng vọt xanh sẫm phút chốc rũ bỏ tất cả vẻ tăm tối; trong lòng người ngỡ như cũng bừng sáng, ngỡ như một thoáng rùng mình hoặc có ai vừa đó huých vào anh bằng cùi tay. Một cái nhìn mới, những ý nghĩ mới... Thật kỳ diệu thay những gì mà một tia nắng mặt trời có thể mang lại cho tâm hồn con người.
Nhưng tia mặt trời đã tắt; cái lạnh trở nên dữ dội và tê buốt đầu mũi; bóng tối dày đặc; những luồng hơi bốc lên lấp lánh từ các cửa hàng và quầy hàng. Lúc đi ngang cửa hàng bánh kẹo Milerơ, bỗng nhiên tôi đứng phắt lại như trời trồng và chăm chăm nhìn sang bên kia đường phố, hình như linh cảm đã cho tôi hay là ngay lúc này sẽ có một điều gì bất thường xảy đến với tôi, và vào chính phút ấy tôi nhìn thấy một cụ già với con chó xuất hiện bên phía đối diện. Tôi còn nhớ như in là lúc bấy giờ tim tôi chợt nhói lên một cảm giác buồn bã vô hạn mà chính tôi cũng không lý giải được đấy là loại cảm giác gì.
Tôi không phải là một kẻ mê tín; tôi hầu như không tin vào linh cảm và bói toán; nhưng với tôi và có thể cũng như với nhiều người, trong cuộc sống đôi lúc cũng xảy ra những sự việc khá là khó giải thích. Chẳng hạn như với cụ già này: tại sao trong phút thoạt gặp cụ, tôi liền cảm thấy rằng ngay trong buổi tối này có một điều gì đó không hoàn toàn bình thường sẽ xảy đến với mình? Tuy nhiên, lúc ấy tôi đang ốm, mà những cảm giác của người ốm thì vẫn thường không thật.
Yếu ớt và chậm chạp, cụ già cố lê đôi chân khẳng khiu như que củi và như thể sắp bẻ gập chúng, cụ còng lưng nện khẽ chiếc gậy trên đá lát vỉa hè, tiến lại phía cửa hàng bánh kẹo. Suốt đời, tôi chưa bao giờ gặp một dáng người nào lạ lùng quái gở đến thế. Cho đến trước cuộc gặp gỡ này, khi chúng tôi chạm trán nhau trước cửa hiệu Milerơ, cụ luôn luôn làm tôi sửng sốt vì một ấn tượng bệnh hoạn. Vóc người cao, tấm lưng còng gập, gương mặt già nua đến tám mươi tuổi trông đầy tử khí, chiếc áo khoác cũ kỹ rách toạc cả đường khâu, vành mũ tròn kiểu những năm hai mươi, đã nhàu nát chụp lên cái đầu trọc mà chót tận sau gáy còn một túm tóc vàng hoe, chưa kịp bạc; nhất cử nhất động cụ đều làm một cách vô ý thức như cái máy. Đấy là tất cả những ấn tượng mà vô tình cụ già đã gây cho những ai thoạt gặp. Quả thật là lạ lùng khi nhìn thấy một cụ già sống lỗi thời như thế, đơn độc và chẳng ai ngó ngàng tới, thậm chí trông cụ như một người điên đang chạy trốn những kẻ trông coi. Cả sự gầy guộc lạ thường của cụ cũng khiến tôi sửng sốt: thân hình cụ gần như tiêu tan hết, chỉ còn lại lớp da bọc lấy xương. Cặp mắt mở to, mờ đục đóng khung trong đôi quầng tròn xanh thẫm luôn nhìn thẳng tới trước, không bao giờ nhìn ngang và cũng chẳng khi nào nhìn vào một ai, một cái gì – tôi tin như vậy. Dù cho cụ già có nhìn vào anh thì rồi cụ cũng cứ bước thẳng tới anh như thể trước mắt là cả một khoảng trống vậy. Tôi đã nhận thấy điều đó một đôi lần. Cụ già xuất hiện ở cửa hiệu Milerơ chưa lâu và không rõ từ đâu tới, chỉ có điều luôn luôn kèm theo một con chó. Không ai trong số khách hàng có ý định bắt chuyện với cụ và chính cụ cũng chẳng buồn trò chuyện với một ai trong số họ.
