Chương 17 Benghazi: Bị tấn công
dịch giả: lâm hoàng mạnh
Chương 17
benghazi: bị tấn công
gày 11-9-2012, Đại sứ Chris Stevens và Sean Smith, Văn phòng Quản lý Thông tin đã thiệt mạng do cuộc tấn công khủng bố vào khu tổ hợp ngoại giao đoàn ở Bengahzi, Libya. Vài giờ sau, hai sĩ quan tình báo CIA, Glen Doherty và Tyrone Woods cũng thiệt mạng trong cuộc tấn công vào một văn phòng đại diện gần đấy.
Sean Smith tham gia Bộ Ngoại giao sau 6 năm làm việc bên không lực và hơn thập niên tại đại sứ quán và lãnh sự quán ở Pretoria, Baghdad, Montreal và The Hague.
Tyrone Woods nổi danh với bạn bè ở Hải Quân SEAL, sau đó làm bên CIA với biệt danh “Rone.” Ông từng phục vụ ở Irag, Afghanistan. Ngoài danh hiệu cựu chiến binh dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, ông còn được coi là một y tá ưu tú và có bằng cứu thương. Ông và bà Dorothy có ba người con trai và bé mới sinh vài tháng trước khi ông qua đời.
Glen Doherty, nối gót “theo thằng bạn thời thơ ấu”, cựu SEAL tài năng, một cứu thương giàu kinh nghiệm. Ông từng tham gia hoạt động những nơi đầy nguy hiểm trên thế giới, kể cả Irag, Afghanistan, đặt mạng sống của mình vào nơi đầy nguy hiểm để bảo vệ người Mỹ. Cả hai Tyrone và Glen nguyện đem tất cả kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân để bảo vệ các nhân viên CIA tại Libya.
Đại sứ Chris Stevens, người duy nhất trong bốn người thiệt mạng mà tôi vinh dự được quen biết, ông là nhà ngoại giao tài năng, một người đầy nhiệt huyết và thân thiện. Mùa xuân năm 2011 khi tôi yêu cầu ông tiếp xúc với thủ lĩnh phiến quân Libya ở Benghazi, một công việc rất nguy hiểm, ông đã vui vẻ chấp nhận và hoàn thành xuất sắc, tôi đề cử ông làm Đại sứ Hoa Kỳ tại Libya sau khi chế độ Qaddafi sụp đổ, ông chấp nhận ngay. Chris hiểu rõ có rất nhiều rủ ro và thách thức khi chấp nhận nhiệm vụ, chung tay giúp đỡ xây dựng một đất nước bị tàn phá, vì Hoa Kỳ có nhiều lợi ích an ninh đối với quốc gia này. Với bề dày kinh nghiệm, tài năng trong ngoại giao đã giúp ông lựa chọn và đảm nhận chức vụ này là sự lựa chọn tất yếu của ông.
Sự tổn thất và mất mát những công dân ưu tú, can đảm trong khi làm nhiệm vụ là chuyện quá đau lòng. Là Ngoại trưởng, tôi là người chịu trách nhiệm chính việc đảm bảo an toàn tính mệnh của người dân, chưa lần nào tôi cảm thấy mình thật sự đau buồn về trách nhiệm như ngày hôm ấy.
Điều phối cán bộ nhân viên của chúng ta đến những nơi đầy nguy hiểm là một trong những lựa chọn khó khăn nhất của người lãnh đạo cũng như của quốc gia phải làm. Thật đau lòng và tiếc nuối nhất của tôi trong nhiều năm qua khi những người tôi cử đi đã có người vĩnh viễn không trở về. Lúc nào tôi cũng nghĩ đến gia đình, thân nhân của những người vì nước mà hy sinh. Sự hăng say trong nhiệm vụ được giao, lòng biết ơn của nhà nước cũng phần nào an ủi, nhưng cũng không đủ để lấp đầy sự mất mát.
Cách duy nhất đáng tin cậy để tôn vinh họ là chúng ta phải cải thiện hơn nữa khả năng bảo vệ tính mạng, tránh những tổn thất đáng tiếc khi họ thực hiện sứ mệnh.
Từ ngay ngày đầu tiên nhậm chức Bộ Ngoại giao, tôi đã hiểu quân khủng bố có thể tấn công bất cứ lúc nào vào các các cơ sở ngoại giao của chúng ta với hơn 270 địa điểm trên toàn thế giới. Vấn đề này đã từng xảy ra nhiều lần trước đây, những con quỷ sa-tăng tấn công Mỹ vẫn không ngừng tìm cơ hội. Năm 1979, 52 cán bộ nhân viên ngoại giao Mỹ bị bắt làm con tin và bị gian giữ trong suốt 444 ngày ở Iran. Bọn Hezbollah tấn công tòa đại sứ và doanh trại Thuỷ quân lục chiến ở Beirut năm 1983 đã làm 258 người Mỹ thiệt mạng và hơn 100 người khác bị thương. Năm 1998, bọn al Qaeda đánh bom sứ quán của chúng ta ở Kenya và Tanzania làm chết hơn 200 người trong đó có 12 người Mỹ. Tôi vẫn còn nhớ như in hôm tôi đứng cạnh Bill Clinton tại căn cứ Không Quân Andrews khi thi hài những người ngã xuống được đưa về Mỹ.
