← Quay lại trang sách

- IV - -

Ngày hôm sau bác gái đã đến. Bằng đôi bàn tay đen đủi của mình, bác đã trìu mến, chăm chút thu dọn đồ lề của bác trai: chiếc áo dạ mặc ngoài, đôi xà cạp, chiếc thắt lưng đã bạc màu, - rồi đưa bác trai về nhà với gương mặt tai tái và một nụ cười yếu ớt

- Đi thôi, đi thôi, bố nó ạ. Làm lụng thế là đủ rồi. Tôi đã đợi bố nó cả đời người. Vậy mà nay bố nó như thế này đây, chẳng ra hình thù gì cả. Mòn gỉ rồi. Thế nhưng chiếc nhẫn thề dù cũ vẫn cứ đẹp...

Và bác Averki đã luôn mừng vui trong thời gian đầu: thế là bác đã về nhà mình, đã phục vụ mãn hạn rồi! Bác không nằm trong nhà gỗ: từ lâu bác đã có nguyện vọng được nằm tự do tự tại, yên tĩnh, ở nơi không khí trong lành ngoài đồng áng. Bác ra nằm ở cái sân phơi lúa nho nhỏ của nhà mình, ở cái lán chứa lúa cũ kỹ rau lê mọc um tùm bốn phía chung quanh, ở cái xe ngựa tải đã mất hết bánh xe - và qua cánh cổng mở toang, ngày đêm làn gió ẩm từ những vườn rau và những sân phơi thổi về mơn man trên mình bác, những cơn mưa to cũng hắt vào theo chiều gió thổi.

Mọi việc bác đều bàn bạc với bác gái, cả hai bác cũng tiếc cho cô con gái do tình cảnh bần bách đã phải sớm gả đi quê xa cho một hộ khá giả nhưng lại có bệnh phong tình, và hai bác quyết định bắn tin cho cô ấy biết để liệu đường về thăm bố.

Thế nhưng cô con gái đã chẳng về, hẳn là do thời tiết chưa cho phép.

Người ta khốn khổ vì thời tiết.Từ sáng mặt trời chói chang, hầm hập trên những cánh đồng bốc khói, trên những con đường lầy lội, trên những vạt lúa no nước nằm rạp trên mặt đất.Từ sáng thỉnh thoảng bác Averki lại rời bỏ chiếc xe ngựa của mình, lê bước về nhà để hứa hẹn với bác gái rằng thời tiết sẽ tốt lên. Nhưng cứ tới trưa là mây đen lại kéo đến và hình như dưới ánh mặt trời chúng lại càng sẫm hơn, các lớp mây đều đã thay đổi những màu sắc và hình thù khác thường của chúng, gió lạnh nổi lên, rồi làn mưa lấp lánh màu ngũ sắc xiên xiên chạy trên đồng ruộng.

- Sẽ có nhiều tai họa lớn đây, - bà láng giềng trước có đi làm gia nhân, luôn miệng bảo vậy. -Trước kia, cả mây đen cũng khác, toàn như thỏ rừng với lại bụi cây, thế mà bây giờ lại rặt là những đám xù xì...

Song, bác Averld đi ủng dạ, mặc áo lông cộc ngồi cạnh nhà, chỉ nhếch mép mỉm cười: giờ đây bác còn bụng dạ nào nghĩ đến những tai họa trong tương lai!

Bà con xóm giềng đi cày vỡ đến trưa về ai nấy đều ướt át, mỏi mệt và đều than phiền rằng áo dạ mặc ngoài đều hôi rình, và mọi người đều muốn tự cam đoan rằng: nhờ ơn Chúa, biết đâu trời sẽ lại chẳng quang đãng ra. Nhưng, sau bữa trưa, mây đen lại kéo đến tối sầm, giông tố lại cuốn theo một trận mưa to kèm theo mưa đá. Xế chiều trời tạnh dần, mặt trời ló ra, song ở đằng Đông lổn nhổn những núi non màu hồng còn lưng trời phía Tây giăng đầy những đám mây bạc, lăn tăn y hệt như lông tơ của vịt, trông rất kỳ dị.

Đêm đêm thường có sương mù. Những ngôi sao có lông măng xanh nhạt, giống như những con đom đóm to, ghé qua cổng mà nhìn vào bác Averki. Bác ít ngủ, đêm đến lại thấy buồn chán. Song, sực nhớ hiện nay mình đã được thoát khỏi mọi nỗi lo âu và đau khổ như thế này, bác bèn hướng lên trời làm dấu thánh giá để tạ ơn.

Bác gầy và yếu đi không phải từng ngày mà là từng giờ. Nhưng cảm thấy cái chết cứ lấn dần mà không gây đau đớn, ê chề gì, bác thường bảo bác gái:

- Không sao, bu nó đừng có sợ, tôi sẽ chết nhẹ nhõm thôi.