“Vì cớ gì mà lão lại lang thang đến cửa hàng Milerơ và lão làm gì ở đấy? – đứng ở bên kia đường phố tôi vừa buộc lòng không rời mắt khỏi ông lão vừa nghĩ bụng. Một cơn bực bội – do bệnh tật và mệt mỏi – chợt dấy lên trong lòng tôi. Lão ta nghĩ gì thế nhỉ? – tôi tiếp tục nghĩ thầm, không hiểu trong đầu lão có còn cái gì chăng? Liệu lão có còn nghĩ tới một điều gì? Gương mặt ông lão tối tăm đến nỗi tuyệt không còn toát lên một điều gì hết. Và cũng không hiểu ông lão kiếm được con chó ấy ở đâu. Một con chó gớm guốc không hề rời lão nửa bước, dường như đã gắn với lão làm một khối không thể tách rời và trông cũng giống lão như đúc?”.
Con chó khốn khổ ấy dễ thường cũng phải đến tám mươi tuổi; phải, đến thế thật. Trước hết trông bề ngoài nó già nua đến nỗi chưa từng có con chó nào già đến thế, và sau nữa, không hiểu vì sao ngay từ lần đầu thoạt trông thấy nó, trong đầu tôi đã chợt nẩy ra ý nghĩ rằng con chó nầy không thể là một con chó như mọi con khác, rằng nó là một con chó đặc biệt, chắc hẳn nó là một con chó thiêng có phù phép, một thứ Mephistopheles3 trong lốt chó và bởi một lý do riêng huyền bí nào đó đã gắn bó số kiếp với chủ nó. Hễ trông thấy nó, thể nào các bạn cũng phải nghĩ rằng lần được ăn cuối cùng của nó chắc phải cách đây vài chục năm.
Nó gầy như một bộ xương, hoặc là (có đúng hơn chăng?) như ông chủ nó vậy. Lông lá trên mình nó hầu như rụng sạch, ngay cả trên cái đuôi treo đằng sau như một cái que và luôn luôn cụp chặt. Cái đầu với đôi tai dài luôn gục xuống nhăn nhó. Cả đời tôi chưa hề gặp một con chó nào kinh tởm đến như vậy. Khi cả hai đi trên đường phố – ông chủ đi trước, con chó theo sau – mũi nó bám ngay vào đuôi áo khoác của chủ y như bị dính chặt vào đấy. Và dáng đi cũng như vẻ ngoài của cả hai cứ mỗi bước lại như muốn thốt lên: Ta già rồi, các ngài ơi, đã quá già rồi!
Tôi còn nhớ, đã có lần tôi chợt nghĩ là cụ già nàyvà con chó dễ thường sống ra từ trang sách nào đó của Hoffmann4 do Gavarni minh họa, và lang thang trong cõi đời này dưới hình dạng những tờ áp phích di động đang tìm đến nhà xuất bản. Tôi băng qua phố và theo chân cụ già vào của hàng bánh kẹo.
Ở trong cửa hàng bánh kẹo, cụ già hành động cũng hết sức kỳ cục và đứng sau quầy hàng, lão Milerơ gần đây đã bắt đầu tỏ ra khó chịu mỗi khi cái ông khách không mời ấy bước vào. Trước hết, người khách kỳ lạ này tuyệt không bao giờ hỏi han một câu. Lần nào cũng vậy ông ta đi thẳng vào góc gần lò sưởi và ngồi xuống một chiếc ghế. Nếu như chỗ ấy của ông bên lò sưởi đã có ai chiếm mất, thì sau một phút đứng ngơ ngáo như mất hồn trước cái người đã giành chỗ của mình, ông lão dường như bối rối và bỏ sang một góc khác cạnh cửa sổ. Ở đấy, ông chọn một cái ghế và chậm rãi ngồi xuống, bỏ mũ đặt ngay bên cạnh mình dưới nền nhà, để chiếc gậy bên cạnh cái mũ, đoạn ngả người vào lưng ghế và cứ ngồi bất động như vậy suốt ba, bốn tiếng đồng hồ liền. Chẳng bao giờ ông ta cầm trong tay, dù một tờ báo, không nói một lời, một tiếng, mà chỉ ngồi vậy thôi, nhìn tới trước bằng đôi mắt mở to nhưng đờ đẫn và vô hồn, đến nỗi có thể quả quyết rằng ông lão chẳng nhìn thấy một ai xung quanh và cũng chẳng nghe thấy gì hết. Còn con chó, loay hoay lẩn quẩn tại chỗ một lúc rồi hậm hực thu mình dưới chân chủ, thọc mõm vào giữa hai chiếc ủng của ông già, thở ra nặng nề và nằm đái trên nền nhà, cũng bất động suốt buổi tối y như chết rồi. Ngỡ như hai cái xác này suốt ngày nằm chết ở đâu đó và cứ thoạt tắt mặt trời lại bỗng nhiên sống lại chỉ để tìm đến cửa hàng bánh kẹo Milerơ và thực hiện một sứ mệnh bí ẩn nào đó không ai hay biết.