Tổng kết lại, những tên khủng bố đã giết hại 66 cán bộ nhân viên ngoại giao kể từ năm 1970 và hơn 100 nhà thầu và nhân viên là dân địa phương. Bốn Đại sứ bị sát hại trong các cuộc tấn công khủng bố từ năm 1973 đến 1979. Từ năm 2001, có hơn 100 cuộc tấn công vào các cơ sở ngoại giao của Hoa Kỳ trên toàn thế giới và gần hai chục vụ tấn công trực tiếp vào cán bộ nhân viên ngoại giao. Năm 2004, các tay súng đã sát hại 9 cán bộ nhân viên, trong đó có 5 người là dân địa phương trong cuộc tấn công tòa lãnh sự ở Jeddah, Saudi Arabia. Tháng 5-2009, quả bom cài ven đường phát nổ ở Irag đã sát hại Terry Barnich, Phó Giám đốc Ban hỗ trợ trong Thời kỳ Quá độ của chúng ta. Tháng 3-2010, Lesley Enriquez, 25 tuổi đang mang thai đã bị bắn chết cùng người chồng là cán bộ lãnh sự quán Juarez ở Mexico. Tháng 8-2012, sĩ quan USAID, Ragues Said Abdelfattah đã bị sát hại trong vụ đánh bom tự sát ở Afghanistan. Trong năm 2014, có 244 cán bộ nhân viên ngoại giao Hoa Kỳ đã thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ ở nước ngoài.
Với bản chất tự thân của nó, ngoại giao hầu như theo thông lệ hoạt động ở những nơi nguy hiểm, nơi nền an ninh quốc gia Mỹ trong tình thế khó khăn. Chúng tôi thường phải cân nhắc kỹ lưỡng giữa quyền lợi an ninh của quốc gia với sự hy sinh trước khi quyết định. Là Ngoại trưởng chịu trách nhiệm về sinh mạng cho gần 70 ngàn cán bộ nhân viên ngành ngoại giao, tôi thật sự ngưỡng mộ sâu sắc những người tình nguyện chấp nhận những rủi ro có thể gặp phải khi giương cao lá cờ đến những nơi tổ quốc yêu cầu. Ngày ngày trong khi bắt tay vào công việc, nhưng nam nữ cán bộ nhân viên Bộ Ngoại giao đã đi trên những viên đá cẩm thạch khắc tên vinh danh 244 nhà ngoại giao đã ngã xuống con đường dẫn đến khu nhà mang danh Tổng thống Harry S. Truman. Đây cũng chính là nơi nhắc nhở thường xuyên rằng, sự rủi ro bao giờ cũng đồng hành với những nhà ngoại giao đại diện cho Hoa Kỳ trên thế giới. Tôi thật sự vui mừng -cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên- được biết thông qua báo cáo của Bộ Ngoại giao, sau những cuộc tấn công khủng bố chống Hoa Kỳ, số người đăng ký gia nhập ngành ngoại giao tăng lên rất cao. Mọi người ai cũng muốn được cống hiến cho tổ quốc, ngay cả khi họ biết công việc này cực kỳ nguy hiểm. Không còn gì có thể mô tả hết được những con người đã nguyện cống hiến cuộc đời và sinh mệnh của mình, làm đại diện cho đất nước chúng ta khắp nơi trên thế giới.
Sự kiện tháng Chín năm 2012, những lựa chọn hàng ngày, hàng tuần kể từ ngày ấy cho thấy những bằng chứng có rất nhiều tình huống khó xử và khắc nghiệt nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ- đôi khi cũng thật đau lòng mỗi khi ra quyết định. Các nhà ngoại giao phải biết tính toán, suy tính giữa yêu cầu công việc với vấn đề đảm bảo an toàn cho từng cá nhân trong từng sự việc. Về phương diện nhà nước, chúng tôi biết cần phải tìm mọi phương pháp bảo vệ an toàn tính mạng, nhưng không vì thế ngăn cản những công việc cần thiết mà họ phải thực thi. Chúng tôi cần phải tiếp tục tiếp cận với thế giới trong thời kỳ khi có bất kỳ hành động nào khiêu khích có thể châm ngòi cho cuộc bạo động chống Mỹ trên toàn cầu, cũng như bọn khủng bố từ xa vẫn tiếp tục có những âm mưu tấn công mới. Mục đích chính của thách thức này là giảm độ căng thẳng với ý thức: Chúng ta có nên sẵn sàng ghé vai chia sẻ gánh trách nhiệm nặng nề của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ trong thời kỳ đầy nguy hiểm hay không?
Câu trả lời nằm trong một phần từ các cuộc điều tra độc lập về vụ tấn công Bengahzi, trong đó có ghi: “Tất cả rủi ro xảy ra hoàn toàn không do chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ, mà do bối cảnh cần thiết cho chính phủ Hoa kỳ phải có mặt ở những nơi mà tình hình an ninh yếu kém, thiếu ổn định thường thấy ở những nơi thiếu sự hỗ trợ, ủng hộ rất hạn chế của chính phủ địa phương hoặc không có.”