Thế nhưng bà lão vẫn thầm hy vọng, không tin vào lời nói của bác trai. Điều bác gái sợ hơn cả, lại là thái độ dửng dưng của bác trai. Song ngay cả thái độ dửng dưng mà lâu nay bác gái vẫn cố giải thích là sự mềm yếu của bác trai, thái độ dửng dưng ấy cuối cùng cũng đã vượt qua giới hạn của nó.

Vào cuối tháng bảy, khi mọi người bắt đầu gặt hái qua quít trên đồng ruộng và khi trời đã ngớt mưa, bác gái mất con bê con mà bác đã phải chịu đựng biết bao nhiêu thiếu thốn mới ky cóp được, một con bê con nó luôn theo gót bác như một con chó. Bà lão đã chạy đi lùng khắp mọi cánh đồng, mọi làng mạc lân cận. Do buồn rầu và lo lắng, gặp ai bác cũng đều hỏi xem họ có thấy con bê con màu vàng không, nhưng sau đó bác cũng vẫn chẳng chịu thua, vẫn nghĩ ra thêm mọi địa điểm mới để đến tìm. Thế rồi bỗng nhiên, vào một buổi chiều tối tăm mù mịt, lũ chó tha về làng một cái đầu màu vàng có hai sừng bé tí. Người ta đoạt lấy của lũ chó mà mang đến tận thềm nhà cho bà lão. Bà lão rối ruột rối gan, khóc nấc lên như một đứa trẻ con. Và mọi người đứng quanh thềm hồi lâu, chẳng biết nói gì, làm gì. Cái đầu nhú sừng, đọng máu dễ sợ ấy đã gây cho mọi người một ấn tượng nặng nề. Và duy chỉ có bác Averki, - nghe tiếng lao xao bác đã từ lán chứa lúa lê bước về nhà, - là khẽ phẩy tay.

- Có gì đâu mà! - bác nói. - Từ thuở bé mình đã không ky cóp thì bây giờ cũng chẳng can gì...

Mọi người ngạc nhiên đưa mắt nhìn bác và lại càng đồng thanh làm ầm ĩ cả lên, bảo rằng không thể để như thế được. Bác chăn cừu cho biết là lũ chó moi được cái đầu ấy ở trong rừng. Mặc dù trời đã sẩm tối người ta vẫn quyết định vào ngay rừng. Bác hàng xóm vội vã gióng ngựa vào xe, đặt bà lão khóc sướt mướt ấy ngồi lên, tự mình cũng nhảy lên xe rồi phóng xe đi vang động cả đường làng. Theo sau xe là những người cưỡi ngựa. Ngoài đồng tối tăm, trong rừng tối tăm, tĩnh mịch, và đã nghe có mùi lá rụng. Một bên rừng lờ mờ sáng do có ánh đo đỏ của mặt trăng đang lên. Họ đi tới một chòi canh trong khoảng rừng thưa, cạnh một cây sồi chỏm đã héo khô. Người canh rừng đang ăn chiều, thấy đoàn người kéo đến thì đâm hoảng. Họ đòi anh ta phải đưa đèn ló ra, rồi theo chân bác chăn cừu đến chỗ lũ chó đã moi lên, tìm ra được bộ lông chôn dưới đất, họ liền la hét om sòm và điệu anh canh rừng về làng, đưa đến nhà bác Averki.

Bác Averki chưa ngủ, vẫn còn ngồi trong căn nhà gỗ tối tăm. Khi người ta đã khơi to đèn lên thì căn nhà đã đầy chật người, và khi người ta dẫn ông trưởng thôn có bộ râu màu rơm vào và trong lúc họ đang thi nhau la ó, khép tội anh canh rừng, thì đột nhiên bác Averki lại ra bênh vực cho anh ta. Để biện hộ cho mình, anh canh rừng chỉ nói có một điều:

- Ăn cắp thì tôi chả chịu đâu. Bố tôi không ăn cắp, mà tôi thì cũng chả chịu ăn cắp đâu. Nếu như tôi ăn cắp, thì tôi đã chả có gì, trời đã chả cho, thế nhưng tôi lại có cơ ngơi kia.

Song do cái thái độ thờ ơ đối với mọi việc trần tục, bác Averki đã hoàn toàn tin lời anh ta, - thậm chí lại còn cất cao giọng, nằng nặc đòi thả anh ta ra chứ không cho nhốt anh ta vào phòng lạnh. Bà con xóm giềng ngạc nhiên và chưng hửng, rốt cuộc đành phải chịu bác. Cả bác gái cũng đành phải khuất phục trước giọng nói và bộ mặt rùng rợn của bác.

Kể từ đêm hôm đó bác gái đã không còn hy vọng gì là chồng mình sẽ bình phục trở lại.