Cứ ngồi như vậy chừng ba bốn giờ, cuối cùng, ông già đứng dậy, cầm lấy mũ và bỏ về nhà ở đâu đó. Con chó cũng đứng dậy và lại cúp đuôi cụp cổ, bước đi chậm chạp như cũ để bám theo chủ như một cái máy. Cuối cùng, những khách hàng cũng bắt đầu tìm cách tránh xa ông lão, thậm chí không dám ngồi cạnh ông, dường như sợ ông dây cả cái kinh tởm lên họ. Còn ông già thì chẳng hề hay biết những điều đó.
Khách lui tới của hàng bánh kẹo này phần lớn là người Đức. Họ đến đây từ khắp đại lộ Vôdơnhêxenxki này – tất cả những chủ nhân của các loại xưởng thợ: thợ nguội, thợ làm bánh mì, thợ nhuộm, thợ làm mũ, thợ đóng yên ngựa – tất cả là những con người cổ lỗ như cách nói của tiếng Đức. Mà nói chung thì ở cửa hàng Milerơ vẫn có cái gì đó lỗi thời. Ông chủ hiệu vẫn thường đến ngồi với những người khách quen bên bàn, có lúc lại còn cạn với họ những cốc rượu pha đường. Lũ chó và đám trẻ con của ông chủ cũng thỉnh thoảng ra chơi với khách hàng, và những người khách hàng vẫn vỗ về chúng. Mọi người đều quen biết và kính trọng nhau. Khi những người khách vùi đầu vào những trang báo Đức thì từ sau cánh cửa, trong căn phòng của ông chủ vẳng ra bài ca Augustin5 trên cây đàn dương cầm rè rè do cô gái lớn của ông chủ chơi, một cô gái Đức có mái tóc màu hạt dẻ trông giống hệt một con chuột bạch. Điệu vanxơ đã mở đầu một cách vui vẻ. Cứ vào những ngày đầu tháng tôi đều ghé đến hiệu Milerơ để đọc những tờ tạp chí Nga mà cửa hàng vẫn nhận được.
Bước chân vào cửa hiệu, tôi đã thấy cụ già ngồi bên cửa sổ và con chó, như mọi bận, vẫn năm dài dưới chân ông lão. Tôi lặng lẽ ngồi vào một góc và trầm ngâm tự hỏi: “Mình vào đây làm gì nhỉ, mình tuyệt nhiên chẳng có việc gì để làm ở đây, mình lại đang ốm và việc cần thiết hơn là khẩn trương về nhà, uống nước chè và nằm vào giường? Chẳng lẽ rốt cuộc mình lại có mặt ở đây chỉ để quan sát cái ông già này?”.
Tôi đâm phát cáu: “Mình có việc quái gì đến lão ấy – tôi nghĩ bụng, vừa hồi tưởng lại cái cảm giác lạ lùng và bệnh hoạn khi tôi nhìn thấy ông lão trên đường phố. Mà mình thì cũng dính dáng gì đến cả cái đám dân Đức ngán ngẩm này? Cái thứ tâm thần mộng mị này rồi còn đi đến đâu? Để làm quái gì cái thứ băn khoăn vớ vẩn về những chuyện tầm vơ mà tôi nhận thấy dạo này thường xuất hiện ở mình và luôn quấy rầy không cho tôi sống và nhìn đời một cách trong sáng, điều mà một nhà phê bình sâu sắc trong lúc phân tích cuốn truyện gần đây của tôi đã bực bội nhận xét?”.
