← Quay lại trang sách

- IV -

Trong trang trại của các điền chủ nay đã không còn mùi thơm của táo Antonov nữa rồi. Những ngày ấy mới chỉ cách đây không lâu, mà sao tôi tưởng chừng như từ bấy đến nay hầu như đã qua cả một thế kỷ. Các cụ già ở Vưxenki đã chết cả rồi, dì Anna Gheraximovna đã qua đời, Akxeni Xemenưts đã tự sát bằng súng ngắn... Giờ đây là vương quốc của những người có ít đất đai, nghèo đi đến cùng cực!... Nhưng ngay cả cái cuộc sống ít đất đai, nghèo khó ấy cũng vẫn đẹp!

Này đây, tôi lại thấy mình trở lại thôn quê vào độ cuối thu. Đó là những ngày xanh xao, u ám. Sáng ra tôi ngồi lên yên rồi đi ra cánh đồng với một con chó với khẩu súng và chiếc tù và. Gió reo vang và vi vút nơi miệng súng, gió phần phật thổi ngược chiều, đôi khi cuốn theo cả tuyết khô. Tôi lang thang trên những đồng bằng vắng vẻ cả một ngày trời... Bụng đói cật rét, sẩm chiều tôi trở lại điền trang, và trong lòng sao bỗng ấm áp và hân hoan khi thấy Vưxenki đã thấp thoáng ánh lửa và từ điền trang đã thấy toả ra mùi khói, mùi gia cư. Tôi còn nhớ trong nhà tôi vào lúc đó mọi người thường thích “nói mò”, không thắp đèn lên mà cứ nói chuyện với nhau trong cảnh chạng vạng. Vào nhà, tôi thấy cửa rả đã được đóng thêm khung nẹp mùa đông cả rồi, và điều đó lại càng khiến cho tôi thêm yên trí với cảnh mùa đông. Trong buồng của những người hầu hạ, một bác người làm đang ngồi đốt lò, và, như thời thơ ấu, tôi ngồi xổm xuống cạnh đống rơm giờ đây đã ngát toả mùi tươi mát của ngày đông, lúc thì nhìn vào bếp lò rực cháy, lúc thì nhìn ra những khung cửa sổ mà ngoài trời đã xanh lên với cảnh hoàng hôn buồn đang lịm tắt. Rồi tôi sang buồng của những kẻ ăn người làm. Ở đó sáng đèn và đông người: các cô gái đang băm bắp cải, những lưỡi dao phay loang loáng, tôi nghe tiếng dao lách cách đều đều, nhịp nhàng, cùng với những bài hát nông thôn trầm bổng, vừa vui lại vừa buồn... Đôi khi cũng có ông điền chủ nhỏ láng giềng nào đó ghé thăm và chở tôi về nhà ông ta ở chơi lâu lâu... Cuộc sống ít đất cũng vẫn cứ đẹp!

Vị điền chủ nhỏ ấy dậy sớm. Vươn mạnh người, ông ta cất mình khỏi giường rồi cuốn một điếu thuốc to bằng thứ thuốc lá đen rẻ tiền hoặc có khi chỉ bằng thuốc lá vườn nhà. Ánh sáng nhợt nhạt của một buổi sáng tháng mười một sớm sủa rọi vào một thư phòng đơn sơ với những bức tường trần trụi, rọi vào những tấm da cáo thô kệch, vàng vọt treo bên trên giường và rọi vào một thân hình vạm vỡ với chiếc quần rộng ống và chiếc áo cổ chéo buông lơi, trong khi đó tấm gương phản ánh một gương mặt ngái ngủ có dáng dấp người Tatar (28). Căn nhà ấm áp, tranh tối tranh sáng, im lặng như tờ. Ngoài cửa, ở hành lang đang khò khè ngáy một bà già nấu bếp đã từng sống trong căn nhà của những kẻ ăn người làm từ hồi còn là một cô bé con. Thế nhưng điều đó vẫn không ngăn cản ông chủ quý tộc hét váng nhà bằng một giọng khàn:

- Bà Lukeria! Cho ta xamovar!

Đoạn ông ta đi ủng, khoác lên vai chiếc áo bành tô chẽn thân và chẳng buồn cài cúc áo sơ mi, bước ra bậc thềm cửa. Nơi buồng ngoài, cửa còn đóng và có mùi của bầy chó săn: chúng uể oải vươn mình, rít lên mà ngáp, đoạn niềm nở ra quây lấy ông chủ.

