← Quay lại trang sách

Cỏ gầy - I & II - Cỏ gầy thì bay khỏi bãi -(Phương ngôn)-

Bác Averki nằm liệt giường sau khi đã được ăn mặn vào đúng ngày lễ thánh Piotr.

Các tay thợ trẻ đã tắm rửa bằng xà phòng, chải đầu, đi ủng, mặc sơ mi bằng vải hoa mới. Còn bác Averki thì cảm thấy trong mình yếu nhược và dửng dưng, do đó trước ngày lễ bác cũng chẳng bước ra đến ngoài sân, chẳng thay áo sơ mi nữa: còn quần áo mặc ngoài bác chỉ có nhất bộ, cho cả ngày lễ tết cũng như ngày dưng. Các tay thợ trẻ thả sức ăn và suốt bữa ăn cứ cười lên hô hố, nói những chuyện mà cô làm bếp phải giả bộ phẫn nộ quay mặt đi, thậm chí có lúc phải bỏ chiếc thìa đang ăn dở và bỏ cả bàn ăn mà đi ra. Còn bác Averki thì cứ lặng lẽ ăn.

Bác đã ở vào cái thời mà những người nông dân tốt bụng, hiền lành, sau khi đã làm lụng nhiều (chính bác cũng đã làm lụng như thế, cứ cố nông suốt tới ba chục năm) đã bắt đầu nặng tai, ít nói, và ai bảo sao cũng bào hao làm vậy, mặc dù trong bụng lại nghĩ khác, có ý kiến riêng của mình. Bác đã ở vào cái tuổi của người nông dân mà người ta không sao xác định ngay được. Người bác to cao và cục mịch: rất khẳng khiu, tay dài, khung xương nói chung to, nhưng đôi vai thì lại hẹp, vì chúng xuôi xuống và trông bề ngoài có vẻ yếu ớt. Và cái vẻ cục mịch nơi đồng ruộng ấy, cùng với đôi giày bện và chiếc áo lông cộc mà bác thường xuyên khoác trên mình, lại được kết hợp một cách kỳ dị với cái vẻ đáng mến của bác: đầu bác không to, đã bắt đầu hói ở đằng trán, mớ tóc dài nhưng thưa, bộ mặt bác phờ phạc, mũi thanh, xương xương, đôi mắt xanh lơ, trơn ướt, bộ râu đang ngả bạc và nhỏ nhắn của bác không che nổi chiếc quai hàm gầy guộc.

Tất cả những gì người ta chế nhạo trong bữa ăn, bác đều thấy là không cần thiết, không có gì đáng buồn cười cả. Nhưng nét mặt bác không hề tỏ ra khó chịu. Bác ăn từ tốn, luôn đặt thìa xuống: từ nhỏ bác đã quen coi việc ăn uống như một lễ cầu nguyện, bởi lẽ cả đời bác bữa ăn được coi như đỉnh cao nhất của một ngày lao động và nó thường đến với bác giữa những mối lo âu bất tận cho ngày mai, mặc dù suốt đời bác vẫn nói một câu quen thuộc:

- Trời sinh voi, trời sinh cỏ...

Những ý nghĩ của bác rối rắm. Dưới làn da mỏng mà xám, đôi lưỡng quyền của bác đã hồng hào lên. Bụng bác chẳng muốn ăn. Nhưng bác vẫn ăn một cách chăm chú, bởi vì đã lễ tết là phải ăn uống, và bởi theo bác nghĩ thì ăn uống có thể giúp ích cho bác, và còn bởi lẽ nữa là nếu không ăn thì cũng tiếc: bác đã ốm mất rồi, hẳn là bác phải rời khỏi nơi đây, về nhà thì bánh mì có khi cũng chẳng có, nói gì đến món ăn ngọt.

Người ta mang đến bàn ăn một chiếc đĩa gỗ đựng món thịt cừu nhiều mỡ và nấu rất mặn. Bác Averki sực nhớ lại là hồi nào đấy bác đã từng đi ở cho người ta trong thành phố vào mùa đông. Suy nghĩ một lát, bác thò những ngón tay mảnh khảnh của mình thận trọng nhón lấy một miếng và cười khẩy, mặt tái đi.

- Mình thích ăn mù tạc mà chẳng biết lấy ở đâu? - bác rụt rè nói, chẳng nhìn vào ai.

