Chương thứ tư
Hôm sau mọi việc đều được dàn xếp hết sức ổn thỏa. Kôxtanjôglô vui lòng cho vay một vạn rúp không lấy lãi, không bắt bảo đảm gì cả, chỉ lấy một tờ biên lai mà thôi; đủ biết ông ta sốt sắng giúp cho mọi người thành trang chủ như thế nào.
Ông ra dẫn Tsitsikôp đi xem khắp cả cơ nghiệp của mình. Không một phút nào bị bỏ phí; không có một chỗ nào sơ suất; nông dân làm gì cẩu thả một chút là có lời nhận xét ngay. Có ai làm ăn nhếch nhác là Kôxtanjôglô, con người trăm mắt, nghìn tai, lập tức chấn chỉnh lại. Không nơi nào thấy có kẻ lười biếng. Vẻ đồng tình và mãn nguyện lộ rõ trên mọi khuôn mặt. Nhờ một lối tổ chức đơn giản mà hoàn thiện, mọi việc đều tự động tiến hành. Lối xen kẽ đồng lúa với rừng cây gây cho Tsitsikôp một ấn tượng rất mạnh. Bao nhiêu việc đã được con người ấy thực hiện, không ồn ào, không cần vạch những kế hoạch phức tạp, cũng không cần biện luận về những phương sách bảo đảm sự phồn vinh cho nhân loại! Ngược lại, người dân thủ đô sống một cuộc đời thật là vô ích, suốt ngày ở trong các phòng khách, tuôn ra những câu chuyện nhạt nhẽo và trượt chân trên những sàn gỗ đánh xi! Tất cả những điều đó đều củng cố cho Paven Ivannôvits cái ý muốn tậu một điền trang.
Kôxtanjôglô tự mình đưa khách đến gặp Khlôbuiep, để cùng xem xét điền trang. Sau một bữa ăn sáng thịnh soạn, cả ba người ngồi vào chiếc xe của Paven Ivannôvits, bấy giờ y đang hết sức cao hứng; chiếc xe hai bánh của chủ nhân đánh không đi theo sau. Con Yarb chạy ở phía trước đuổi chim chóc bay tán loạn. Suốt mười lăm verxta đồng lúa và rừng cây của Kôxtanjôglô kế tiếp nhau. Qua hết rồi là quang cảnh đổi khác ngay: lúa mọc thưa thớt, những gốc cây đã bị đẵn chứ không phải là rừng nữa. Tuy ở một địa thế rất đẹp, cái ấp nhỏ nhắn này không hề được chăm sóc; từ xa đã thấy rõ như vậy. Trước tiên thấy hiện ra một ngôi nhà mới làm bằng đá, không người ở; có thể thấy rõ rằng nó được xây từ mấy năm nay mà vẫn không xong. Phía sau nhà ấy là một nhà khác có người ở. Họ gặp chủ nhân, đầu rối bù, mắt húp, vừa mới ngủ dậy. Ông ta trạc tứ tuần, cà vạt thắt lệch, áo đuôi én vá một miếng, giày thủng một lỗ.
Thấy khách đến, ông ta mừng quýnh như được gặp lại anh em ruột thịt sau một thời gian dài xa cách.
- Kônxtantin Fiôđôrôvits, Platôn Mikhailôvits, quý hóa quá. Thật không ngờ! Không ngờ lại có khách đến chơi! Ai nấy đều tránh tôi như tránh tà, họ chỉ sợ tôi hỏi vay tiền. Chao ôi! Đời sống gay go thật, Kônxtantin Fiôđôrôvits ạ. Vả chăng cũng tại tôi; tôi đã sống như một con lợn. Tôi ăn mặc như thế này mà tiếp các vị, giày thủng cả ra; xin các vị thứ lỗi. Tôi biết lấy gì thết các vị bây giờ?
- Thôi đừng khách sáo nữa. Chúng tôi đến có việc. Tôi đưa đến cho ông một người mua ấp đây: ông Paven Ivannôvits Tsitsikôp, Kôxtanjôglô nói.
- Rất hân hạnh được làm quen với ngài. Xin ngài cho tôi được bắt tay.
Tsitsikôp chìa cả hai tay ra.
- Ông Paven Ivannôvits ạ, tôi cũng muốn cho ông xem một điền trang khả quan. Nhưng… xin lỗi, các vị đã điểm tâm chưa?
- Rồi, rồi; Kôxtanjôglô cắt ngang. Chúng tôi không ở lâu đâu, ta đi xem ngay đi.
- Thế thì xin mời các vị đi xem cảnh lộn xộn và bê trễ nhà tôi.
Khlôbuiep và khách cầm mũ lưỡi trai và cùng đi xem xét điền trang. Họ xem làng mạc trước: một con đường dài hai bên là những túp nhà cũ kỹ, cửa sổ nhỏ xíu, bịt bằng những miếng giẻ rách.
- Xin mời các vị đi xem cảnh lộn xộn và bê trễ nhà tôi, Khlôbuiep nhắc lại. Các vị ăn sáng trước khi đến đây là rất phải. Ông Kônxtantin Fiôđôrôvits ạ, ông thử tưởng tượng là tôi không còn lấy một con gà giò nữa: tình cảnh tôi đến thế đấy.
Ông ta thở dài, và thấy rằng Kônxtantin Fiôđôrôvits chẳng có vẻ gì là ái ngại cho mình, liền đi lên trước với Platônôp, cầm tay chàng siết vào ngực mình. Kôxtanjôglô và Tsitsikôp khoác tay nhau đi sau họ một quãng.
- Gay lắm, Platôn Mikhailôvits ạ, Khlôbuiep nói với Platônôp. Ông không thể tưởng tượng là gay go đến thế nào! Không có tiền, không có lúa, không có giày; ông chưa biết cái cảnh ấy. Giá còn trẻ trung thì tôi cũng cóc cần; nhưng khi cảnh trắc trở đến với người ta, lúc sắp bước vào tuổi già, lại phải đèo bòng một vợ với năm con, thì dù muốn dù không, cũng nảy ra những ý nghĩ bi quan…
- Nhưng nếu ông bán ấp đi thì sẽ ổn chứ? Platônôp hỏi.
- Chẳng ổn chút nào! Khlôbuiep vừa nói vừa hoa tay, hoa chân. Chỉ vừa đủ trả nợ, còn lại không được nghìn rúp.
- Thế thì ông sẽ làm ăn ra sao?
- Có trời biết được.
- Tại sao ông không trù tính cách gì để cứu vãn tình thế?
- Tôi biết làm cách gì bây giờ!
- Thì ông chỉ cần kiếm lấy một chỗ làm là xong.
- Tôi chỉ là thư ký tỉnh thôi {Chức quan văn bậc mười hai, ngang với chức trung úy bên quan võ}. Liệu họ sẽ cho tôi làm gì? Một chức vụ vô nghĩa nào đấy thôi. Liệu họ trả cho tôi được bao nhiêu lương? Năm trăm rúp!
- Ông làm quản lý vậy.
- Ai người ta giao ấo cho tôi? Ấp của tôi, tôi còn phá sạch nữa là.
- Nhưng khi người ta bị nguy cơ chết đói đe dọa, cũng phải mưu tính cái gì chứ. Tôi sẽ hỏi anh tôi xem có kiếm cho ông được công việc gì không, nhờ người nào đấy ở trên tỉnh người ta nói giúp.
- Không xong đâu, Platôn Mikhailôvits ạ, Khlôbuiep vừa nói vừa thở dài và siết chặt cánh tay Platônôp. Tôi không được tích sự gì đâu: tôi đã tàn tạ trước tuổi; đau lưng không dứt được vì hồi trẻ tôi chơi bời quá độ, vai lại tê thấp nữa. Tôi thì làm được cái gì? Tại sao phải phí tiền công quỹ để trả lương cho tôi? Bây giờ không thiếu gì những viên chức chạy theo những chức vụ béo bở. Lạy Chúa, đừng để người ta tăng thêm gánh nặng của kẻ nghèo để lấy tiền trả lương cho tôi!
“Ăn chơi phóng đãng rốt cục là thế đấy! Platônôp nghĩ thầm. Còn tệ hơn cả tình trạng dửng dưng của mình nữa!”
Trong khi họ chuyện trò như vậy, Kôxtanjôglô, đi phía sau với Tsitsikôp, mỗi lúc lại tức giận thêm.