Mặc dù nghĩ ngợi và bẳn gắt như vậy nhưng tôi vẫn ngồi lì tại chỗ, trong khi cơn bệnh mỗi lúc một hành hạ tôi hơn, đến nỗi rút cuộc tôi đâm ra hối tiếc là đã rời căn phòng ấm áp lúc này. Tôi cầm lấy tờ báo Phơrăngphuốc, đọc lướt vài dòng và lim dim mơ màng. Những người Đức không quấy rầy tôi. Họ mải miết đọc, hút thuốc và chỉ thoảng hoặc khoảng nửa giờ một lần mới trao đổi với nhau đôi câu thì thầm và rời rạc về một tin tức nào đó trên tờ Phơrăngphuốc hay những câu nói sắc sảo của một người Đức thông thái nổi tiếng có tên là Xaphirơ. Sau mấy câu đầy mùi vị tự hào dân tộc thái quá họ lại cắm đầu vào đọc.
Tôi thiếp đi độ nửa giờ thì chợt tỉnh dậy vì cảm thất rét dữ dội hơn. Cần phải về nhà ngay. Nhưng đúng vào lúc ấy một màn kịch câm diễn ra trong phòng và một lần nữa giữ tôi lại. Như tôi đã nói, ngay sau khi ngồi vào ghế của mình, cụ già liền hướng cặp mắt đăm đăm vào một chỗ và suốt buổi tối không hề quay nhìn đi đâu khác. Chính tôi cũng đã từng chịu đựng cái nhìn ấy, cái ánh mắt hư vô dai dẳng như không hề phân biệt cái gì vào cái gì: một cảm giác cực kỳ khó chịu đến không thể nén nổi và tôi cố giữ vẻ bình thường nhưng vội vã chuyển sang chỗ khác. Lần này, nạn nhân của cụ già lại là một người Đức bé nhỏ, béo tròn và hết sức tề chỉnh, mặc áo cổ cồn dựng đứng với khuôn mặt đỏ lựng, một khách hàng từ Riga tới, mà sau này tôi được biết tên là Ađam Ivanưts Sunxơ, một người bạn thân của ông Milerơ, nhưng tôi không hề biết cụ già này cũng như nhiều khách hàng khác. Đang thích thú đọc tờ “Thợ cạo nông thôn”6 và nhấm nháp cốc rượu pha đường, ông ta chợt ngẩng đầu lên và nhận thấy cái nhìn bất động của cụ già đang hướng vào mình. Điều đó khiến ông bối rối. Ađam Ivanưts là một người hay động lòng và dễ bẳn tính như tất cả giới “thượng lưu” Đức nói chung. Ông ngạc nhiên và tức tối khi bị người khác nhìn chằm chằm một cách thô lỗ. Cố nén giận, ông ta quay tránh nhìn vào ông khách bất nhã, miệng lẩm bẩm cái gì đó và lặng lẽ giương tờ báo lên che kín. Nhưng không nhịn được, độ hai phút sau, ông ta lại bỏ báo ngước lên: vẫn là cái nhìn chăm chăm, vô hồn ấy. Lần này, Ađam Ivanưts lại vẫn im lặng. Nhưng khi tình hình lặp lại đến lần thứ ba thì ông ta liền nổi xung và tự thấy mình phải có nghĩa vụ bảo vệ phẩm giá cao quí cũng như không để cho giới thượng lưu được xem thường cái thành phố Riga tuyệt vời mà rõ ràng ông tự cho mình là người đại diện. Bằng một cử chỉ nóng nảy, ông ta ném tờ báo lên bàn, đập mạnh cái thanh kẹp báo và bốc máu sĩ diện, mặt mày đỏ lựng vì hơi men và ngạo mạn, đến lượt mình, ông chiếu cặp mắt nhỏ tí bốc lửa vào lão già đáng ghét. Hình như cả hai, người Đức và đối thủ của ông ta, đều muốn trấn áp nhau bằng sức mạnh của ánh mắt và đều chờ xem kẻ nào xấu hổ mà cụp mắt xuống trước. Tiếng đập của que kẹp và điệu bộ nực cười của Ađam Ivanưts khiến mọi người chú ý. Tất cả lập tức dừng mọi công việc và với sự tò mò trang nghiêm, lặng lẽ theo dõi hai đối thủ. Màn kịch trở nên hết sức khôi hài. Tuy nhiên sức mạnh từ cặp mắt khiêu khích của anh chàng Ađam Ivanưts mặt đỏ tía tai hoàn toàn vô ích. Chẳng quan tâm đến gì hết, cụ già vẫn tiếp tục nhìn thẳng vào cái ngài Sunxơ đang nổi đóa và tuyệt nhiên không biết mình là mục tiêu của sự tò mò của mọi người, cứ như là đầu óc ông lão đang ở đâu trên mặt trăng chứ không phải trên mặt đất này. Cuối cùng thì Ađam Ivanưts không còn chịu nổi. Anh ta điên tiết lên:
– Tại sao ông lại nhìn tôi chằm chằm thế? – ông ta thét lên the thé đến nhức óc bằng tiếng Đức, vẻ mặt đầy hăm dọa.