Ăn xong thịt cừu, bác cảm thấy khó chịu: nhưng bác vẫn ráng rốn ngồi cho tới cuối bữa. Đến tận lúc mà những người thợ trẻ, - sau khi đã nốc cạn sạch bát sữa màu xanh lơ to kếch xù và nấc lên với vẻ thoả mãn, - bắt đầu đứng dậy, châm thuốc hút, khiến mùi thức ăn thức uống và mùi bánh mì tinh bột vừa nướng xong pha lẫn với mùi thuốc lá vườn, thì bác Averki mới thận trọng đội cái mũ to tướng của mình lên đầu, - dưới đáy cái mũ bằng sợi gai ấy bao giờ cũng có một mũi kim có quấn chỉ, - đoạn bác bước ra ngưỡng cửa buồng ngoài, đứng một lát giữa bầy chó đói đang hau háu nhìn thẳng vào mặt bác vì chúng biết chắc rằng bác đang buồn nôn. Thời tiết đang xấu đi. Trời tối mịt, hệt như lúc chiều tà của ngày thường; một cơn mưa nhỏ rơi lộp độp trên một tờ báo lăn lóc ngoài bậc thềm của ngôi nhà chủ quý tộc; những con gà mái tây, đuôi ướt lướt thướt, đậu lên bờ giậu đổ nát, còn những chú gà con, tuy bị những con gà mái tây bực tức mổ tới tấp, vẫn cứ leo lên, chui vào nấp dưới cánh chúng... Những món ăn ngọt! Bác Averki hiểu giá trị của chúng. Những nỗi gian lao cuối cùng trước khi chết đã đến với bác, nhưng dù sao bác cũng vẫn cố không để mất những món ăn ngọt ấy khi bác lê bước tới căn nhà gỗ này.

II

Bác quay trở lại, người tái đi, chân run lên, và bác xin cô làm bếp cho bác được nằm lên bệ lò.

Cô ta dửng dưng hỏi:

- Lại ốm rồi hả?

- Tôi đã phục vụ ba chục năm trời, - cũng hòa theo giọng ấy, bác vừa đáp lại, vừa leo lên tấm phản, đặt đôi giày bện vào chiếc bếp than nhỏ, rồi len vào khoảng trống chật hẹp, nóng ấm giữa bếp lò với trần nhà, - tôi đã phục vụ ba chục năm trời với lương tâm trong sạch, nhưng đến nay thì hết rồi, yếu rồi... Chẳng đóng móng sắt nổi cho một con rận nữa, -bác nói đùa. - Mòn gỉ rồi, bắt đầu thở chẳng ra hơi, - bác nói với giọng càng chắc chắn hơn, thậm chí có vẻ hài lòng nữa, rồi nằm xuống.

Và vừa đặt mình xuống xong, sau khi đã gối đầu để nguyên cả mũ cho êm lên một bó dây bện đã cũ nát, bác lập tức lim dim ngủ và nghe thấy cả hơi thở sâu và đứt đoạn đều đều của mình, cảm thấy hơi thở ấy nong nóng ở trên môi. Bác đã đinh ninh rằng mình sẽ không ốm liệt giường liệt chiếu, rằng mình là một con “gà trống nuôi rẽ”. Từ lâu bác đã cố gắng để lấn lướt tật bệnh. Những con chó ốm thường bỏ nhà, ra bờ ruộng, bìa rừng, tìm một loại cỏ mảnh mai nào đó mà chỉ mình chúng biết, để mà ăn và bí mật tự tìm cách chữa chạy cho mình. Tách ra khỏi đám người ăn kẻ ở trong nhà, bác Averki cũng tìm tòi, cũng bí mật mua nào rượu vodka, nào nước xôđa... Giờ đây bác đã không còn hơi sức đâu để có gắng lướt qua bệnh tật được nữa. Song, dù sao bác vẫn cứ phải suy nghĩ: chỗ làm việc ra sao đây, có nên về hay không? Nếu mau mau chóng chóng mà chết, thì dĩ nhiên chẳng có gì phải suy nghĩ nữa rồi. Thế nhưng ngộ nhỡ chưa chết ngay thì sao?

Đám thợ trẻ hút thuốc và cười rộ. Trong khi để tai nghe và suy nghĩ, bác bắt đầu nằm mơ. Nhưng những giấc mơ của bác toàn những ký ức u buồn và tẻ ngán. Này kìa, hình như bác ra khỏi căn nhà gỗ - bác phải đi ngựa ra kho chứa lúa để lấy bổi lúa... Vậy mà lại có một người hành khất bước vào sân và đứng dừng lại khi thấy đàn chó xồ ra, đầu người đó cuốn chiếc khăn san đàn bà, tay trái cầm làn, tay phải chống một cái gậy dài, đôi chân gầy guộc dận đôi giày bện rách nát... “Nếu trời cho ta được bình phục, ta sẽ đi Kiev, đi Zadonxk, đi Optina, - bác Averki nghĩ vậy trong lúc mơ màng. - Đấy là công việc chân chính, thanh tịnh, nhẹ nhàng, nếu không làm được thì sẽ chẳng hiểu ta sống trên đời để làm gì...”.

Nhưng rồi đám thợ trẻ lại nhất loạt cười ầm ĩ cả lên, họ phun khói thuốc lá mù mịt khắp gian nhà. Bác Averki bừng tỉnh. Cửa xịch mở, có ai bước vào.

- Lại no bụng đói con mắt rồi! - cô làm bếp không nhìn vào người mới vào, vừa lau bàn vừa nói vậy. - Lại vác mặt đến... Bố già ơi, bố không còn biết xấu hổ là gì nữa hay sao? - cô ta ngoái lại hỏi. - Bố còn đến làm gì nữa nào! Chưa chán ư?