- Ông nhìn mà xem, ông ta vừa nói vừa giơ tay chỉ mấy túp nhà lụp sụp, hắn đã làm cho nông dân cùng khổ đến thế nào! Không có xe tải, cũng không có ngựa. Ông ạ, gặp cơn dịch tễ thì đừng tiếc của cải nhà mình làm gì; thà bán hết đi mà mua bò, mua ngựa cấp cho nông dân, đừng để họ thiếu công cụ làm ăn một ngày nào cả. Ông biết không, cứ như thế này thì hàng năm cũng chưa bù đắp lại được cái hại đã gây ra. Nông dân đã quen thói biếng nhác và rượu chè. Chỉ riêng một việc là ngồi không suốt một năm cũng đủ làm cho họ vĩnh viễn hư hỏng rồi; thế là bây giờ họ đã quen thói rách rưới và lêu lỏng. Còn đất nữa! Tình trạng đất đai ra sao? Ông thử nhìn mà xem! Ông ta vừa nói vừa chỉ mấy bãi cỏ hiện ra khi họ đã đi quá dãy nhà gỗ. Thế mà mùa xuân chỗ này cũng ngập nước lũ, chứ có phải không đâu. Giá phải tay tôi thì tôi sẽ trồng gai, và chỉ mỗi chỗ gai này thôi cũng thu được năm nghìn rúp; tôi sẽ gieo cải củ, cũng thu được bốn nghìn rúp. Ông thử nhìn chỗ lúa mạch ở trên gò kia kìa; đó là lúa năm ngoái còn sót lại, vì năm nay hắn ta có gieo gì đâu, tôi biết… lại mấy cái khe kia nữa!... Phải tôi thì tôi sẽ trồng ở đây những rừng cây cao đến nỗi quạ cũng không bay lên đến ngọn được. Đất đai thế này, cả một kho vàng mà bỏ đi! Cho không có gia súc mà cày đi nữa, thì cũng phải trồng rau chứ! Tôi thì tôi làm như thế đấy. Tự tay cầm lấy cuốc, cho vợ, cho con, cho đầy tớ ra làm đi; có chết cũng chết trong khi làm, đồ súc sinh! Ít nhất cũng chết trong khi làm bổn phận, chứ không phải chết bên bàn ăn trong khi đang ngốn như con lợn!
Nói đoạn Kôxtanjôglô khạc nhổ, mặt sa sầm, nước da tái bủng ra, như thường thấy ở những người mắc chứng sung mật.
Một lát sau họ đứng ở bên trên một sườn dốc mọc chênh vênh những cây hạt đỗ {Caragana arborescens, một loại cây nhỏ có quả như hạt đỗ, rất phổ biến ở miền Đông nước Nga}; một khúc sông lấp lánh ở phía xa; một góc nhà của tướng Bêtrisep nép mình trong các lùm cây, hiện ra ở chân trời. Phía sau có thể trông thấy một ngọn đồi um tùm, vì xa nên trông như phủ một làn sương lam; nhờ chi tiết đó, Tsitsikôp nhận ngay ra điền trang của Tentietnikôp.
- Nếu trồng rừng ở đây, y nói, phong cảnh có thể còn đẹp hơn nữa…
- À! Ông thích phong cảnh lắm à! Kôxtanjôglô bỗng nghiêm sắc mặt nhìn Tsitsikôp nói. Hãy coi chừng; hễ cứ tìm cách làm cho phong cảnh đẹp, ông sẽ không có bánh ăn, mà phong cảnh cũng chẳng còn nữa. Hãy chú trọng đến lợi ích đã, cái đẹp tự khắc sẽ có. Cứ xem các thành phố thì biết! Xưa nay những thành phố đẹp nhất vẫn là những thành phố tự nó mọc lên; trong đó mỗi người đều xây dựng cho nhu cầu và sở thích của mình; còn những thành phố dựng theo đồ án thì cứ như những trại lính… Gác cái đẹp sang một bên! Cái cần trước đã…
- Thật đáng tiếc là phải đợi lâu quá: tôi chỉ muốn được trông thấy ngay mọi vật được như mình mong ước!
- Dễ ông là một thanh niên hai mươi lăm tuổi chắc?... Một anh công chức ở Pêterbua?... Hãy kiên nhẫn! Làm việc sáu năm liền đi: trồng, gieo, cuốc đất không ngừng tay. Vất vả đấy. Nhưng một khi đã có đà và đất đai đã bắt đầu tự nó giúp đỡ ông, thì ông sẽ thấy nó không phải như một cái máy vớ vẩn nào đâu. Không đâu, ông bạn ạ; ngoài bảy mươi cánh tay vô hình làm việc cho ông. Mọi thứ đều sẽ tăng lên gấp mười! Trong ấp tôi, có còn phải can thiệp vào cái gì nữa đâu; bây giờ mọi sự đều tự tiến hành theo cái đà sẵn có. Phải thiên nhiên vốn ưa tính kiên nhẫn; đó là một quy luật mà chính Thượng đế đã bắt nó theo. Thượng đế vốn ưu đãi những người kiên nhẫn.
- Nghe ông nói, người ta thấy mình cường tráng hẳn lên. Trí tuệ được nâng cao lên.
- Đất đai cày bừa thế này có chết không! Kôxtanjôglô chỉ sườn đồi và kêu lên như thế, giọng chua chát. Tôi không đứng đây nữa đâu; trông thấy cảnh hỗn độn và bỏ hoang thế này tôi đến chết mất. Bây giờ ông kết thúc cuộc điều đình với hắn, không cần tôi nữa. Ông nên mau mau thu lấy cái kho tàng của lão ngốc ấy đi, đừng để hắn làm ô uế các của trời cho nữa!
Kôxtanjôglô sa sầm mặt lại, vẻ bứt rứt như những người có chứng sung mật; ông ta từ giã Tsitsikôp và đến chào chủ nhân để về.
- Sao thế, ông Kônxtantin Fiôđôrôvits? Khlôbuiep ngạc nhiên kêu lên. Vừa mới đến ông đã về ngay rồi ư?
- Tôi không có thì giờ. Ở nhà tôi có việc cần, phải về ngay, Kôxtanjôglô nói.
Ông ta chào mọi người, lên chiếc xe nhà ra về. Khlôbuiep, hình như hiểu tại sao khách vội về như vậy.
- Ông Kônxtantin Fiôđôrôvits không đành tâm đứng nhìn cái cảnh này; ông ta nói; đối với một nhà doanh nghiệp như ông ta, mà phải chứng kiến một cảnh bê trễ như thế này, thật chẳng vui tí nào. Ông Paven Ivannôvits ạ, ông thử tưởng tượng là năm nay tôi không gieo hạt nữa, có chết không. Thật tình như thế đấy! Không có hạt mà gieo, lại không có ngựa mà cày nữa. Platôn Mikhailôvits, nghe nói ông anh nhà làm điền sản sinh lợi rất tài tình; còn như Kônxtantin Fiôđôrôvits thì thật là một Napôlêông trong lĩnh vực mình. Tôi thường tự nhủ: “Làm sao một người mà lại có tới ngần ấy trí tuệ? Giá một thằng ngốc như tôi được một mảnh nhỏ cái trí tuệ ấy!...” Thưa các vị, đi qua cái cầu này, xin cẩn thận kẻo nhào xuống ao đấy ạ; mùa xuân vừa rồi tôi đã cho chữa ván cầu rồi, chứ có phải không đâu… Nông dân của tôi thật tội nghiệp; cần phải có người làm gương cho họ noi theo; nhưng tôi thì làm gương gì? Tôi không thể đòi hỏi họ nhiều được. Ông Paven Ivannôvits ạ, ông hãy nắm lấy họ. Tôi làm thế nào mà dạy họ làm ăn ngăn nắp được, trong khi chính tôi chẳng có ngăn nắp gì cả? Tôi đã muốn giải phóng họ từ lâu, nhưng như vậy cũng chẳng ăn thua gì. Trước hết họ cần phải học cách sống đã. Phải có một người nghiêm nghị và công minh ở với họ lâu lâu và tỏ ra có sức hoạt động không biết mệt mỏi… Tôi cứ suy từ bản thân tôi thì biết, người Nga cần phải được kích thích, nếu không họ sẽ han gỉ và ngủ đi mất.
- Lạ thật, Platônôp nói, không hiểu tại sao người Nga lại có thể suy đốn đến nỗi hễ một kẻ tiện dân mà không có ai giám sát là thành một thằng say rượu, một đứa vô lại?
- Tại thiếu học thức. Tsitsikôp nhận xét.
- Có trời biết được, Khlôbuiep nói. Chúng ta đều là người có học; chúng ta đã theo các lớp ở trường đại học; thế nhưng phỏng chúng ta làm được gì nào? Tôi đã học được những gì? Chắc chắn không phải là nghệ thuật sống ở đời, mà là nghệ thuật tiêu tiền để mua đủ những thứ vui tinh vi; tôi đã quen nhiều món rất tốn tiền. Có phải vì tôi đã học hành chẳng ra gì không? Không, vì có nhiều bạn khác cùng một cảnh như tôi. Có vài ba người thu được lợi ích thực sự, có lẽ vì họ vốn sẵn thông minh; những người khác chỉ cố học lấy những cái làm cho sức khỏe hư hỏng và tiền của hao mòn.