Trong khi chúng ta có thể giảm bớt sự nguy hiểm bằng cách duy nhất là loại bỏ nguy cơ là rút lui toàn bộ, chấp nhận hậu quả khi chúng ta ra đi. Khi không có sự hiện diện của Hoa Kỳ, chủ nghĩa cực đoan sẽ cắm rễ, lợi ích của chúng ta bị xói mòn, an ninh trong nước bị đe dọa. Một số người coi vấn đề ấy là sự lựa chọn tốt hơn; Tôi không ở trong số người đó. Rút lui không phải là câu trả lời, nó chẳng làm cho thế giới an toàn hơn và nó không mang tính truyền thống của nước ta. Khi phải đối mặt với thất bại và những bi kịch, người Mỹ càng chăm chỉ và thông minh khéo léo hơn. Chúng tôi cố gắng học hỏi tìm ra những bài học sai lầm để tránh lặp lại đi vào vết xe đổ. Đồng thời không lùi bước trước những thách thức ở phía trước. Đó là điều chúng tôi phải tiếp tục hành động.
Sự kiện tháng Chín xảy ra thường được gọi “Sương mù chiến tranh” với những thông tin khó thu thập, những bản báo cáo đầy mâu thuẫn hoặc không đầy đủ gây biết bao khó khăn để đánh giá tình hình thực tế đang diễn ra, đặc biệt ở những nơi cách Washington hàng ngàn dặm. Chấp nhận sự thật không vui vẻ gì, khi màn sương mù vẫn bao phủ kéo dài đã gây ra một phần sự mất ổn định ở Libya. Bất chấp những nỗ lực lớn nhất của các quan chức trong cả nước, kể cả ở Nhà Trắng, Bộ Ngoại giao, quân đội, cộng đồng tình báo, FBI, Hội đồng Thẩm định Trách nhiệm độc lập và tám Ủy ban Quốc hội- ấy thế vẫn không có một bản báo cáo thật đầy đủ, hoàn hảo về sự kiện này. Nó hầu như không dám tin rằng điều ấy sẽ đưa đến nhhững thỏa thuận đầy đủ chính xác cái gì đã xảy ra vào đêm ấy và tại sao lại xảy ra. Nhưng dù sao cũng không thể nhầm lẫn lý do thiếu sự hỗ trợ để tìm hiểu sự thật và chia sẻ với nhân dân Mỹ. Bản thân tôi rất biết ơn các chuyên gia, chuyên viên ngày đêm làm việc không biết mệt mỏi để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi với khả năng tốt nhất của họ.
Cái gì sẽ tiếp theo dựa trên sự kết hợp kinh nghiệm cá nhân và những thông tin nhận được hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng nhờ một số cuộc điều tra toàn diện, đặc biệt những bản báo cáo của hội đồng thẩm định độc lập xác định các sự kiện khách quan, không thêm bớt. Trong khi đó có những thông tin sai lệch một cách đáng tiếc, lừa phỉnh do một số chính khách và phương tiện truyền thông mà hơn một năm sau những báo cáo chuyên sâu từ các nguồn có uy tín tiếp tục cho chúng ta hiểu thêm về sự kiện này.
Sáng sớm ngày 11-9-2012, như nhiều quốc gia khác, có một số ngày quan trọng và đầy ý nghĩa đối với nước ta. Ngày 11-9 kể từ năm 2001, tôi bao giờ cũng suy nghĩa về cái ngày khủng khiếp ấy. Không phải vì tôi đã trở thành người đại diện cho New York hơn một năm ở Thượng viện khi cuộc tấn công phá huỷ hoàn toàn Tòa Tháp Đôi. Ngày hôm ấy, tôi cùng hàng trăm người phải nhanh chóng chạy xuống cầu thang ở toà nhà Capitol, sau đó cùng hàng trăm người đứng cầu nguyện “Chúa phù hộ cho nước Mỹ” thể hiện sự đoàn kết, cùng nhau quyết tâm làm New York hồi sinh trở lại và bảo vệ chống tất cả các cuộc tấn công khác trong tương lai. Với biết bao kỷ niệm dồn dập trong ký ức, tôi rời nhà đến Bộ Ngoại giao.
Sau quãng đường ngắn đến nơi làm việc, theo thông lệ công việc hàng ngày, tôi tiếp nhận tất cả các báo cáo tóm tắt về các tin tức tình báo, an ninh quốc gia, gồm các báo cáo mới nhất về các mối đe dọa của bọn khủng bố trên toàn thế giới. Những báo cáo tóm tắt này được thông báo cho các quan chức cao cấp trong chính phủ. Những tin tức này được đội ngũ các nhà phân tích tình báo, nhóm người đã phải làm việc cần mẫn thu thập, tổng hợp suốt đêm trình Washington trước khi bình minh bằng văn bản và báo cáo trực tiếp.
Vài tháng qua có tin đồn thổi làm xôn xao vùng Trung Đông và Bắc phi. Nội chiến Syria đã leo thang, người tỵ nạn tràn sang Jordan và Thổ Nhĩ Kỳ. Tại Ai Cập tổ chức Huynh Đệ Hồi Giáo nêu ra những nghi vấn, gây sức ép câu hỏi về tương lai Mùa Xuân Ả Rập. Chi nhánh al Qaeda ở Bắc Phi, Irag và Bán đảo Ả Rập vẫn là mối đe doạ an ninh trong khu vực.