Nhưng địch thủ của ông vẫn cứ một mực lặng im, dương như không hiểu và cũng không nghe thấy câu hỏi. Ađam Ivanưts quyết định dùng tiếng Nga.
– Tôi hỏi ôông, làm sao ôông lại chăm chăm nhìn tôi thế? – ông ta càng thịnh nộ quát to – Tôi là người có danh có giá, còn ôông là đồ vô danh chiểu chốt? – ông ta nói thên và bật dậy khỏi ghế.
Ấy thế mà cụ già vẫn không hề động đậy. Trong đám người Đức đã có tiếng rì rầm bực tức. Đích thân Milerơ đã nghe tiếng ồn ào và bước vào phòng. Khi nghe thủng mọi chuyện, ông ta nghĩ rằng có lẽ lão già điếc, nên liền ghé sát tận tai ông lão.
– Cài Sunxơ yêu cầu ôông đừng nhìn chăm chăm vào cài ấy nữa – ông ta cố sức gào to hết cỡ, vừa chăm chú ngắm người khách kỳ quặc.
Cụ già ngước nhìn Milerơ như cái máy và đột nhiên trên gương mặt trước nay vốn bất động bỗng lộ rõ nét lo âu, hoảng hốt. Cụ hối hả cúi mình, vừa rên rẩm vừa lật đật vơ vội lấy cái mũ và chiếc gậy, đoạn rời khỏi ghế, và, với một nụ cười thảm hại, cái thứ nụ cười tủi nhục của một kẻ nghèo hèn khi bị xua đuổi vì đã trót ngồi nhầm chỗ, cụ già xắm nắm bước ra khỏi phòng. Cái cử chỉ hấp tấp ngoan ngoãn, nhẫn nhục của con người già nua lọm khọm và khốn khổ gợi lên biết bao nhiêu lòng thương hại, biết bao nhiêu thứ tình cảm thỉnh thoảng vẫn khiến trái tim ta như chết lặng đi trong lồng ngực, khiến cho tất cả mọi người, trước hết là Ađam Ivanưts liền thay đổi ngay cách nhìn của mình. Hiển nhiên là ông già này không những không thể chọc tức một ai, mà còn hiểu rằng bất cứ lúc nào người ta cũng có thể đuổi mình đi như xua một kẻ ăn mày.
Milerơ vốn là người tốt bụng và giau lòng trắc ẩn.
– Ồ. Khôông. Khôông – ông ta thân mật vỗ vai cụ già và nói – Ông cứ ngồi! Nhưng7 Ngài8 Sunxơ chỉ hết sức yêu cầu ôông đừng nhìn chằm chằm vào cài ấy. Cài ấy là một người danh giá ở triều đình.
Nhưng cụ già tội nghiệp vẫn không hiểu ra; cụ càng luống cuống hơn, cúi khom mình để nhặt chiếc khăn xanh cũ kỹ, thủng lỗ chỗ vừa tuột từ mũ xuống và lên tiếng gọi con chó đang nằm phục vị trên nền nhà, mõm kẹp vào giữa hai chân và rõ ràng đang ngủ rất say.