- Vâng, Tsitsikôp vừa mỉm cười vừa nói: quả có thế thật.
- Đôi khi tôi có cảm tưởng rằng con người Nga đã hư hỏng không có cách gì cứu vãn được nữa. Cái gì nó cũng làm, mà không đạt kết quả nào cả. Lúc nào nó cũng nghĩ rằng từ ngày mai trở đi bắt đầu một cuộc sống mới, chịu ăn uống kham khổ; nhưng ngay tối hôm đó, nó chén một bữa bất thùng chi thình, không cựa được nữa, đến nỗi chỉ còn chớp chớp được đôi mắt, lưỡi dính bết lại; và ngồi ỳ ra đấy nhìn thiên hạ, như con cú.
- Đúng đấy, Tsitsikôp mỉm cười nói; cũng có khi như thế.
- Ta về lối này đi, Khlôbuiep nói. Ta sẽ xem qua đất đai của nông dân nhà tôi. Ông thấy không, trí khôn chẳng đến phần chúng ta. Tôi e rằng trong chúng ta chẳng có ai có trí khôn cả. Dù tôi có thấy người nào sống có nền nếp, biết dành dụm tiền của, tôi vẫn không tin hắn; đến khi già, ma quỷ cũng sẽ làm cho hắn đổ đốn và hắn sẽ buông xuôi hết một lượt. Dù văn minh hay không, chúng ta đều giống nhau cả; tôi dám cam đoan như thế! Chúng ta thiếu một cái gì đấy; nhưng thiếu cái gì thì tôi không biết thế nào mà nói.
Trên đường về, quang cảnh vẫn như thế. Đâu đâu cũng một cảnh lộn xộn, bẩn thỉu, gai mắt. Lại thêm một vũng nước to tướng đọng ngay giữa đường làng. Người ta nhận thấy nông dân cũng có cái vẻ sa đọa, cẩu thả như chủ họ. Một mụ đàn bà mặc chiếc áo vải thô rách rưới và cáu bẩn, đang ra sức nện một con bé khốn khổ, vừa nện vừa chửi bới om sòm. Cách đấy một quãng, hai người nông dân thản nhiên đứng ngắm mụ say rượu đang lồng lộn. Một trong hai người gãi gãi ở chỗ phía dưới lưng; người kia ngáp dài. Nhà cửa đều hở hoác ra như ngáp, mái nhà cũng thế. Trông thấy cảnh ấy, Platônôp cũng ngáp dài. Tsitsikôp thì tự nhủ: “Điền trang tương lai của mình đây, be bét những lỗ thủng, chằng chịt những mảnh vá”. Thật vậy, một chiếc izba lấy một cánh cổng che thay mái; những cây gỗ lấy trộm trong kho nhà chủ dùng để chống đỡ mấy khung cửa sổ sắp sụp. Có thể thấy rõ là những người mujik áp dụng cái mẹo chiếc áo caftan của Triska {Một bài thơ ngụ ngôn của Krưlôp chế giễu bọn địa chủ giật gấu vá vai, mong cầm cố gia sản để giải quyết công việc làm ăn}; họ cắt vạt áo với cổ áo để vá khuỷu tay.
- Điền trang của ông tàn tạ lắm, Tsitsikôp nói, khi họ đã đi xem xong, sắp về đến nhà.
Họ bước vào. Trong các phòng, vẻ sang trọng lẫn với vẻ xơ xác nom rất chướng mắt. Một cuốn Sêxpia gác trên một cái giá bút; trên bàn vứt một cái nắm tay bằng ngà dùng để tự gãi lưng. Bà chủ nhà ăn mặc rất nhã và hợp thời trang, nói chuyện thành phố và nhà hát mới xây dựng. Mấy đứa con, trai có, gái có, đều tinh nhanh và vui vẻ; chúng ăn mặc khá tươm tất, lại có cả một bà gia sư nữa. Nhưng như thế trông lại càng não lòng hơn. Thà chúng nó mặc váy bằng vải tréo go, mặc sơ mi rộng chạy chơi quanh nhà, chẳng có gì khác con cái nông dân mà còn hơn. Một lát sau có một bà khách lắm mồm đến thăm, bà chủ liền đưa về phòng riêng; lũ trẻ theo vào; ba người đàn ông ngồi lại với nhau.
- Thế ông định giá bao nhiêu? Tsitsikôp hỏi. Thú thật là tôi mong một giá rất rẻ, giá hạ nhất, vì tình trạng của ấp này còn tệ hơn tôi tưởng.
- Một tình trạng thảm hại, ông Paven Ivannôvits ạ, Khlôbuiep nói. Và không phải chỉ có thế đâu. Tôi chẳng giấu gì ông: trong số một trăm nông phu có tên trong sổ đinh, chỉ năm chục là sống; còn thì đã chết dịch tả và không chết thì cũng đã chuồn mất không giấy thông hành, thành thử cũng phải xem như đã chết; nếu đưa ra tòa thì đến phải cúng hết cả gia tài vào đấy. Cho nên tôi chỉ xin ba mươi lăm nghìn rúp.
Dĩ nhiên là Tsitsikôp muốn mặc cả.
- Lạy Chúa! Cái ấp thế này mà ông đòi những ba mươi lăm nghìn rúp! Hai mươi lăm nghìn thôi.
Platônôp thấy ngượng. Chàng nói:
- Mua đi, Paven Ivannôvits ạ; ấp này cũng đáng ngần ấy đấy. Nếu ông không trả được ba mươi lăm nghìn rúp, thì hai anh em tôi sẽ chung tiền nhau mua vậy.
Tsitsikôp đâm lo, vội nói: - Thôi được, tôi bằng lòng mua giá ấy. Thế là thỏa thuận; nhưng với điều kiện là trả một nửa tiền và một nửa thì sang năm.
- Không được, Paven Ivannôvits ạ, hoàn toàn không thể được. Ông trả cho tôi một nửa ngay bây giờ, rồi mười lăm ngày nữa ông trả nốt số còn lại. Vì giá có đem cầm, Ngân hàng Lomba cũng trả tôi ngần ấy; chỉ hiềm là tôi không có gì cho bọn đỉa đói nhân viên của nó ních đấy thôi.
- Làm thế nào bây giờ? Thật đấy. Tôi cũng chẳng biết nữa. Tsitsikôp nói. Tôi chỉ có cả thảy mười nghìn rúp thôi.
Hắn nói dối. Kể cả số tiền vay của Kôxtanjôglô, hắn có đến hai mươi nghìn; nhưng phải trả trong một lúc một số tiền to như vậy, hắn xót quá.
- Không được, tôi xin ông đấy, Paven Ivannôvits ạ! Xin cam đoan với ông là tôi đang cần mười lăm nghìn rúp.
- Tôi sẽ cho ông vay năm nghìn, Platônôp nói xen vào.
- Thế thì được! Tsitsikôp vừa nói vừa nghĩ bụng: “Ái chà, hắn cho vay bây giờ thật đúng lúc quá!”
Tráp bạc được bưng từ xe vào. Paven Ivannôvits lấy ra mười nghìn rúp cho Khlôbuiep, hứa đến mai sẽ đưa thêm năm nghìn nữa. Nhưng mà hứa là hứa vậy, ý định của Tsitsikôp là sẽ đưa thêm ba nghìn rúp, còn lại sẽ đưa trong hai, hay ba ngày sau, và nếu có thể thì khất nữa. Paven Ivannôvits thấy khó chịu đặc biệt khi phải buông tiền ra. Khi một việc tối cần thiết buộc y phải làm như vậy, thì y vẫn thích khất lại ngày hôm sau hơn là trả ngay hôm nay. Chúng ta cũng đều hành động như thế cả thôi. Chúng ta vốn thích chơi khăm người đến xin xỏ: cứ cho hắn ngồi rục xác ngoài phòng đợi! Ta cần gì biết mỗi một giờ đồng hồ đối với hắn quý như thế nào và công việc của hắn bị thiệt vì phải đợi như vậy! Ngày mai ông bạn hẵng ghé lại nhé; hôm nay tôi không có thì giờ!
- Ông sẽ dọn đi ở đâu? Platônôp hỏi Khlôbuiep. Ông còn có ấp nào khác không?
- Sẽ phải dọn lên tỉnh: tôi có một ngôi nhà nhỏ trên ấy. Dù sao việc đó cũng rất cần cho lũ trẻ, chúng nó phải có thầy dạy nhạc, dạy khiêu vũ, dạy thánh sử mà ở thôn quê thì thuê đắt mấy cũng không có.
“Ăn cũng không có mà ăn, thế mà còn cho con học khiêu vũ”, Tsitsikôp nghĩ thầm.
“Lạ thật!”, Platônôp tự nhủ.
- Trong khi chờ đợi, ta phải uống cốc rượu, mừng việc mua bán này chứ; Khlôbuiep nói. Này, Kiriuska, đem ra đây một chai sâm banh, cậu ơi!
