← Quay lại trang sách

Những quả táo Antonov (4) - I -

Tôi hồi tưởng lại một mùa thu sớm, đẹp trời, trong tháng tám đã có những trận mưa nhỏ ấm áp và những trận mưa này dường như cố tình rơi xuống cho dân cày cấy, rơi xuống đúng lúc, vào giữa tháng, khi sắp sửa có ngày lễ thánh Lavrenti (5). Mà “vào dịp lễ thánh Lavrenti nếu con nước êm và mưa nhỏ, thì mùa thu và mùa đông sẽ tốt trời”. Thế rồi dạo đầu thu lại có những ngày sáng sủa và ấm áp, có nhiều mạng nhện chăng trên cánh đồng. Đó cũng là điều lành: “Những ngày sáng sủa ấm áp đầu thu nếu nhiều nhện chăng tơ, thì mùa thu sẽ đẹp”... Tôi nhớ lại một buổi sớm sủa, tươi mát, yên tĩnh... Tôi nhớ một khu vườn lớn đã khô và thưa lá, toàn bộ màu vàng óng; nhớ những lối đi giữa hai hàng cây phong, mùi thơm nhẹ nhàng của lá rụng và cả mùi táo Antonov, mùi mật ong và mùi của tiết thu tươi mát. Không khí trong trẻo đến nỗi hệt như hoàn toàn không có nó nữa, khắp khu vườn âm vang tiếng người nói, tiếng xe ngựa tải kẽo kẹt. Ấy là những nhà tiểu thương, những thị dân trồng vườn đã thuê được những người nông dân trẩy táo xuống để đến đêm đưa về tỉnh, - và nhất định là phải đi vào ban đêm kia, bởi vì lúc bấy giờ, nằm trên xe, nhìn lên bầu trời đầy sao, nghe phảng phất mùi nhựa chưng trong không khí tươi mát và nghe cả một đoàn xe dài thận trọng kẽo kẹt trên con đường lớn trập trùng, thì thật tuyệt vời. Bác nông dân được giao việc đổ táo, cứ cắn rau ráu hết quả này đến quả khác, nhưng tục lệ xưa nay vẫn vậy, nên người thị dân chẳng hề ngăn lại, mà còn bảo:

- Đổ xuống, ăn cho no đi, không có việc gì làm nữa đâu! Đổ xong, mọi người sẽ uống mật ong.

Và bầu tĩnh mịch mát mẻ của ban mai chỉ bị náo động bởi tiếng hót no mồi của đàn sáo đậu trên cây thanh lương trà màu san hô trong khoảng rậm của khu vườn, bởi tiếng người nói và tiếng táo đổ rào rào vào những thưng, những thùng gỗ. Trong khu vườn thưa lá, có thể nhìn thấy con đường trải ra xa dẫn tới một mái nhà tranh rộng rãi, và nhìn thấy được cả ngôi nhà ấy, mà quanh đó trong vụ hè qua các thị dân đã gây nên cả một cơ ngơi. Đâu đâu cũng thơm phức mùi táo, ở đây lại càng như vậy. Trong căn nhà tranh có bố trí nhiều chỗ nằm, có một khẩu súng một nòng, một chiếc xamovar đã mốc xanh, còn bát đĩa đặt ở góc nhà. Bên cạnh nhà lăn lóc những chiếc chiếu gai, những hòm gỗ, những đồ đạc linh tinh đã cũ nát, và có một chỗ để đun bếp. Ở đây buổi trưa người ta nấu món cháo mỡ cực ngon, buổi chiều thì đun xamovar và một làn khói xanh lơ thường trải thành một vệt dài giữa những hàng cây trong toàn bộ khu vườn. Còn vào những ngày lễ tết thì bên cạnh mái nhà tranh này là cả một phiên hội chợ, và đằng sau những đám cây cối chốc chốc lại thấy thấp thoáng cả những trang phục màu đỏ. Những cô gái thuộc các hộ tiểu nông vẻ hoạt bát, mặc những tấm xiêm cụt tay nức mùi thuốc nhuộm đã tụ tập lại. Đã có mặt cả những người “quý tộc” trong các bộ quần áo tuy đẹp mà thô lậu và mông muội của họ, có mặt cả một bà lý trưởng trẻ măng, đang có chửa, mặt phèn phẹt, bơ phờ và bộ điệu quan trọng như một con bò cái vùng đồi núi. Đầu bà ta cũng có “sừng” - những búi tóc kết ở hai bên đỉnh đầu, bên trên lại trùm thêm mấy lớp khăn, thành thử đầu bà ta trông to tướng; đôi chân đi ủng ngắn có đóng cá sắt, đứng trên mặt đất có vẻ thộn nhưng vững chãi; chiếc áo gilê của bà ta bằng vải mịn, có vạt che dài, còn chiếc váy bằng len tự dệt thì màu hoa cà sẫm có sọc màu gạch, gấu váy đính một “vành đăng ten” rộng thêu kim tuyến...

- Một con bươm bướm (6) đảm đang! - người thị dân lắc đầu, bình phẩm về bà ta. - Bây giờ lại sinh ra những hạng người như thế đấy...