Ngày 8-9, một đoạn video với thời lượng 14 phút, giới thiệu một bộ film mới sản xuất với tiêu đề “Sự ngây thơ của tín đồ Hồi giáo” được phát sóng trên mạng truyền hình vệ tinh của Ai Cập phủ sóng toàn vùng Trung Đông. Theo một số báo chí đưa tin, bộ film miêu tả “bức tranh biếm hoạ về nhà tiên tri Mohammad”, với nội dung xúc phạm nhà tiên tri được nhắc đi nhắc lại bởi những người sợ Hồi giáo, thậm chí còn so sánh nhà tiên tri với con lừa. Một tờ báo còn đánh giá, trong film còn “buộc tội Nhà tiên tri đồng tính luyến ái và lạm dụng tình dục trẻ em.” Khán giả Ai Cập coi đây là sự xúc phạm, phỉ báng được lan truyền trên mạng internet nhanh một cách chóng mặt trên toàn Trung Đông và Bắc Phi. Mặc dù chính phủ Hoa Kỳ không liên quan gì đến đoạn video và cuốn phim, nhưng người ta đều đổ lỗi do Mỹ về sự xúc phạm này.
Lễ kỷ niệm này 11-9 có khả năng gây tác động sự bùng nổ những sự kiện mới, như mọi năm, chúng tôi nhắc nhở các quan chức tình báo, an ninh phải thận trọng nhiều hơn. Tuy nhiên, những báo cáo của khối cộng đồng tình báo cho hay, họ không phát hiện được những mối đe dọa cụ thể nào chống các nhà ngoại giao Hoa Kỳ ở Trung Đông và Bắc Phi.
Gần trưa tôi từ văn phòng đi dọc hành lang xuống Phòng Hiệp Ước nơi Gene Cretz tuyên thệ chính thức tân đại sứ Ghana sau khi ông mãn nhiệm ở Libya. Cũng đúng vào thời điểm ấy, bên kia nửa trái đất tại Cairo, thanh niên tập trung trên đường phố bên ngoài toà đại sứ Hoa Kỳ, một bộ phận của cuộc biểu tình do những thủ lĩnh Hồi giáo bảo thủ, cứng rắn tổ chức chống đoạn film video xúc phạm nhà tiên tri. Số người đi biểu tình có tới hơn hai ngàn người, họ la hét khẩu hiệu chống Mỹ, vẫy các lá cờ đen và biểu ngữ thánh chiến. Một số người biểu tình đã trèo qua tường sứ quán xé cờ Hoa Kỳ cỡ lớn, lôi xuống thay thế bằng lá cờ đen. Cảnh sát chống bạo động Ai Cập được điều động đến, nhưng cuộc nổi loạn vẫn tiếp tục. Rất may cán bộ nhân viên chúng ta không ai bị thương trong cuộc ẩu đả. Các ký giả và một số người sử dụng phương tiện truyền thông dân sự ghi lại hình ảnh nổi giận về đoạn video gây ra. Một thanh niên nói: “Đây là một phản ứng đơn thuần nhất để chống lại sự xúc phạm nhà tiên tri của chúng tôi.” Người khác khẳng định: “Bộ film này phải cấm ngay lập tức và chính phủ Mỹ phải có lời xin lỗi chính thức.”
Đây không phải là lần đầu tiên người ta sử dụng tài liệu xúc phạm gây nên sự phẫn nộ khắp nơi trong thế giới Hồi Giáo, với những hậu quả chết người khó lường. Năm 2010, mục sư Terry Jones công bố kế hoạch đốt kinh Koran, (-Thánh kinh của Đạo Hồi- ND), vào ngày kỷ niệm lần thứ Chín cuộc tấn công Hoa Kỳ 11-9. Lời đe doạ của mục sư được thổi phồng, khuyếch đại do những kẻ cực đoan, những cuộc biểu tình lớn nổ ra khắp nơi. Lúc ấy tôi rất lo sợ, một đốm lửa nhỏ ở nhà thờ Gainesville, bang Floria trong khu nhà thời nhỏ bé ấy, có thể gây ra hiểm hoạ khó lường. Hiểm hoạ do mục sư đưa ra đã trở thành thực tế. Bộ trưởng Quốc phòng Bob Gates, đích thân gọi điện cho mục sư Jones, thông báo cho ông ta biết, hành động ấy gây đe dọa sinh mạng các binh sĩ Mỹ, binh sĩ Liên minh và thường dân Hoa Kỳ tại Irag, Afghanistan. Mục sư Jone đồng ý hủy bỏ kế hoạch, ngày lễ kỷ niệm diễn ra bình thường. Đến tháng 3-2011, mục sư Jone tái khẳng định lời hứa đốt kinh Koran. Cảnh báo của Bob Gates đã được chứng minh bằng bi kịch, một đám đông nổi giận ở Aghanistan đã đốt văn phòng Liên Hiệp Quốc làm 7 người thiệt mạng. Những cuộc biểu tình gây chết người lại nổ ra vào tháng 2-2012 khi binh sĩ Hoa Kỳ vô tình đốt sách về đạo Hồi tại căn cứ Không quân Bagram ở Afghanistan. Bốn người Mỹ bị thiệt mạng. Giờ đây mục sư Jones lại tiếp tay quảng bá đoạn video xúc phạm Nhà tiên tri Muhammad, đây đúng là một mối nguy thật sự được tái diễn.