- Xê ra! - ông chậm rãi nói bằng một giọng trầm khoan dung, đoạn qua vườn mà đi ra sân phơi lúa. Ngực ông nở ra để hít thở làn không khí gay gắt của bình minh và mùi vị của khu vườn trần trụi, rét mướt trong đêm. Những chiếc lá quăn lại và thâm sì vì giá rét đang sột soạt dưới những gót ủng nện trên lối đi giữa hai hàng bạch dương đã bị phạt ngang một nửa. Trên nóc lán chứa lúa, những con quạ xù lông ngủ đang hiện rõ nét trên nền trời thấp và mờ tối... Ngày hôm nay đi săn thì thật tuyệt vời! Rồi, dừng bước giữa lối đi ông chủ quý tộc đưa mắt nhìn hồi lâu ra cánh đồng mùa thu, ra những vạt lúa thu non mướt xanh và hiu quạnh, chỉ còn có những con bê đang thả bước nhởn nhơ. Hai con chó cái đang rít lên dưới chân ông, còn con Dalivai thì đã ra khỏi vườn: nó nhảy qua chồm lại trên những gốc rạ lởm chởm, như mời chào, như đòi được băng ra cánh đồng. Nhưng làm gì được với loại chó săn này bây giờ? Con thú giờ đây đang ở ngoài đồng, ở những luống cây vỡ, ở lối đi giữa hai bờ tuyết phủ, chứ còn ở trong rừng thì nó sợ, bởi vì trong rừng gió thổi lá cây kêu xào xạc... Ôi, giá như có được loại chó borzoi!

Trong lán chứa lúa người ta bắt đầu đập lúa. Cái thùng của máy tuốt lúa từ từ quay, kêu lên kèn kẹt. Những con ngựa kéo máy loạng choạng bước đi, dấn vó trên đường vòng đầy phân, uể oải kéo căng những chiếc dây truyền. Ngồi chính giữa, xoay tròn trên chiếc ghế băng nhỏ, người ruổi ngựa đều giọng thét lác lũ ngựa và lúc nào cũng chỉ chăm chăm lấy roi quất vào một con ngựa đực màu nâu lười lĩnh hơn cả và đúng là vừa đi vừa ngủ, bởi lẽ mắt nó đã bị bịt kín mất rồi.

- Nào, nào, các cô gái, các cô gái! - một bác chuyên trách việc đưa lúa vào máy, đã đứng tuổi, mặc chiếc áo sơ mi bằng vải gai rộng thùng thình, thét lên nghiêm khắc.

Các cô gái vội vàng đi quét sân đập lúa, mang cáng, cầm chổi chạy đi.

- Lạy Chúa! - bác chuyên trách tuốt lúa nói, đoạn người ta thấy bó rơm đầu tiên được đưa vào máy để thử đã rít lên, rào rào bay vào thùng máy rồi từ trong thùng máy nhô lên, xòe ra như một cái quạt. Còn thùng máy cứ rú lên mỗi lúc một da diết hơn, công việc sôi nổi dần lên, và chẳng mấy chốc các thứ âm thanh hoà thành một tiếng ầm ầm chung của việc đập lúa nghe rất dễ chịu. Ông chủ đứng ở cổng lán nhìn vào thấy trong bóng tối thấp thoáng những chiếc khăn trùm màu đỏ và vàng, thấp thoáng những bàn tay, những chiếc bừa cào, những rơm rạ, và tất cả những cái đó chuyển động đều đặn, tíu tít lên trong tiếng quay ầm ầm của thùng máy, trong tiếng thét độc điệu và tiếng huýt gió của bác chuyên trách tuốt lúa. Bổi lúa bay từng đám từng đám ra cổng. Ông chủ đứng đó, toàn thân sạm đi vì bổi lúa. Ông luôn đưa mắt nhìn ra cánh đồng... Các cánh đồng sắp trắng xoá đến nơi rồi, chẳng bao lâu nữa chúng sẽ chìm ngập trong trận tuyết đầu mùa...

Cơn rét đầu mùa, trận tuyết đầu mùa! Chó borzoi không có, chẳng đi săn bằng cái gì được trong cái tháng mười một này. Nhưng mùa đông đã đến, đành bắt đầu “công việc” với những con chó săn thường vậy. Thế là, lại như những thời buổi trước đây, các vị điền chủ nhỏ lại cưỡi ngựa đến thăm nhau, tiền còn bao nhiêu đem ra uống hết, hôm nào cũng biệt tăm biệt tích suốt ngày trong những cánh đồng tuyết phủ. Còn chiều đến, ở một thôn xóm hẻo lánh nào đó, từ xa người ta đã thấy những ô cửa sổ chái bên của ngôi nhà đã loé sáng lên trong đêm đông tăm tối. Ở đó, trong cái chái của ngôi nhà nhỏ bé ấy, người ta thấy những làn khói tròn bay chơi vơi, những cây nến mỡ lợn cháy lờ mờ, một cây đàn ghita đang được lên dây...

Hoàng hôn xuống, gió chiều lộng thổi

Cánh cổng kia ta mở toang hoang, -

Một giọng nam cao cất lên từ lồng ngực của ai đó. Và những người khác rời rạc, làm ra vẻ đùa cợt bắt giọng hát theo với điệu ngang tàng ủ dột và tuyệt vọng:

Cánh cổng ta mở toang hoang

Để cho tuyết trắng phủ đường ta đi...