Trong khi đó những thằng bé con mặc những chiếc áo sơ mi kiểu cách và những chiếc quần ngắn cũn cỡn, đầu để trần, trắng hếu, xuất hiện mỗi lúc một nhiều. Chúng đi từng nhóm hai, ba đứa một, những bàn chân không giày dép bước lon xon, và đứa nào cũng đến sờ vào con chó becgiê lông xù buộc vào một cây táo. Dĩ nhiên là chỉ có một đứa mua hàng thôi, bởi việc mua bán của chúng chỉ vẻn vẹn là một kôpêch hoặc là một quả trứng, nhưng những người mua bán khác thì lại nhiều, việc buôn bán diễn ra nhộn nhịp, khiến cho một thị dân dáng như mắc bệnh ho lao, mặc chiếc áo kín cổ dài lụng thụng, đi đôi ủng hung hung đỏ, đã lộ vẻ vui mừng. Cùng thằng em trai, - một đứa dở ngu dở đần, nói ngọng nhưng lanh lẹn, mà ông ta nuôi “vì lòng nhân từ", - ông ta buôn bán với những lời đùa cợt, bông lơn, thậm chí đôi lúc còn “rờ tới” cả chiếc đàn gió sản xuất ở Tula (7). Và người ta họp chợ trong khu vườn ấy cho tới tận chiều tối, bên ngôi nhà tranh vang lên tiếng cười, nói, thỉnh thoảng lại có cả tiếng nhảy múa rậm rịch...

Về đêm tiết trời rất lạnh và sương xuống nhiều. Sau khi đã tha hồ hít thở mùi lúa thơm ngát toả ra từ những đống rơm mới và những đống thóc lép trên sân phơi, ta sẽ sảng khoái đi bên cạnh bờ đất chung quanh vườn để về nhà ăn bữa tối. Vào lúc hoàng hôn giá buốt, tiếng người nói trong thôn xóm hay tiếng cửa cọt kẹt nghe sao rõ lạ thường. Trời tối dần. Và lại có hương vị mới xuất hiện: trong vườn có đống lửa nhen lên, thế là mùi khói thơm nức của những cành anh đào toả ra nồng nặc. Trong bóng tối ở cuối khu vườn là một cảnh huyền diệu: giống như dưới âm ti địa ngục, bên cạnh ngôi nhà tranh bừng bừng một ngọn lửa đỏ ối giữa tăm tối trập trùng, và có những hình dạng đen thui của ai đó, hệt như được tạc ra từ một loại gỗ đen kịt, đang xoay vòng quanh đống lửa, còn những bóng khổng lồ của họ thì lại lấp loáng trên những cây táo. Trên toàn bộ một cây táo, lúc thì hiện ra một cánh tay đen to tới vài arsin (8), lúc thì lại nổi rõ lên đôi chân như hai chiếc cột nhà đen ngòm...

Rồi bỗng nhiên tất cả biến mất khỏi cây táo và một bóng đen trải dài trên suốt lối đi, từ ngôi nhà tranh ra mãi đến tận cổng...

Đêm khuya, khi thôn xóm đã tắt hết đèn lửa, khi trên trời cao đã long lanh bảy ngôi sao trong chòm Đại Hùng Tinh sáng như những viên kim cương, ta lại chạy ra vườn chơi. Giẫm trên lớp lá khô sột soạt, ta lần mò tới tận túp nhà tranh như một anh mù. Ở đó là khoảng rừng thưa nên trời có sáng lên đôi chút và trên đầu ta trắng xoá dải Ngân Hà.

- Cậu đấy ư, cậu? - có ai đó từ trong bóng tối khẽ gọi ra.

- Tôi đây. Thế bác vẫn chưa ngủ à, bác Nikolai?

- Lão không sao ngủ được. Chắc là khuya lắm rồi đấy nhỉ? Kìa, hình như chuyến tàu khách đã đến...

Chúng tôi lắng nghe hồi lâu và đã nhận ra mặt đất đang rung chuyển lên nhè nhẹ. Sự rung chuyển dần thành tiếng động, lớn dần lên và rồi nhịp bánh xe quay ầm ầm đổ đến mỗi lúc một nhanh, nghe như ngay sau vườn, đoàn tàu phóng đến rầm rầm, xình xịch... mỗi lúc một gần, gần hơn và mỗi lúc một ồn ã, giận dữ hơn... Rồi tất cả bỗng lắng dần, im bặt đi, hệt như chui tọt cả xuống đất..

- Thế khẩu súng của bác đâu rồi, bác Nikolai?

- Ở ngay cạnh hòm gỗ kia ạ.

Tôi bèn giương khẩu súng một nòng nặng như chiếc xà beng, chĩa lên trời, bắn ngay một phát. Cùng với tiếng nổ đinh tai, một ngọn lửa đỏ ối phụt lên trời, làm lóa mắt ta trong giây lát và xóa nhoà những ngôi sao, còn dư âm hùng dũng của nó thì vang rền vòng quanh ta, lan theo đường chân trời, rồi lắng dần ở xa xa trong bầu không khí trong sạch và thính nhạy.

- Ái chà, cừ đấy! - người thị dân sẽ nói. - Cứ bắn đi, cứ bắn đi, cậu ạ, kẻo không thì tai họa đấy chứ chả chơi đâu! Toàn bộ cây lê trên bờ đất đã lại bị chúng nó rung lấy hết quả rồi...

Trong khi đó, những vì sao đổi ngôi rạch bầu trời đen bằng những vệt lửa. Và ta nhìn mãi vào cái khoảng sâu xanh thẳm của bầu trời đầy những chòm sao, kỳ cho tới khi chóng mặt mới thôi. Lúc bấy giờ ta mới thấy rùng mình, đút vội tay vào những ống tay áo, chạy nhanh theo con đường giữa những hàng cây mà trở về nhà... Sao lạnh và nhiều sương đêm đến thế, và sống ở trên đời sung sướng biết bao!