Tôi vẫn lưu ý tình hình tiến triển ở Cairo, tôi đến Nhà Trắng gặp Bộ trưởng Quốc phòng và cố vấn An ninh Quốc gia Tom Donilon. Trở lại văn phòng, tôi họp với các quan chức lãnh đạo cao cấp của Bộ Ngoại giao suốt buổi chiều, theo dõi, giám sát chặt chẽ báo cáo của Đại sứ Ai Cập, Anne Patterson, bà gặp chuyện chẳng lành nên phải về Washington chờ tham vấn, những vẫn liên lạc thường xuyên với vị Phó Đại sứ, điện đàm gây áp lực với chính quyền Ai Cập tìm mọi biện pháp ổn định tình hình. Chúng tôi cảm thấy đỡ căng thẳng khi các cuộc bạo lực trong tương lai có thể tránh được.
Sau đó tôi hay tin, trong khi sự kiện xảy ra ở Cairo, Đại sứ Chris Stevens ở Libya, nước láng giềng Ai Cập vừa đến thăm Benghazi, thành phố lớn thứ hai của Libya.
Rất nhiều chuyện đã xảy ra ở Libya kể từ chuyến viếng thăm của tôi đến Tripoli vào tháng 10-2011. Hai ngày sau khi tôi rời Libya, Đại tá Muammar Qaddafi đã bị bắt và bị giết. Cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên được tổ chức vào tháng 7- 2012. Tháng Tám trong lễ chuyển giao quyền lực của chính phủ cho tân Quốc hội, Chris được vinh danh vì ông đã đóng góp cho đất nước này. Chiris và nhóm của ông đã kết hợp chặt chẽ với các nhà lãnh đạo mới Libya, những người đang gặp rất nhiều khó khăn trước những thách thức quan trọng trong việc thiết lập chính phủ dân chủ, đảm bảo an ninh, dịch vụ ở một đất nước dưới sự cai trị độc quyền trong nhiều thập niên. Các chiến binh, những người đã từng nồng nhiệt đón tiếp tôi tại phi trường, hộ tống đoàn xe chúng tôi năm ngoái, giờ đây được sát nhập dưới sự kiểm soát của chính quyền trung ương. Đất nước này còn rất nhiều vũ khí trong tay dân chúng cần phải thu hồi, tổ chức các cuộc bầu cử, thiết lập và giải thích về tự do dân chủ. Vấn đề lập lại an ninh và trật tự vẫn còn nóng bỏng.
Tháng 2-2012, tôi cử Thứ trưởng Tom Nides đến Tripoli chúc mừng và mời Thủ tướng Lâm thời Abdurrahim El-keib đến Washington vào tháng Ba. Chúng tôi đề nghị hỗ trợ chính phủ việc bảo vệ an ninh biên giới, thu hồi và giải thể các lực lượng dân vệ có vũ trang, sát nhập các tổ chiến binh vào an ninh quốc gia hoặc cho họ giải ngũ trở về cuộc sống dân sự. Tháng Bẩy, Thứ trưởng Bill Burn được cử đến Libya. Tôi vẫn giữ liên lạc thường xuyên bằng điện đàm với các nhà lãnh đạo chính phủ Libya, tháng Tám tôi điện cho Chủ tịch Quốc Hội Mohammed Magariaf và thường xuyên nhận được tin tức cập nhật của nhóm chúng tôi ở Washington và Tripoli về các nỗ lực của chính phủ Hoa Kỳ giúp tân chính phủ Libya. Có nhiều tiến bộ, đầu tiên giải quyết xuất ngũ thực hiện phi quân sự hóa, tái hòa nhập cũng như cố gắng đảm bảo an ninh, thu gom vũ khí trong toàn quốc, nhưng vẫn còn rất nhiều việc phải làm. Các chuyên gia về Quốc Phòng Ngoại giao và chuyên viên về an ninh biên giới của Mỹ làm việc chặt chẽ với đối tác ở Libya. Ngày 04-9-2012, chúng tôi nhận thấy Libya đã đủ điều kiện gia nhập Qũy Dự phòng An ninh Toàn cầu, một nguồn lực giàu mạnh và đầy kinh nghiệm về Quốc Phòng và Ngoại giao có thể giúp giải quyết nhiều thách thức mà chính phủ Libya phải đối mặt.
Chris là người đứng mũi chịu sào tất cả các hoạt động này, ông là người am hiểu hơn bất cứ ai về những thách thức tồn tại ở Libya, Hôm thứ Hai ngày 10-9, ông rời sứ quán, lên máy bay đi về phía đông đến Benghazi cách Tripoli bốn trăm dặm, nơi có cơ sở ngoại giao tạm thời cùng với số quan chức làm việc tại đấy. Benghazi là thành phố cảng sát Địa Trung Hải, dân số hơn một triệu, đa số là người Sunni, còn lại là người Phi châu và Ai Cập. Kiến trúc ở đây rất đa dạng, từ những khu nhà cổ xưa thi gan cùng năm tháng, đến những dự án khu nhà hiện đại bị bỏ dở, nó phản ảnh một thời kỳ lịch sử của những cuộc chinh phạt và xung đột giữa các nước Ả Rập, Ottoman cũng như sự thống trị của người Ý và sự tham vọng huyễn hoặc của nhà độc tài Qaddafi thối nát và cai trị quá dài. Benghazi chính là nơi nóng bỏng nhất của các cuộc nổi dậy, cuộc cách mạng 1969 đưa Qaddafi lên cầm quyền và cũng chính nơi đây, cuộc cách mạng 2011 đã khởi đầu cho việc lật đổ y. Ngay từ ngày đầu tiên Chris làm đại diện cho Hoa Kỳ tại Hội đồng Quốc gia Chuyển tiếp của phiến quân trong thời kỳ nổi dậy 2011, ông đã đến thành phố này, nơi ông rất yêu mến và ngưỡng mộ.