- “Hắn không có bánh ăn, mà lại có sâm banh!”, Tsitsikôp nghĩ thầm.
Platônôp không còn biết nghĩ ra sao nữa.
Khlôbuiep có sâm banh trong nhà, chẳng qua là sự bất đắc dĩ. Ông ta cho người ra tỉnh mua kvax, nhưng chủ hiệu không bán chịu. Thế nhưng đằng nào cũng phải có gì mà uống, thì lại có một người Pháp làm đại lý rượu vang, mới ở Pêterbua đến, bán chịu cho mọi người; nên đành phải mua sâm banh vậy.
Sâm banh đã mang ra, họ uống ba cốc; không khí vui hẳn lên. Khlôbuiep quên hết lo âu: ông ta trở thành một người nhã nhặn và hóm hỉnh, luôn mồm nói những câu dí dỏm và kể những chuyện khôi hài. Lời lẽ của ông ta tỏ rõ một sự hiểu biết rất rộng về con người và cuộc đời. Ông ta quan sát được khá nhiều sự vật một cách chính xác; biết vẽ lại trong vài câu những đặc điểm của các trang chủ quanh vùng một cách sắc nét; vạch ra những nhược điểm và sai lầm của từng người một cách rõ ràng, biết tường tận lịch sử của những người quý tộc phá sản, những nguyên nhân và hoàn cảnh phá sản của họ; biết miêu tả những thói quen nhỏ nhặt nhất của họ một cách hài hước, độc đáo đến nỗi người khác thích mê, sẵn sàng thừa nhận ông ta là một người thông minh lỗi lạc.
- Tôi lấy làm lạ, Tsitsikôp nói, rằng một người thông minh như ông mà không tìm được cách cứu vãn tình thế.
- Tôi có cách đấy chứ, Khlôbuiep nói. Đoạn ông ta trình bày cho họ nghe một mớ dự định, toàn là những dự định vô lý, quái gở, ít căn cứ vào việc biết người và hiểu đời đến nỗi người ta chỉ có thể so vai mà rằng: “Trời! Từ chỗ hiểu đời đến chỗ biết sử dụng vốn hiểu biết đó, thật còn xa lắc, xa lơ!” - Mọi sự đều dựa vào một điều kiện cần thiết là phải kiếm ra ngay lập tức mười vạn hay hai mươi vạn rúp. Ông ta cho rằng hễ kiếm được là công việc sẽ ổn ngay; những lỗ hổng sẽ được lấp kín; ông ta có thể tăng thu hoạch lên gấp bốn và trả hết nợ nần. Và ông ta kết luận: - Nhưng các ông bảo tôi làm thế nào? Làm gì có một ân nhân sẵn lòng cho vay hai mươi vạn rúp, hay mười vạn thôi cũng thế. Có thể thấy rõ ràng đó không phải là ý Chúa.
“Chúa mà cho một thằng ngu như thế hai mươi vạn rúp thì thật là chuyện lạ!”, Tsitsikôp nghĩ thầm.
- Quả tình, tôi có một bà dì, giàu ba triệu; Khlôbuiep nói. Bà lão ngoan đạo vẫn thường cúng cho nhà thờ và các tu viện; nhưng lại rất keo kiệt khi cần giúp đỡ đồng loại. Một bà dì kiểu cổ; được trông thấy bà ta kể cũng hay. Bà ta nuôi bốn trăm con chim bạch yến, những chó cộc, những người ăn báo cô và một lũ đầy tớ quả là chẳng đâu có trong thời buổi này nữa. Tên gia nhân ít tuổi nhất cũng xấp xỉ sáu mươi, thế mà dì tôi vẫn gọi: “- Này, thằng nhỏ!”. Có người khách nào mà thiếu lịch sự, là bà ta ra lệnh đừng dọn cho ăn món này, món nọ; và lệnh đó được thi hành ngay.
Platônôp mỉm cười.
- Bà ta tên là gì và ở đâu, Tsitsikôp hỏi.
- Bà ta ở trên tỉnh, tên bà Alexanđra Ivanôpna Khanaxarôva.
- Sao ông không đến nhờ bà ta giúp đỡ? Platônôp hỏi. Tôi chắc là nếu bà ta biết tình cảnh gia đình ông thì bà ta sẽ không thể từ chối được.
- Từ chối chứ! Bà dì yêu quý của tôi nhẫn tâm lắm; thật là một quả tim sắt đá, Platôn Mikhailôvits ạ. Hơn nữa, bà ta đã nhiều kẻ theo nịnh hót lắm rồi. Trong đó có một tay muốn làm tỉnh trưởng, hắn đã tìm cách xông vào nhận họ với bà ta… Cầu Chúa phù hộ cho hắn! May ra hắn thành công cũng không biết chừng.
“Thằng cha ngu thật! Tsitsikôp nghĩ thầm. Mình mà có một bà dì như thế thì mình sẽ chăm như vú em chăm con mọn ấy chứ!”.
- Câu chuyện khô khan quá! Khlôbuiep nói. Này, Kiriuska! Đưa chai sâm banh nữa ra đây nào.
- Không, không, tôi không uống nữa đâu; Platônôp nói.
- Tôi cũng thế, Tsitsikôp nói; và cả hai đều cương quyết từ chối.
- Ít nhất các ông cũng phải hứa là sẽ lên chơi nhà tôi trên tỉnh. Mồng tám tháng bảy, tôi sẽ thết tiệc các quan chức.
- Lạy Chúa! Platônôp kêu lên. Cảnh ngộ như ông mà lại còn thết tiệc!
- Biết làm thế nào được? Đó là một bổn phận không thể tránh được, Khlôbuiep nói. Tôi phải đáp lễ họ chứ.
Platônôp trợn tròn xoe mắt. Chàng không biết rằng ở nước Nga này, ở tỉnh nhỏ cũng như ở hai kinh đô, có những bậc hiền triết mà cuộc đời là một bài tính không ai tài nào giải nổi. Có kẻ tưởng chừng như đã ăn hết của cải, nợ nần lút đầu lút cổ và trước mắt chẳng còn phương sách gì nữa; ấy thế mà vẫn mở tiệc. Tất cả các khách đến dự đều nói rằng đây là bữa tiệc cuối cùng của hắn, và ngày mai người ta sẽ lôi cổ chủ tiệc vào tù. Mười năm sau, bậc hiền triết vẫn đấy, nợ nần nhiều hơn bao giờ hết, và lại mở tiệc: và khách lại bảo đấy là bữa tiệc cuối cùng, ngày mai chủ nhân sẽ vào tù.
Ngôi nhà của Khlôbuiep trên tỉnh có một quang cảnh chẳng tầm thường chút nào. Hôm nay một ông pôp mặc áo lễ đọc kinh trong nhà; ngày mai một tốp diễn viên người Pháp tập hài kịch ở đấy. Có khi trong nhà không tìm đâu ra một mẩu bánh mì; có khi lại tiếp đủ các thứ nghệ sĩ, và khi ra về mỗi người lại mang theo một tặng phẩm. Tình cảnh Khlôbuiep đôi khi điêu đứng đến nỗi, giá phải người khác thì đã thắt cổ hay bắn vào đầu mà chết từ lâu; nhưng do một sự tương phản lạ lùng với nếp sống phóng đãng của ông ta, lòng mộ đạo của Khlôbuiep đã làm cho ông ta tránh được tuyệt vọng. Trong những lúc khó khăn ấy, ông ta đọc thân thế các vị thánh đã luyện được cho tinh thần mình vượt lên trên cảnh khốn cùng. Những khi ấy tâm hồn ông ta cảm kích khôn xiết, lòng ông ta dào dạt tình thương, mắt ông ta nhòa lệ. Ông ta cầu nguyện; và lạ thay, hầu như lần nào cũng có một sự cứu giúp bất ngờ đến với ông ta: một người bạn cũ nào đó sực nhớ tới ông và gửi tiền cho; hoặc giả một người đàn bà không quen biết gì đi qua, tình cờ biết được chuyện ông ta, liền động lòng trắc ẩn, biếu một món quà sang trọng; hoặc giả một vụ kiện mà ông ta chưa từng nghe nói đến, bỗng xoay ra có lợi cho ông ta. Bấy giờ ông ta thành kính nhận ra tấm lòng từ bi vô cùng, vô tận của đấng Sáng thế, bèn đặt một lễ Ca ngợi, rồi lại tiếp tục cuộc sống phóng đãng.
- Tôi thật ái ngại cho ông ta, Platônôp nói với Tsitsikôp khi họ đã từ giã ra về.
- Thật là một đứa con hoang dã lạc loài! Tsitsikôp nói. Những người như thế không đáng cho người ta thương hại.