– Adorca, Adorca! – cụ già thều thào bằng cái giọng già nua, run rẩy – Adorca!
Adorca vẫn không động đậy.
– Adorca, Adorca! – cụ già lại rầu rĩ gọi và lấy gậy lay con chó nhưng nó vẫn nằm im như cũ.
Chiếc gậy rời khỏi tay ông cụ. Cụ quỳ cả hai gối và lấy tay nâng mõm con Adorca lên. Con Adorca tội nghiệp! Nó đã chết. Nó chết lặng lẽ ngay dưới chân chủ, phần vì già, phần có lẽ cũng cả vì đói. Cụ già nhìn con chó một phút như thể ngạc nhiên, dường như cụ không hiểu rằng con Adorca đã chết, đoạn cụ lặng lẽ cúi xuống cái kẻ hầu hạ và cũng là người bạn cũ, và ghì sát khuôn mặt xanh xao vào mõm của con chó đã chết.
Một phút im lặng trôi qua. Tất cả chúng tôi đều xúc động... Cuối cùng cụ già tội nghiệp đứng lên. Cụ tái nhợt và run lẩy bẩy như đang lên cơn sốt rét.
– Có thể làm thành con thú nhồi rơm – ông Milerơ giàu lòng trắc ẩn nói, như muốn an ủi cụ già – Có thể làm một con thú nhồi rơm rất chốốt; Phêđor Carlôvits Crigerơ làm thú nhồi rơm rất giỏi; Phêđor Carlôvits Crigerơ là bậc thầy vĩ đại về làm thú nhồi rơm – Milerơ khẳng định, vừa nhặt cây gậy lên đưa cho cụ già.
– Phải, tôi làm thú nhồi rơm rất chuyệt – chính ngài Crigerơ cũng khiêm tốn hưởng ứng và bước tới trước.
Đây là một người Đức dài ngoằng, gầy gò và có vẻ đức hạnh với những món tóc hung và cặp kính nằm trên chiếc mũi quặp.
– Phêđor Carlôvits Crigerơ có chài xuất chúng, làm được tất cả những con thú nhồi chuyệt chác – Milerơ nói thêm, bất đầu hứng thú vì ý kiến của mình.
– Đúng, tôi có biệt tài làm được tất cả những con thú nhồi chuyệt vời – ngài Crigerơ lại quả quyết – và tôi sẽ làm biếu khôông cho ôông một con thú nhồi từ con chó của ôông – ông ta nói thêm trong cơn độ lượng bốc đồng.
– Khôông, tôi sẽ giả côông cho con thú mà ôông nàm! Ađam Ivanưts cũng cuồng nhiệt kêu lên, mặt mũi càng đỏ gay gấp bội, đến lượt mình nổi cơn hào hiệp và hăng hái nhận mình là nguyên nhân của mọi bất hạnh.
Cụ già lắng nghe tất cả nhưng rõ ràng là không hiểu gì hết và vẫn run rẩy toàn thân như trước.
– Gượm đã! Ôông hãy cạn một ly cô nhắc ngoong đã! – Milero nói to khi thấy ông khách kỳ lạ cứ săm sắn đi ra.
Cô nhắc đã được đưa lên. Cụ già đưa tay như cái máy cầm lấy ly cô nhắc, nhưng tay cụ run lẩy bẩy nên trước khi đưa được lên môi, cụ đã đánh đổ mất phân nửa và chưa nhắp lấy một giọt, cụ đã đặt trả ly xuống khay. Rồi đó, mỉm một nụ cười lạ lùng hoàn toàn chẳng ăn nhập gì với hoàn cảnh, cụ khập khiễng và vội vã bước ra khỏi cửa hàng bánh kẹo, bỏ lại con chó Adorca. Mọi người sửng sốt đứng yên; có ai đó kêu lên:
– Thật tội nghiệp! Câu chuyện mới kỳ cục! – mấy người Đức vừa nói, vừa đưa mắt nhìn nhau.