Các Đại sứ Hoa Kỳ không cần thiết phải tham khảo ý kiến hoặc phải được sự chấp thuận từ Washington khi đi công cán trong quốc gia mà họ giữ chức đại sứ. Như tất cả các Đại sứ, Chris quyết định chuyến công du dựa trên tình hình đánh giá an ninh của nhóm bảo vệ cũng như tự thân ông. Phải nói, dường như không ai hiểu rõ và có kinh nghiệm hơn ông về tình hình ở Libya. Ông ý thức được tình hình còn rất lộn xộn, vô pháp luật tại Benghazi, bao gồm một loạt các sự cố xảy ra gần đây chống lại lợi ích của phương Tây. Nhưng cũng vì ông hiểu tầm chiến lược quan trọng của Benghazi ở Libya, vì thế theo ông, cái giá của cuộc viếng thăm cao hơn rất nhiều so với sự rủi ro. Ông đưa theo hai sĩ quan an ninh, cộng thêm 5 đặc nhiệm an ninh ngoại giao trong khu nhà tổng hợp Benghazi ở thời điểm bị tấn công. Cùng với quan chức Bộ ngoại giao Sean Smith, trong khu nhà lúc đó tổng số có bẩy người Mỹ.
Sau này chúng tôi được biết khi đến Benghazi, Chris nhận được bản báo cáo tóm tắt về tình hình an ninh của nhóm CIA địa phương, cơ sở của nhóm này cách khu nhà tổng hợp không xa, khoảng chừng gần một dặm. Sứ mệnh và hoạt động của đơn vị này tuyệt đối bí mật, nhưng họ được liên lạc, trao đổi giữa hai cơ quan an ninh và phối hợp hành động trong trường hợp khẩn cấp. Một nhóm CIA phản ứng nhanh được thiết lập ngay trong khu nhà tổng hợp của Bộ Ngoại giao để hỗ trợ tăng cường khi cần thiết. Kết thúc ngày đầu tiên chuyến viếng thăm của Chris là dự dạ tiệc với thành viên của hội đồng thành phố tại khách sạn.
Ngày thứ Ba, kỷ niệm lần thứ mười một ngày 11 tháng 9, Chris chủ trì cuộc họp tại khu nhà tổng hợp. Gần tối, sau khi đám đông tụ tập trước cửa Đại sứ quán của chúng ta tại Cairo, ông tiếp nhà ngoại giao Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi Chris tiễn khách ra về, không có một dấu hiệu gì thể hiện sự bất thường. Vào khoảng 9 giờ tối, Chris và Sean chuẩn bị đi nghỉ.
Gần 40 phút sau, không có dấu hiệu báo trước, hơn chục người đàn ông có vũ trang xuất hiện ngay trước cổng khu nhà tổng hợp, ồ ạt đẩy lui người địa phương Libya làm nhiệm vụ canh gác, ùa vào bên trong và lập tức chúng ra tay phóng hỏa.
Alec, sĩ quan đặc nhiệm của An ninh Ngoại giao, người phụ trách chung các tình huống trong khu nhà tổng hợp, nhìn thấy đám phá quấy qua hệ thống camera theo dõi, đồng thời nghe có tiếng súng và mìn nổ, ông phản ứng ngay lập tức. Ông vội kích hoạt hệ thống báo động khu nhà, liên lạc ngay với sĩ quan an ninh Hoa Kỳ của tòa Đại sứ ở Tripoli, báo động cho nhóm CIA có võ trang đóng gần đó yêu cầu hỗ trợ khẩn cấp.
Bốn sĩ quan An ninh Ngoại giao phản ứng chính xác như những gì đã được huấn luyện. Scott, người chịu trách nhiệm chính về an ninh, dù có phải hy sinh tính mạng ông cũng phải đảm bảo an toàn cho Chris và Sean trong đêm ấy. Ông đưa hai người đến nơi trú ẩn an toàn trong khu nhà tổng hợp. Ba đặc nhiệm khác đi lấy vũ khí và tìm cách chống trả, nhưng ngay lúc đó phát hiện, cả ba người đang ở dẫy nhà cách biệt với khu nhà chính nơi Chris và Sean ở.
Scott đảm bảo an toàn nơi trú ẩn, trong tay lăm lăm khẩu súng trường M4, trong khi đó Chris lấy điện thoại liên lạc với chính phủ địa phương, trao đổi với Greg Hicks, Phó Đại sứ ở sứ quán Tripoli. Cả ba nghe rõ tiếng chạy rầm rập của quân nổi loạn trong khu nhà, tiếng đập rất to vào cửa sắt nơi trú ẩn. Nhưng thật bất ngờ, bọn nổi loạn rút lui, nhưng chúng đổ dầu diesel vào khu nhà và châm lửa đốt. Dầu diesel cháy phát ra những đám khói đen xì, cay xè khó chịu bao phủ toàn bộ khu vực. Ngay sau đó cả Chris, Sean và Scott đều không mở được mắt và ngạt khói.