Chẳng mấy chốc cả hai người đều không còn nghĩ đến Khlôbuiep nữa: Platônôp thì bởi vì vẫn thường nhìn tình cảnh của người khác một cách dửng dưng như nhìn mọi sự ở đời; những nỗi khổ của đồng loại khiến lòng chàng se lại; nhưng những ấn tượng không khắc sâu vào tâm hồn; chỉ mấy phút sau là chàng không còn nghĩ đến Khlôbuiep nữa; vì lý do dễ hiểu là đến bản thân chàng nữa, chàng cũng có nghĩ đến đâu. Tsitsikôp, thì bởi vì bao nhiêu ý nghĩ đều tập trung vào việc mua ấp vừa rồi: bỗng dưng trở thành chủ nhân thực sự của một trang ấp mà trước đây chỉ có trong trí tưởng tượng, y đâm ra tư lự; những dự định và ý nghĩ của y trở nên nghiêm trang hơn, khiến mặt y bất giác có vẻ sinh động hơn. “Kiên nhẫn, cần cù! Chẳng phải là khó: mình đã quen với hai đức tính đó, có thể nói là ngay từ thưở mới lọt lòng. Đối với mình, đó chẳng phải là cái gì mới mẻ. Nhưng giờ đây, ở cái tuổi này, liệu mình có còn kiên nhẫn được như thời trẻ trung nữa không?” Dù có xem đi xét lại việc tậu ấp vừa rồi về mặt nào, y cũng thấy là một việc có lợi. Có thể đem cầm cả điền trang sau khi đã bán từng khoảnh một những đất tốt nhất. Cũng có thể tự mình khai thác lấy, theo gương Kôxtanjôglô, tận dụng những lời khuyên của ông ta, người láng giềng và lại là ân nhân. Cũng có thể đem bán lại (nếu không thấy thích nghề nông, chỉ giữ lại các nông phu trốn và chết). Cách này còn có một cái lợi khác nữa: chẳng có gì ngăn trở y chuồn khỏi vùng này, không trả cho Kôxtanjôglô số tiền đã vay. Không phải Tsitsikôp nghĩ ra cái chước này; mà tự nó hiện ra, đầy vẻ khiêu khích và sức quyến rũ. Ai làm sinh ra những cái ý nghĩ mất dạy nó đến với người ta một cách đột ngột thế nhỉ?
Paven Ivannôvits có một cảm giác khoái lạc mới mẻ, cái khoái cảm được làm trang chủ thực sự, được làm chủ những đất đai, nhà cửa, những nông nô bằng xương bằng thịt. Dần dần y đâm ra nhảy nhót, xoa tay, nháy mắt, đưa nắm tay lên miệng làm kèn, khẽ thổi ứ ư một thứ hành khúc; thậm chí còn nói to lên mấy câu tự mình khích lệ mình và tặng mình những tính từ như cái mõm xinh xinh của ta và con gà giò beo béo của ta. Nhưng rồi sực nhớ ra rằng trong xe không phải chỉ có mình mình; y bỗng lại ngồi yên, cố ghìm nỗi hân hoan bồng bột; và khi Platônôp, nghe những âm thanh ấy tưởng là y nói gì với mình, liền hỏi: “- Cái gì ạ?” - thì y đáp: “- Không, có gì đâu!”.
Mãi đến lúc ấy, Tsitsikôp mới nhìn ra chung quanh và nhận ra rằng nãy giờ, xe họ đang đi qua một khu rừng tuyệt đẹp, trên một con đường hai bên trồng bạch dương, thân trắng bóng như một dãy rào phủ tuyết, vươn lên, thanh tú và nhẹ nhàng giữa màu xanh dịu của lá non. Mấy con họa mi thi nhau hót véo von; những đóa uất kim hương điểm vàng cho thảm cỏ xanh. Tsitsikôp không tài nào cắt nghĩa được tại sao lúc nãy đang ở giữa cánh đồng không, mà giờ đã chuyển vào một khung cảnh nên thơ như vậy. Sau rặng cây, hiện ra một ngôi nhà thờ trắng, và ở phía bên kia có thể trông thấy một cái cổng sắt. Từ cuối đường đi, một người đàn ông đang tiến về phía họ, đầu đội mũ lưỡi trai, tay cầm một cái gậy sần sùi những mấu. Một con chó Anh, chân thon, chạy trước mặt người đó.
- Anh tôi đây, Platônôp nói, xà ích dừng lại!
Chàng xuống xe, Tsitsikôp xuống theo. Hai con chó đã quấn lấy nhau. Con Azô chân thon, thè cái lưỡi mềm mại liếm lên mõm con Yarb, lên tay Platônôp, rồi chồm lên người Tsitsikôp và liếm tai y.
Hai anh em ôm chầm lấy nhau.
- Chú tệ quá, Platôn ạ, chú làm sao thế? Vaxili hỏi.
- Anh muốn nói gì kia? Platôn nói, vẻ hờ hững.
- Sao thế? Ba ngày liền chẳng thấy tăm hơi chú đâu! Một tên mã phu của Pêtukh dắt con ngựa giống của chú về, hắn bảo: “Cậu ấy đi với một người nào ấy”. Ít nhất chú cũng nhắn về cho anh biết chú đi đâu, có việc gì, bao giờ thì về chứ! Chú ạ, ai lại thế bao giờ? Suốt mấy hôm nay có Chúa biết anh đã tưởng tượng ra những gì có thể xảy đến cho chú.
- Vâng, em quên báo cho anh biết; Platôn nói. Em đi với ông đây đến anh Kônxtantin Fiôđôrôvits, hai anh chị gửi lời thăm anh. Ông Paven Ivannôvits, xin giới thiệu đây là anh Vaxili tôi. Anh Vaxili, đây là ông Paven Ivannôvits Tsitsikôp.
Hai người được giới thiệu bắt tay nhau, rồi bỏ mũ ra để ôm quàng lấy vai nhau.
- Cái lão Tsitsikôp này là ai thế nhỉ? Vaxili nghĩ thầm. Chú Platônôp vốn chẳng kén chọn chút nào trong việc giao thiệp.
Ông ta liền quan sát Tsitsikôp trong chừng mực mà lễ độ cho phép, và dáng dấp của ông bạn chúng ta làm cho ông yên tâm.
Về phía mình, Tsitsikôp cũng quan sát người mới quen trong chừng mực mà lễ độ cho phép. Ông này thấp hơn em trai, tóc sẫm hơn và mặt kém đẹp hơn nhiều; nhưng có sinh khí hơn, linh hoạt hơn, chân thành hơn. Có thể thấy rõ rằng ông ta ít ngủ gà, ngủ gật hơn; nhưng Paven Ivannôvits cũng không chú ý gì mấy đến điều ấy.
- Anh Vaxili ạ, em đã quyết định đi khắp nước Nga thần thánh với ông Paven Ivannôvits. Như vậy may ra có thể tiêu tan chứng ưu uất chăng?
- Sao chú lại quyết định chóng thế? Vaxili sửng sốt hỏi. Ông ta suýt nói thêm: “Mà lại đi với một gã lạ mặt chú mới gặp lần đầu, có thể còn tệ hơn quỷ sứ nữa!”. Đầy ý ngờ vực, ông ta nhìn trộm Tsitsikôp; nhưng không thể nhận thấy gì ngoài vẻ đúng đắn hoàn hảo của y cả.
Họ quay sang phải, đi về phía cổng. Dãy tường đã cũ, tòa nhà cũng vậy; nó thuộc loại nhà mà ngày nay không còn ai xây nữa, có nhiều hàng hiên, và mái rất cao. Hai cây bồ đề rất lớn tỏa bóng rợp cả một nửa sân; quanh gốc cây có đặt nhiều ghế gỗ dài. Những cây tử đinh hương và anh đào đang ra hoa, như họp thành một chuỗi ngọc trai bao quanh sân, cành lá che lấp hẳn dãy tường rào. Tòa gia trạch bị cây che khuất hết; chỉ ở phía dưới, mới trông thấy những cửa lớn và cửa sổ thấp thoáng qua các cành cây. Phía sau những thân cây thẳng tắp như những mũi tên có thể trông rõ những tường trắng của nhà bếp, nhà xe và kho rượu. Đâu đâu cũng màu lá xanh rờn với những tiếng họa mi lanh lảnh. Một cảm giác yên tĩnh dễ chịu bất giác tràn vào tâm hồn khách. Mọi vật đều nhắc nhở những thời phẳng lặng đã qua; khi mà mọi người đều sống hiền lành, và mọi việc đều đơn giản, chẳng có gì rắc rối.