Còn tôi thì lao ra theo cụ già. Cách cửa hàng bánh kẹo mấy bước, rẽ sang phải thì gặp một cái ngõ hẹp và tăm tối nhưng lại mọc lên những ngôi nhà đồ sộ. Có cái gì đó mách bảo tôi rằng cụ già nhất định sẽ quay lại đây. Ngôi nhà thứ hai bên phải kia như nằm giữa một khu rừng. Bờ tường vây quanh ngôi nhà gần như nhô ra đến giữa ngõ; một lối đi lát gỗ dẫn đến bờ tường dành cho người đi lại. Trong một xó tối kẹp giữa bờ tường và ngôi nhà tôi tìm thấy cụ già. Cụ ngồi trên bậc cấp của vỉa hè lát gỗ, chống cùi tay vào đầu gối, hai tay ôm lấy đầu. Tôi ngồi xuống bên cụ.
– Cụ ơi – tôi nói mà hầu như không biết bắt đầu từ đâu – Cụ đừng buồn tiếc gì con Adorca nữa. Đi đi, tôi đưa cụ về nhà. Cụ cứ yên tâm. Tôi đi tìm xe ngựa ngay đây. Nhà cụ ở đâu vậy?
Cụ già không đáp. Tôi không biết xử trí ra sao. Trên đường không một bóng người. Đột ngột cụ già nắm lấy tay tôi.
– Ngạt thở quá! – cụ thều thào rất khẽ bằng một giọng khàn khàn – Ngạt thở quá!
– Nào, về nhà cụ thôi! – tôi kêu lên, nhổm dậy và quyết xốc cụ già lên – Cụ sẽ dùng nước trà và nằm vào giường... Tôi đi tìm xe ngựa ngay bây giờ. Tôi sẽ gọi bác sĩ... Tôi có quen một ông bác sĩ...
Tôi không nhớ là tôi còn nói với cụ già những gì nữa. Cụ già muốn đứng lên, nhưng vừa nhổm lên được một chút đã lại ngã lăn ra đất và lại rên rẩm bằng cái giọng ngạt thở khàn khàn. Tôi cố ghé sát hơn nữa và lắng nghe.
– Ở đảo Vaxiliepxki – cụ già nói khàn khàn – đường thứ sáu... đư... ờ... ng thứ sá... u...
Và cụ im bặt.
– Cụ sống ở đảo Vaxiliepxki ạ? Nhưng cụ lại không đi về phía ấy; tới đây phải rẽ trái chứ không rẽ phải. Bây giờ tôi sẽ đưa cụ về...
Cụ già không động đậy. Tôi cầm lấy tay cụ: bàn tay rơi thõng như tay người chết. Tôi nhìn vào mặt cụ và sờ người cụ. Cụ già đã chết. Tôi cứ ngỡ như mọi việc đang xảy ra trong mơ.
Điều bất ngờ rủi ro này đặt ra cho tôi bao nhiêu việc phiền toái mà trong khi đó chính tôi cũng đang sốt. Người ta đã tìm ra căn phòng của cụ già. Tuy nhiên, cụ không phải sống ở đảo Vaxiliepxki mà chỉ cách nơi cụ qua đời có hai bước, trong ngôi nhà của Clugen, ngay sát mái, tận tầng năm, trong một căn hộ riêng, gồm một phòng ngoài bé tẹo và một phòng rộng nhưng rất thấp có ba cái khe hở tương tự như ba cái cửa sổ. Cụ già sống cực kỳ nghèo khổ. Đồ đạc vẻn vẹn gồm một cái bàn, hai cái ghế và một chiếc đi văng quá cũ kỹ, cứng queo như đá, đệm nhồi thòi ra tứ phía; nó cũng tương tự như ông chủ vậy. Bếp lò rõ ràng là từ lâu đã không nhóm lửa; nến cũng không có. Bây giờ thì tôi quả quyết cho rằng cụ già đã nghĩ ra cách đến cửa hiệu Milerơ duy chỉ để được ngồi dưới ánh sáng và sưởi ấm. Trên bàn có một cái cốc sứ rỗng không và một mẩu vỏ bánh mì khô cứng từ lâu. Tiền bạc không thấy một xu. Thậm chí cũng không có mảnh vải nào để khâm liệm người quá cố. Có ai đó phải đem cho một chiếc sơ mi. Rõ ràng là cụ già không thể sống hoàn toàn đơn độc như vậy, và chắc chắn phải có một người nào đó vẫn đến thăm nom