Hy vọng duy nhất của ba người là leo lên được trần nhà. Trên trần nhà có lối thoát trong trường hợp khẩn cấp. Scott bò bằng hai tay và đầu gối dẫn đường. Mắt và cổ họng như bị bỏng, nhưng Scott cố gắng bò tới lưới chắn, mở được lối thoát. Nhưng khi Scott bò ngược lại tìm Chris và Sean thì không thấy hai người mà vừa lúc nẫy còn theo phía sau. Cả hai đã lạc lối trong đám khói dầy đặc. Ngay lúc này đây, tôi vẫn bị ám ảnh về giây phút đau đớn tột cùng trong khu nhà đang cháy.
Scott tìm kiếm một cách tuyệt vọng, đi đi lại rất nhiều lần trong khu nhà vẫn không thấy. Cuối cùng, khu nhà sắp đổ ông vội lấy cầu thang leo lên trần nhà. Một an ninh ngoại giao nghe tiếng khản đặc của ông qua hệ thống phát thanh thông báo một tin lạnh xương sống: Đại sứ Chris và ông Sean đã mất tích.
Đám đông kẻ tấn công có vũ trang sau khi lục soát hết các gian nhà trong khu tổng hợp chúng bắt đầu rút lui, ba đặc nhiệm an ninh mới tìm cách về khu nhà chính. Đầu tiên họ sơ cứu Scott bị ngạt khói và những vết sây sát, sau đó lui trở lại trèo qua cửa sổ vào nơi trú ẩn an toàn. Lúc ấy khói đen mờ mịt không thể nhìn thấy gì, nhưng họ quyết không lùi bước, nỗ lực tìm Chris và Sean bằng cách vừa bò vừa tìm kiếm xung quanh. Một người trong số họ vừa mở cửa, một mảnh trần nhà đổ sập xuống.
Từ lúc cơ sở CIA biết tin những người bạn Mỹ của mình bị tấn công, một đội phản ứng chuẩn bị cuộc giải cứu. Họ nghe thấy tiếng nổ từ xa, lập tức lấy vũ khí sẵn sàng triển khai. Chiếc xe chở sĩ quan vũ trang rời căn cứ CIA tiến về khu nhà tổng hợp của ngoại giao đoàn chỉ sau khoảng hai mươi phút của cuộc tấn công. Mãi đến cuối tháng Mười, cơ quan Đặc nhiệm mới công khai thừa nhận sự hiện diện của mình tại Benghazi, còn trước kia sự tồn tại các trạm CIA được giữ bí mật. Tất cả chúng tôi ở Bộ Ngoại giao đều vô cùng biết ơn đối với đồng nghiệp CIA đã tìm mọi cách đến giải cứu trong đêm hôm đó.
Khi nhóm CIA đến, họ chia nhau đi tìm kiếm khắp khu nhà đang cháy cùng với sĩ quan An ninh Ngoại giao. Ngay sau đó họ tìm thấy một sự thật khủng khiếp, Sean đã chết, ông chết do ngạt khói. Thi hài ông nhanh chóng được đưa ra khỏi khu nhà đổ nát, nhưng vẫn chưa thấy Chris ở đâu.
Tin đầu tiên tôi nhận được về cuộc tấn công do Steve Mull hốt hoảng chạy từ Trung tâm Điều hành của Bộ Ngoại giao qua hành lang đến văn phòng tôi. Steve, người có ba mươi năm dày dạn kinh nghiệm làm việc trong Bộ Ngoại giao, rất được mọi người nể trọng về kỹ năng ngoại giao và hoạch định, hôm ấy là tuần cuối cùng ông giữ chức Chánh văn phòng Điều hành của Bộ, chuẩn bị nhậm chức Đại sứ ở Ba Lan. Ngoài các trọng trách khác, “chánh văn phòng điều hành” còn có nhiệm vụ thu thập, lưu trữ các luồng thông tin giữa Washington với hàng trăm cơ sở của Bộ Ngoại giao trên thế giới. Hôm ấy những sự kiện bất lợi xảy ra vùng Trung Đông được thông tin đầy đủ. Mặc dù chưa biết chuyện gì xảy ra nhưng nhìn vào đôi mắt của Steve tôi hiểu có chuyện gì khủng khiếp. Tất cả những gì ông thu thập được lúc đó là khu nhà tổng hợp của chúng ta ở Benghazi bị tấn công.
Tôi là ngưới đích thân tiến cử ông giữ chức vụ Đại sứ Libya, vì thế tôi nghĩ ngay đến ông và các cộng sự đang gặp sự nguy hiểm nghiêm trọng.