Ông anh của Platônôp mời Tsitsikôp ngồi. Họ cùng ngồi trên những ghế dài dưới gốc bồ đề. Một chú con trai mười bảy tuổi mặc một chiếc sơ mi dài xinh xắn bằng tơ Nam-Kinh, màu hồng, bưng ra đặt trước mặt họ những bình thủy tinh đựng những thứ kvax màu sặc sỡ; thứ thì quánh như dầu, thứ thì sủi bọt như nước chanh hơi. Bày xong, chú cầm lấy một cái thuổng để tựa vào gốc cây và đi ra vườn. Cũng như ông anh rể là Kôxtanjôglô, hai anh em Platônôp đều không có người hầu chuyên môn, mà mấy người làm vườn thay nhau làm việc đó. Vaxili chủ trương là đầy tớ không nên làm thành một tập đoàn; mỗi nông dân đều có thể làm giúp việc nhà, không cần có những người được huấn luyện riêng. Người Nga rất tốt, nhanh nhẹn và cần cù khi còn mặc sơ mi ngắn và áo caftan: nhưng hễ mặc áo surtuk kiểu Đức vào là hóa ra vụng về, chậm chạp, không chịu bỏ cái áo ấy ra, không chịu đi tắm nữa; và cái surtuk kiểu Đức ấy sẽ nhung nhúc những rệp và bọ chó. Có lẽ Vaxili nghĩ cũng có lý. Nông dân thích diện lắm; đàn bà ai cũng đội những chiếc mũ trùm thêu kim tuyến; ống tay áo sơ mi của họ trông như những đường viền của một chiếc khăn san Thổ Nhĩ Kỳ.
- Ông giải khát nhé? Vaxili bảo Tsitsikôp. Những thứ kvax này xưa nay vốn là niềm kiêu hãnh của nhà chúng tôi đấy.
Tsitsikôp lấy một bình rót ra cốc uống, thấy vị hao hao như lipec, rượu mật ong, mà ngày trước y đã từng uống ở Ba Lan. Cũng sủi bọt như sâm banh, hơi xông lên the the trên mũi dễ chịu. “- Thật là một thứ rượu thần!” Y nói; đoạn lại lấy một bình khác rót cốc nữa. Lại càng ngon hơn.
- Thật là hoàng hậu của các thứ rượu! Y nói tiếp. Tôi có thể nói rằng ở nhà ông anh rể đáng kính của ông là Kônxtantin Fiôđôrôvits, tôi đã được uống một thứ rượu mùi thượng hạng; và ở đây tôi được uống một thứ kvax ngon chẳng kém.
- Rượu mùi ấy cũng ở nhà chúng tôi mà ra cả: chị tôi lấy công thức về làm đấy. Hành trình ông định vạch như thế nào? Vaxili hỏi.
- Hiện nay tôi đi du lịch, Tsitsikôp nói; người khẽ lắc lư trên chiếc ghế dài, và vừa xoa xoa đầu gối vừa nghiêng mình xuống; hiện tôi đi vì việc người khác nhiều hơn việc mình. Tướng quân Bêtrisep, bạn thân và có thể nói là ân nhân của tôi, có nhờ tôi đi thăm họ hàng. Họ hàng, dĩ nhiên, cũng có phần quan trọng, nhưng đi như thế cũng được việc cho tôi, vì chưa kể đến lợi ích về phương diện vệ sinh, chỉ được xem cảnh trần gian, thấy thế sự thăng trầm cũng có thể nói là đã được một pho sách sống, một vốn tri thức thứ hai.
Vaxili ngẫm nghĩ: “Con người này ăn nói hơi có vẻ tự phụ, nhưng trong lời lẽ cũng có phần đúng”. Sau một lát im lặng, ông ta nói với Platôn:
- Platôn ạ, anh cũng bắt đầu tin rằng một chuyến đi du lịch quả có thể thức tỉnh chú đấy. Chẳng qua chú chỉ có cái tật dửng dưng với mọi việc mà thôi. Chẳng qua chú ngủ gà, ngủ gật, không phải vì no hay vì mệt, mà vì thiếu những ấn tượng và những cảm giác mạnh. Anh thì trái hẳn. Giá có thể được, anh cũng muốn đừng cảm xúc mạnh như vậy trước mọi việc và bớt để tâm đến tất cả những việc xảy ra.
- Hơi đâu mà cái gì cũng để tâm? Platôn nói. Anh cứ tìm những duyên cớ để ưu tư và tự mình tạo cho mình những mối lo sợ.
- Việc gì phải tạo ra, một khi những điều trái ý mình cứ chốc chốc lại xảy đến, Vaxili nói. Chú có biết trong khi chú đi vắng, Lênitxưn đã chơi chúng ta một vố như thế nào không? Không chứ gì? Ấy, hắn chiếm lấy một khoảng đất hoang mà hàng năm nông dân ta vẫn dùng để mở hội mừng xuân theo cổ tục. Trước hết, khoảng đất hoang ấy có trả bao nhiêu anh cũng không bán… Đó là một nơi gắn liền với rất nhiều kỷ niệm của làng ta; đối với anh phong tục là việc thiêng liêng, anh sẵn sàng hy sinh tất cả vì cổ tục {Vaxili Platônôp tiêu biểu cho những người thuộc phái Sùng Xlav, lệ cổ}.
- Y không biết, nên mới chiếm lấy; Platônôp nói. Y là người mới đến, ở Pêterbua về còn chân ướt chân ráo. Phải cắt nghĩa cho y rõ.
- Hắn biết rất rõ. Anh đã cho người đến nói với hắn, nhưng hắn trả lời bằng những lời rất thô bỉ.
- Đáng lẽ anh phải thân hành đến gặp y mà bàn bạc, mà giãi bày.
- Chịu thôi. Hắn vênh váo quá đỗi. Anh không đến gặp hắn đâu. Chú có muốn đến thì đến.
- Em sẵn lòng đến; nhưng vì em không biết gì về công việc nên y có thể bịp em rất dễ.
- Nếu các ông bằng lòng, tôi sẽ xin đảm đương việc này; Tsitsikôp nói. Ông cho tôi rõ đầu đuôi ra sao đi.
Vaxili đưa mắt nhìn y và nghĩ bụng: “Cái lão này ham du lịch thật!”.
- Chỉ xin ông nói qua cho tôi biết đại khái hắn ta là người thế nào, Tsitsikôp nói tiếp, và đầu đuôi câu chuyện ra sao.
- Tôi thật khó nghĩ nếu nhờ ông một việc rầy rà như việc này. Theo tôi thì hắn ta chẳng ra gì; xuất thân từ một gia đình quý tộc nông thôn ở tỉnh này, hắn đã làm công chức ở Pêterbua. Ở đấy hắn lấy con rơi của một yếu nhân nào đấy; nên mới vênh váo như vậy. Nhưng ở đấy, chẳng ai ngu ngốc gì đâu. Chúng tôi không xem thời thượng như một đạo luật, cũng không xem Pêterbua như một giáo đường.
- Dĩ nhiên, Tsitsikôp nói; nhưng đầu đuôi câu chuyện ra sao?
- Ông nghe nhá, hắn đang cần đất. Ví thử hắn đừng làm thế thì tôi sẵn lòng cho không hắn một chỗ khác. Thế nhưng bây giờ cái thằng cha ưa gây sự ấy lại tưởng là tôi sợ.
- Tôi nghĩ rằng thương lượng là hơn; may ra có thể đi đến thỏa thuận được. Chưa hề có ai giao phó việc gì cho tôi mà phải ân hận bao giờ… ngay tướng quân Bêtrisep cũng vậy…
- Nhưng để ông phải bàn cãi với một con người như thế, tôi thật khó nghĩ… {Phần tiếp theo trong bản thảo đã thất lạc, trong phần thứ hai của Những linh hồn chết, in lần thứ nhất năm 1855, có chú: “Ở đây thất lạc một đoạn. Có lẽ trong đoạn này kể lại chuyện Tsitsikôp lên đường đến nhà trang chủ Lênitxưn”}
{Phần đầu câu này đã thất lạc}… đồng thời đặc biệt chú ý làm sao cho việc này được giữ kín, Tsitsikôp nói; vì tội lỗi chưa có gì đáng sợ mấy, tai tiếng mới thật là nguy hiểm.
- Quả có thế, quả có thế, Lênitxưn nói, đầu nghiêng hẳn sang một bên.
- Cùng có những ý nghĩ như nhau thật là thú vị! Tsitsikôp nói. Tôi cũng có một việc vừa hợp pháp, vừa bất hợp pháp; bề ngoài thì bất hợp pháp, nhưng thực ra lại là hợp pháp. Tuy cần có vật để đi cầm, tôi vẫn không muốn gây phiền cho ai bằng cách trả hai rúp một linh hồn sống. Nếu một mai tôi có mệnh hệ nào - Chúa phù hộ cho tôi đừng lâm vào nông nỗi ấy, - thì sẽ rất phiền cho người chủ. Cho nên tôi đã quyết định lợi dụng những nông phu đã bỏ trốn hay đã chết, nhưng vẫn còn tên trong sổ đinh, để làm một việc tốt và đồng thời cất bỏ gánh nặng cho vị trang chủ đáng thương phải nộp thuế cho chúng. Chúng tôi chỉ ký với nhau một văn khế cho có lệ thế thôi, làm như thể những nông phu đó còn sống.