cụ, dù là thỉnh thoảng đi nữa. Trên bàn có tấm căn cước. Người quá cố là người ngoại quốc, nhưng đã nhập quốc tịch Nga, tên là Iêrêmia Smith, làm thợ máy, đã bảy mươi tám tuổi. Trên bàn cũng còn hai cuốn sách: một cuốn địa lý tóm tắt và một cuốn Tân Ước bằng bản dịch tiếng Nga đầy nét bút chì bên lề và những vết đánh dấu bằng móng tay. Tôi thu những cuốc sách này về cho mình. Khi hỏi những người sống trong cùng ngôi nhà thì hầu như chẳng ai biết gì về ông cụ. Người thuê nhà này rất đông, hầu hết là thợ thuyền và những người đàn bà Đức trông coi các căn hộ và người hầu. Người quản lý ngôi nhà vốn là một người quí tộc thì ngoài việc cho biết tiền thuê buồng sáu rúp một tháng, cũng chỉ biết đôi chút về người khách tạm trú đã quá cố, rằng ông ta sống trong căn buồng này đã bốn tháng, nhưng hơn hai tháng gần đây thì không trả một đồng xu nào nên đành phải đuổi ông ta ra khỏi phòng. Khi hỏi liệu có ai thường đến thăm ông già không thì không ai trả lời được rõ ràng. Ngôi nhà thì lớn: nào có ít người ra vào chỗ cái đám chúng sinh nhốn nháo ấy, làm sao mà nhớ hết. Người quét sân đã phục dịch trong ngôi nhà này năm năm, cố nhiên là có thể cho biết đôi điều, nhưng hai tuần trước ông ta đã về quê nghỉ phép, giao công việc cho đứa cháu, một chàng trai chưa nhận mặt được đến nửa số người trong nhà. Tôi còn chưa kịp biết rõ những thắc mắc ấy kết cục sẽ đi đến đâu, thì cuối cùng người ta cũng đã chôn cất xong cụ già. Vào những ngày ấy, giữa bao nhiêu những lo toan bộn bề khác, tôi cũng đã tìm đến đảo Vaxiliepxki, đường thứ sáu, và phải tới đây tôi mới tự cười mình: tôi còn có thể thấy được những gì ở con đường thứ sáu ấy, ngoài những dãy nhà ở đâu chả thế? Nhưng thế thì, tôi vẫn ngẫm nghĩ, do đâu mà lúc sắp chết cụ già lại nhắc đến đường số sáu và đảo Vaxiliepxki? Phải chăng đó là do mê sảng?
Ngắm căn phòng trống rỗng của cụ Smith, tôi cảm thấy ưng ý. Tôi giành nó cho mình. Cái chính là căn phòng ấy rộng rãi, mặc dù rất thấp, đến nỗi dạo đầu tôi toàn vấp đầu vào trần, nhưng rồi cũng chóng quen. Còn sáu rúp một tháng thì không thể tìm đâu ra chỗ rẻ hơn. Cái dương cơ này đã quyến rũ tôi; chỉ còn lo việc tìm người phục vụ, bởi vì không thể sống nếu hoàn toàn không có ai giúp đỡ. Thời gian đầu, người quét sân đã hứa mỗi ngày một lần đến giúp đỡ tôi vào lúc cần thiết. Mà biết đâu đấy, tôi nghĩ bụng, cũng có thể có ai đó sẽ đến thăm cụ già. Tuy nhiên, cụ già mất đã được năm hôm mà vẫn chẳng thấy một ai tìm đến.
[←2]
Nguyên văn tiếng Nga - Униженные и оскорблённые: Những kẻ bị sỉ nhục và lăng mạ.
[←3]
Tên con quỉ trong tác phẩm Faust của thi hào Đức V. Goethe.
[←4]
Nhà văn Đức chuyên viết những chuyện quái đản.
[←5]
Một bài ca phổ biến trong tầng lớp tiểu thì dân Đức hồi bấy giờ: “Augustin thân yêu của em”
[←6]
Tiếng Đức trong nguyên bản: Dortbarbier - một tờ báo Đức thời bấy giờ.
[←7]
Aber - tiếng Đức trong nguyên bản.
[←8]
Rep - tiếng Đức trong nguyên bản.