Nhưng, bố già, - người canh vườn cho một thị dân, một “ông già thích nhảy nhót”, như bác ta thường tự gọi đùa mình, - một người lúc nào cũng say mèm, ăn mặc rách rưới, lúc nào cũng khiến bác Averki khổ sở về cái tính lúi xùi, cái thói ba hoa, tóm lại là về tất cả cái kiểu sống phóng túng, không phải theo lối nông dân của mình, - bố già ấy chẳng chú ý gì đến cô làm bếp cả.

- Các anh ơi,các anh xem xét: có lẽ nào như vậy không cơ chứ? - bác ta nói lải nhải với vẻ tuyệt vọng thật sự, dang hai tay trước mặt những tay thợ trẻ. - Có một mình mà trông coi cả khu vườn bằng nấy! Dù ông ấy có cho đến sáu rúp lão cũng chả lấy đâu! Hôm nay mà ông ấy có đến thì lão cũng bảo thẳng ông ấy rằng: làm cho ông như gông đeo cổ, tôi không làm, tôi bỏ tôi đi! Xin đủ! Đấy, cây chưa nhú quả, lũ trẻ con đã bắt đầu nhòm ngó rồi, đã rung sạch trụi hai cây táo rồi, lão làm gì được? Ông ấy bảo: cốt yếu nhất là anh giữ mấy cây lê... Cơ mà lão có một mình thì làm gì nổi? Ở trên bờ đất, chúng cũng vặt sạch cả anh đào rồi đấy, - thôi thì kệ thây chúng! Lão còn đang ốm đây!

- Ốm nhưng bố còn làm được ối việc! - cô nhà bếp nói.

- Nói sao dễ! - ông già đáp, ngồi lên phản. - Còn cô, cô hãy im miệng đi một chút. Lão còn có bà già ở nhà kia kìa, bà ấy đáng tuổi mẹ cô, mà có dễ đến nửa năm nay lão còn chửa trông thấy mặt... Ờ, quả tình là cả đời cũng chả trông thấy mặt nữa kia, thế thì chả hiểu mình lấy vợ làm gì...

“Ông này cũng khổ chẳng kém gì mình”, - bác Averki nghĩ bụng, nhắm mắt lại và đã không còn có ác cảm với ông già ấy như trước nữa.

- Mà đối với lão có lẽ bà ấy cũng không phải là người dưng nước lã, - ông già nọ nói tiếp với giọng cay đắng thật sự. - Thế cho nên lão mới nói với các anh rằng: lão có thể làm được gì? Bây giờ lão bỏ đi đến đây; nhưng trong túp lều tranh của lão còn có một chiếc áo dạ dùng để làm ăn, đáng giá có đến bảy rúp! Nhưng làm thế nào được? Rồi người ta sẽ lấy đi mất do có lòng tốt đấy thôi! Còn các quý ông thì lão cho phép hái anh đào đấy: các vị có thể hái! Các quý ông ấy có chăng thì cũng chỉ ăn hết vài ba hột, mà đấy lại là người anh em nông dân của chúng ta... Lão nói thế có đúng không thế nhỉ - ông già lại nổi sôi, hét lên. - Cả anh nữa, anh trưởng thôn ạ, anh thì bao giờ lão cũng cho phép bởi vì ở đây có lẽ anh là người đứng đầu, đứng trên mọi người! Duy có một việc anh làm lão bực mình là anh không cho lão một tấm ván để làm giường nằm. Cám ơn, nếu là cậu con nhà quý tộc giúp đỡ thì cũng được, gần đây lão có nhảy múa chút ít cho cậu ta xem, thế là cũng được ngay nửa chai...

Bác Averki lại mơ mơ màng màng... Trời đã về chiều, bác theo sau một chiếc xe bò đi trên cánh đồng. Lất phất mưa. ở trại nuôi gia súc của một nông dân giàu có trên thảo nguyên, cánh cổng mở toang: một con ngỗng đực mất ngỗng cái đang đi lang thang khắp sân kêu quang quác lên... “Người giàu ở đâu cũng sung sướng!” - một cụ già ở đâu phía dưới thốt lên với giọng giận dỗi và đau đớn. Bác Averki gật gù chiếc mũ, tỏ vẻ tán thành, nhưng trong bụng lại nghĩ: “Người giàu như con bò mộng có sừng, cổng mà hẹp là chui chẳng lọt..” Rồi bác lại bừng tỉnh, cảm thấy mình đang nói mê. “Phải rồi, Chúa không ưa những ý nghĩ quá cao siêu đâu... Phải rồi, thương hại thay cái ông già ấy... Thế nhưng cái cảnh khói bay mù mịt với lại những câu chuyện tầm phào, lạ người, lạ bếp này - chao ơi là buồn, là thiếu ấm cúng! Cáo chết ba năm còn quay đầu về núi nữa là... Không, hết rồi, đã đến lúc phải về nhà thôi!”.