“Nhưng kể ra cũng kỳ quặc thật”, Lênitxưn vừa nghĩ thầm, vừa lùi ghế lại một chút. - Việc này có một tính chất… hắn mở đầu.
- Nhưng sẽ không có tai tiếng gì đâu, mọi việc sẽ được tiến hành bí mật; Tsitsikôp nói. Như tôi đã trình bày, đây là một việc giữa những người trung thực với nhau; những người đã đứng tuổi cả, và hình như lại là những người có cấp bậc đáng trọng, cam đoan giữ bí mật cho nhau.
Hắn vừa nói vừa nhìn thẳng vào mắt Lênitxưn. Mặc dầu là người rất cơ mưu và thông thạo công việc; Lênitxưn vẫn thấy rất phân vân, nhất là giờ đây hình như đang mắc vào cái bẫy do chính tay mình đặt. Bản tính y không thể làm điều bất công và không ưa làm việc ám muội, dù là kín đáo cũng vậy. “Thật là một việc kỳ khôi, y nghĩ thầm. Cứ hãy kết thân ngay cả với những người tốt mà xem!”.
Nhưng số phận hình như muốn chiều Tsitsikôp. Như để giúp phần giải quyết công việc khó khăn này, người vợ trẻ của Lênitxưn bước vào: một thiếu phụ xanh xao, nhỏ bé và gầy gò; nhưng ăn mặc theo thời trang Pêterbua, và rất chuộng những người “comme il faut” {Tiếng Pháp trong nguyên văn có nghĩa là đủ phẩm chất thượng lưu}. Theo sau là một người vú em, tay bế một hài nhi, kết quả của mối tình đắm thắm giữa đôi vợ chồng trẻ. Nhờ dáng điệu ung dung, và cách nghiêng đầu, Tsitsikôp làm cho người thiếu phụ Pêterbua ưa thích; rồi đứa bé cũng vậy. Thoạt tiên nó khóc òa lên; nhưng Tsitsikôp nựng: “À gư, à gư, bé ngoan nào”, y búng ngón tay kêu tanh tách và quay cho chiếc lập lắc bằng mã não đỏ dính trên dây đeo đồng hồ ánh lên loang loáng, và cuối cùng nó chịu để cho Tsitsikôp bế. Y liền nhấc bổng nó lên trần nhà, làm cho nó nở một nụ cười xinh xinh, rất đẹp lòng ông bố và bà mẹ. Nhưng bỗng nhiên, không biết vì vui mừng hay vì một nguyên nhân nào khác, đứa bé phạm một lỗi bất lịch sự.
- Ôi! Trời ôi! Bà Lênitxưn kêu lên, nó làm hỏng mất áo của ông rồi!
Quả nhiên Tsitsikôp thấy một ống tay áo của chiếc frac mới của mình đã dây bẩn ra cả. “Ôn dịch bắt mày đi đồ quỷ con!” y tức giận nghĩ thầm.
Cha mẹ đứa bé, người vú em cuống quít chạy đi lấy ô đờ Côlôn và xúm vào lau chùi cho Tsitsikôp.
- Không sao - Tsitsikôp nói, cố hết sức làm ra bộ vui vẻ, - ở cái tuổi đời đáng yêu này, trẻ nó có làm hỏng cái gì được đâu? Hắn vừa nhắc đi nhắc lại vừa nghĩ thầm: “- Sao chó sói không ăn thịt nó đi cho rảnh! Nó chơi khăm mình thật, đồ ranh con!”.
Cái biến cố bề ngoài có vẻ vô nghĩa này đã làm cho thiện cảm của chủ nhân nghiêng hẳn về Tsitsikôp. Làm sao có thể từ chối điều gì với một ông khách đã âu yếm con mình một cách hồn nhiên như vậy và đã hy sinh chiếc frac của mình một cách đại lộ như vậy? Để khỏi làm thành một tấm gương xấu, họ thỏa thuận với nhau, giải quyết công việc một cách kín đáo; vì bản thân sự việc chưa có gì đáng sợ mấy, tai tiếng mới thật là nguy hiểm.
- Đến lượt tôi, xin phép được giúp ông một việc. Tôi muốn làm trung gian giữa ông với hai anh em Platônôp. Ông đang cần đất có phải không? {Đến đây bản thảo lại gián đoạn}
Một trong những chương cuối {Đoạn này không biết đích xác là thuộc phần nào trong tác phẩm, cũng có lẽ là tác giả định viết cho phần thứ ba}
… Trên đời này mỗi người đều lo thu xếp công việc của mình. Tục ngữ có câu: “- Ai ưa cái gì thì cứ chẳng để yên cho cái ấy”. Việc khảo sát các rương hòm đã đem lại kết quả mỹ mãn, một phần các vật đựng trong các rương hòm đó liền được chuyển sang cái tráp bất hủ nọ. Đó là một thủ thuật hết sức khôn ngoan. Tsitsikôp lợi dụng thì đúng hơn là ăn cắp. Vì trong chúng ta, ai nấy đều lợi dụng một cái gì: người thì lợi dụng những khu rừng công, người thì lợi dụng những số tiền mình được giữ, người thì tước đoạt của con cái để bao một nữ diễn viên đi qua, người thì lại ăn cướp của nông nô để sắm bàn ghế của hiệu Hambs {Một nhà sản xuất bàn ghế ở Viên, thủ đô nước Áo, rất được ưa chuộng vào thời ấy} hay sắm một cỗ xe. Biết làm thế nào được, thế gian này nhan nhản những sự cám dỗ: nào là những tiệm ăn sang trọng bán giá cắt cổ, nào là những tối khiêu vũ hóa trang, nào là những hội hè, những cuộc vui thanh nhã với gái txigan. Khó lòng mà nhịn được; nếu mọi người đều làm như thế cả, và nếp sống thời thượng đòi hỏi như thế, thì cứ thử mà cưỡng lại xem! Tsitsikôp cũng vậy; noi theo số người ưa chuộng tiện nghi mỗi ngày một đông, y đã xoay sở làm sao cho việc này có lợi cho y.
Đáng lẽ Tsitsikôp phải ra đi từ lâu; nhưng đường sá không sao đi lại được. Trong khi đó thì một phiên chợ khác sắp khai mạc trong thành phố, lần này dành cho những người thượng lưu. Phiên trước chủ yếu là để bán ngựa, bò và các loài gia súc khác, bán những nông sản mà bọn buôn nước bọt đã chiếm đoạt của nông dân. Lần này thì các nhà buôn xa xỉ phẩm đem ra bán những hàng mua ở chợ phiên Nijni Nôpgôrôt {Chợ phiên lớn nhất toàn quốc}. Thật là một tai họa cho các túi tiền Nga: đàn ông Pháp bán nước hoa, đàn bà Pháp bán mũ, - quả là một giống châu chấu Ai Cập, theo như lối nói của Kôxtanjôglô, không những ăn hết hoa màu, mà còn để trứng lại dưới đất nữa, - họ đến vơ vét những tiền bạc đã tốn biết bao công sức mới làm ra được.
Rất nhiều địa chủ, chỉ vì mất mùa nên mới phải ở nhà. Ngược lại, bọn công chức thì tiêu tiền như nước; và khốn thay, cả vợ con họ cũng thế. Sau khi đọc các thứ sách xuất bản trong thời gian gần đây nhằm gợi cho nhân loại những nhu cầu mới, họ nóng lòng muốn nếm thử tất cả những thú vui mới mẻ. Có một người Pháp mở một vôkxan, loại tiệm ăn và vui chơi ngoài trời trước đây chưa hề có ở tỉnh, với những bữa ăn rất rẻ, lại bán chịu một nửa tiền. Chỉ thế thôi, cũng đủ cho các ông trưởng phòng đã đành, mà ngay đến các thuộc viên thường cũng vậy, tha hồ chè chén, trông cậy vào những món hối lộ sau này sẽ bòn được của những người đến xin xỏ. Ai nấy thi nhau phô trương những cỗ xe ngựa thật đẹp. Các đẳng cấp ganh đua nhau trong các cuộc vui chơi… Mặc dầu trời mưa tầm tã và đường sá lầy lội, xe kôliaxka vẫn đi lại tấp nập. Không biết những cỗ xe ấy từ đâu ra; nhưng dù có ở Pêterbua, chúng cũng không đến nỗi phải xấu mặt… Bọn lái buôn, bọn chạy hàng cất mũ một cách duyên dáng, chào mời các bà, các cô. Rất ít thấy những người râu dài, đội mũ lông theo kiểu cũ. Mọi người đều có vẻ Âu Tây, chỉ thấy toàn là những cằm cạo nhẵn thín và những bộ răng thối hỏng…
Ngả người trên chiếc ghế dài, mình mặc chiếc áo ngủ Ba Tư bằng tacmalam kim tuyến, Tsitsikôp đang mặc cả với một tay buôn lậu ghé qua tỉnh, vốn dòng dõi Do Thái, nói lơ lớ giọng Đức. Tsitsikôp đã mua được một súc vải Hà Lan mịn để may sơ mi và hai hộp xà phòng thượng hảo hạng, thứ xà phòng mà sở thuế quan Rađizivilôp {Thị trấn nhỏ ở miền Vôlưni, hồi ấy là một thị trấn quan ải ở giữa nước Nga và nước Áo} ngày trước vẫn cung cấp, có cái đặc tính huyền diệu làm cho da dẻ mịn màng và trắng trẻo lạ lùng. Trong khi Tsitsikôp đang ra tay sành sỏi mua những thứ hàng cần thiết cho mọi người thượng lưu đó, thì có tiếng bánh xe lăn khẽ rung các cửa kính, và Alexêi Ivannôvits Lênitxưn Đại nhân bước vào.
- Quan lớn thấy tấm vải, mấy bánh xà phòng và những hàng vặt này thế nào? Tôi vừa mua hôm qua đấy.
Nói xong, Tsitsikôp đội lên đầu một chiếc mũ chụp thêu kim tuyến và đính ngọc trai giả, trông uy nghi như một vị quốc vương Ba Tư.
Nhưng Quan lớn không trả lời câu hỏi của Tsitsikôp mà lại nói, vẻ ưu tư: - Tôi có chuyện cần nói với ông.
Người lái buôn nói giọng Đức lập tức được mời ra ngoài; hai người ngồi lại với nhau.
- Gặp rắc rối rồi đấy! Người ta vừa phát hiện ra một chúc thư khác của mụ già, lập cách đây năm năm, để lại một nửa điền trang cho một tu viện; nửa còn lại thì chia cho hai đứa con nuôi, và trước sau chỉ có thế!
Tsitsikôp luống cuống…
- Nhưng tờ chúc thư không đáng kể. Nó không có giá trị gì hết: nó bị tờ thứ hai hủy bỏ; y nói thế.
- Việc hủy bỏ này không thấy nói đến trong chúc thư thứ hai.
- Nhưng hiển nhiên là như thế rồi, còn phải nói gì nữa. Tôi biết rất rõ ý nguyện của người quá cố: lúc ấy tôi ở cạnh bà ta; tờ chúc thư thứ nhất không có hiệu lực. Ai ký? Ai làm chứng?
- Tờ chúc thư này được nhận thực rất hợp thức và có chữ ký của hai nhân chứng: Khavanôp và Burmilôp, nguyên thẩm phán Tòa án Lương tâm {Theo sổ tay của Gôgôn thì đó là một tòa án độc lập không thuộc quyền tỉnh trưởng, mà các thẩm phán lấy lương tâm xét xử chung thẩm, không có thủ tục khống tố, những vụ mà luật pháp được khinh giảm, như những vụ mà can phạm là vị thành niên, người điên}.
“Rầy thật! Tsitsikôp nghĩ thầm. Khavanôp xưa nay vẫn có tiếng là người trung thực; Burmilôp là một lão già mê tín mà những ngày lễ người ta vẫn giao cho đọc Thư Sứ đồ {Theo phong tục Nga, vào ngày chủ nhật và ngày lễ, nhà thờ thường mời những người tai mắt trong xứ đọc to thiên Thư Sứ đồ Kinh Thánh}” - Thật là vô lý! Hắn nói to lên, tự vũ trang bằng một quyết tâm không gì lay chuyển nổi. Tôi là người biết rõ việc này hơn ai hết: tôi đã chứng kiến phút lâm chung của người quá cố. Tôi sẵn sàng lấy tư cách nhân chứng mà tuyên thệ trước tòa.
Những lời lẽ quả quyết này làm cho Lênitxưn yên tâm trong chốc lát. Ông ta tự trách mình là trong khi bối rối, đã ngờ cho Tsitsikôp viết ra tờ chúc thư nọ. Y đã vội vàng thề thốt như vậy thì hiển nhiên là không phải. Chúng ta không biết liệu Paven Ivannôvits có cả gan tuyên thệ trước Kinh Phúc âm không; dù sao y cũng đã đủ can đảm nói như vậy.
- Ông cứ yên tâm: tôi sẽ đem việc này nói với mấy vị cố vấn pháp luật, còn ông thì xin đừng làm gì cả, phải tuyệt đối đứng hẳn ra ngoài. Tôi muốn ở lại trong thành phố này bao nhiêu lâu là tùy tôi.
Tsitsikôp lập tức sai thắng ngựa và lên xe đến nhà một cố vấn pháp luật nổi tiếng là có kinh nghiệm trong việc tố tụng. Tuy đã bị cáo từ mười lăm năm nay, hắn đã xoay sở tài tình đến nỗi người ta không thể nào tước quyền làm luật sư của hắn được. Mọi người đều biết rõ rằng cứ những công trạng của hắn, lẽ ra hắn phải bị đày biệt xứ sáu lần rồi. Đâu đâu người ta cũng nghi hắn. Nhưng không ai đưa ra được những bằng chứng buộc tội hắn cả. Hẳn là bên trong phải có một uẩn khúc gì đây; và giả sử cái chuyện của chúng ta diễn ra ở thời gian ngu muội, chắc chắn người ta sẽ cho hắn là một tay phù thủy. Vẻ lạnh lùng của viên luật sư, chiếc áo ngủ cáu bẩn của hắn tương phản gay gắt với những bộ bàn ghế rất đẹp bằng gỗ đào hoa tâm, với chiếc đồng hồ quả lắc mạ vàng đậy trong cái lồng kính, với bộ đèn treo bằng pha lê mà người ta có thể trông thấy qua cái chụp bằng sa; nói chung là với mọi vật ở xung quanh đều mang dấu vết rõ rệt của nền văn hóa Âu châu.
Sự tương phản đó khiến Tsitsikôp kinh ngạc; nhưng y không để ý lâu và liền giãi bày những điểm gay go của vụ này; lại dùng những lời lẽ rất bùi tai để tả lòng biết ơn, nhất định sẽ hậu tạ những lời khuyên khôn ngoan và công lao của luật sư.
Đáp lại, vị luật gia tả cái tính phù du bất ổn của mọi sự ở thế gian này, và khéo léo ngụ ý cho khách hiểu rằng tiền có trao thì cháo mới múc.
Dù muốn, dù không cũng đành phải nhờ đến sức thuyết phục của kim tiền. Vẻ lãnh đạm hoài nghi của nhà hiền triết biến ngay tức thì. Hắn tỏ ra một người rất tốt, nói chuyện rất có duyên và trong lĩnh vực xã giao cũng chẳng thua kém gì ngay cả Tsitsikôp nữa.
- Ta không nên làm cho sự việc phức tạp thêm làm gì, tôi chỉ xin phép nói với ông rằng chắn hẳn ông chưa xem kỹ tờ chúc thư; tất nhiên nó phải có một điều khoản bổ chính về sau. Ông hãy lấy chúc thư ấy đem về nhà ít lâu. Tuy đó là một việc cấm, nhưng nếu thỉnh cầu cho đúng cách một vài quan chức nào đấy… Về phía tôi, tôi sẽ can thiệp.
“Mình hiểu rồi”, Tsitsikôp nghĩ thầm rồi nói: - Thật ra, tôi cũng không nhớ rõ là có điều bổ chính hay không. Y làm như thể tờ chúc thư không phải do chính tay y viết ra ấy!
- Ông cứ xem xét cho kỹ thì hơn. Vả lại - viên luật sư nói tiếp với một giọng đầy thiện ý bao dung, - ông đừng mất bình tĩnh, dù có xảy ra việc gì rầy rà cũng vậy. Ông đừng bao giờ tuyệt vọng. Không có gì là không thể cứu vãn được cả. Ông nhìn tôi đây mà xem. Tôi bao giờ cũng điềm tĩnh. Dù người ta có sinh sự kiện cáo tôi thế nào, sự điềm tĩnh của tôi vẫn không thể nào lay chuyển nổi.
Quả nhiên, gương mặt của nhà cố vấn pháp luật hiền triết phản ánh một sự điềm tĩnh lạ lùng, khiến cho Tsitsikôp thấy yên tâm.
- Dĩ nhiên, điều đó tối quan trọng, y nói; tuy vậy ông cũng nhận cho rằng có thể có những trường hợp những lời vu cáo của kẻ thù, những cảnh ngộ khó khăn có thể làm cho người ta mất hết bình tĩnh.
- Xin ông tin cho rằng như thế là hèn nhát, nhà pháp luật trả lời rất ôn tồn. Ông phải làm sao cho vụ này được thẩm v?