Tôi cầm điện thoại theo đường dây an ninh, bấm nút nối kết với Nhà Trắng gặp Cố vấn An ninh Quốc gia, Tom Donilon. Tổng thống Obama đã được nghe báo cáo về cuộc tấn công khi ông đang họp trong Phòng Bầu Dục với Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Leon Panetta và Tổng Tham mưu trưởng Liên quân Marty Dempsey về cuộc tấn công trực diện không rõ nguyên nhân. Sau khi nghe báo cáo, Tổng thống ra lệnh phải làm tất cả những gì cần thiết để bảo vệ an toàn và hỗ trợ cho quan chức, sĩ quan, nhân viên Mỹ tại Libya. Đây là mệnh lệnh, tất cả các nguồn lực được triển khai ngay lập tức. Cơ sở CIA ngay từ đầu đã yểm trợ, nhưng ông yêu cầu tất cả các cơ sở gần đấy phải huy động hỗ trợ việc giải cứu này. Khi người Mỹ bị tấn công, không cần vị Tổng Tham mưu trưởng ra lệnh lần thứ hai, tất cả quân đội sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ tính mạng công dân Mỹ. Còn bất cứ ai đưa ra đề nghị không nhằm mục đích giải cứu, hỗ trợ tôi đều không chấp nhận và không thể hiểu họ nghĩ gì.
Tin bị tấn công như một cú trời giáng, nhưng cuộc khủng hoảng đang xảy ra tôi không còn thời gian đâu suy nghĩ về cảm xúc nữa, giờ đây có quá nhiều việc phải làm. Tôi trực tiếp chỉ đạo nhóm hành động của Bộ do Thứ trưởng Pat Kennedy làm việc trực tiếp với cán bộ nhân viên tòa Đại sứ ở Tripoli cho sơ tán toàn bộ cán bộ nhân viên Mỹ đến nơi an toàn, yêu cầu chính phủ Libya phải hỗ trợ hơn nữa. Đồng thời tôi gọi điện tới Giám đốc CIA, David Petracus, yêu cầu cơ sở Đặc nhiệm đóng gần đấy phải tăng cường lực lượng an ninh lớn hơn. Chúng tôi cảnh giác cao độ về các cuộc tấn công khác có thể xảy ra tiếp theo ở nơi nào đó. Toà Đại sứ của chúng ta ở Cairo đã từng bị tấn công, bây giờ là Benghazi. Cuộc tấn công sắp tới sẽ nhằm vào nơi nào nữa? Pat với 40 năm kinh nghiệm trong ngành Ngoại giao, phục vụ tám nhiệm kỳ Tổng thống của cả hai đảng. Người ta thường hiểu lầm ông về cách cư xử hoà nhã, ông thích mặc chiếc áo len ngắn tay hay chiếc áo gile, trông bề ngoài ông có vẻ dễ tính, nhưng thực ra Pat là người cương nghị. Ông rất bình tĩnh trước mọi tình hình bấn loạn đang xảy ra, đảm bảo với tôi mọi việc đã và đang được giải quyết. Những tình huống như thế này ông không xa lạ gì, vì đã từng tham gia giải cứu những lần Bộ Ngoại giao bị tấn công tồi tệ nhất vào cá nhân cũng như cơ sở. Khi là một cán bộ ngoại giao trẻ tuổi ông đã tham gia giải cứu gia đình của sáu nhà ngoại giao Mỹ trốn thoát khỏi Iran trong vụ tấn công sứ quan Hoa Kỳ năm 1979 (được chuyển thành phim mang tựa đề Argo).
Tripoli đã điều ngay một chiếc máy bay chở một nhóm gồm bẩy lính đặc nhiệm và tình báo triển khai nhanh chóng đến Benghazi. Không còn có lựa chọn nào hơn. Lầu Năm Góc có lực lượng Triển khai Chiến tranh Đặc biệt đóng ở Fort Bragg, North Caroline đã chuẩn bị sẵn sàng, nhưng ít nhất tiếp cứu được cũng phải mất nhiều giờ đồng hồ để điều động và di chuyển với quãng đường cách xa hơn 5 ngàn dặm. Các nhà lãnh đạo dân sự cũng như các tư lệnh quân đội, bao gồm cả Tổng tham mưu trưởng Liên quân cùng nhiều sĩ quan trong hàng ngũ của ông, những người đã từng tuyên thệ bảo vệ đất nước và nhân dân, nhưng cũng không thể nào nhanh chóng tiếp cận tới Libya để giải cứu. Những người chỉ trích đã đưa ra câu hỏi tại sao lực lượng quân sự mạnh nhất, lớn nhất thế giới không thể đến kịp Benghazi vào thời điểm cần thiết nhất để bảo vệ công dân của mình. Một phần câu hỏi ấy đã được trả lời, mặc dù chúng ta đã thiết lập Bộ Tư lệnh Hoa Kỳ Đặc trách châu Phi từ năm 2008, nhưng chưa đầy đủ hạ tầng cơ sở ở Phi châu. Khác với khu vực châu Âu và châu Á, dấu ấn quân đội Hoa Kỳ ở châu Phi hầu như không có. Ngoài ra, lực lượng quân đội của chúng ta không đủ để triển khai trên toàn cầu cùng với nhiệm vụ sẵn sàng bào vệ các cơ sở của ngoại giao. Phạm vi hoạt động của của chúng tôi có trên 270 tòa đại sứ và lãnh sự quán trên toàn thế giới, trong khi đó giới lãnh đạo quân đội đã tuyên bố với Ngũ Giác Đài không chuyển giao vũ khí cho ngành ngoại giao. Sự thể là như vậy, mặc dù không phải ai cũng chấp nhận, thậm chí có người vẫn đưa ra câu hỏi yêu cầu cấp vũ khí cho chúng tôi khi làm nhiệm vụ. Ví dụ, nhiều tuần sau vụ tấn công, người ta đưa tin giật gân, một máy bay chiến đấu Mỹ AC – 130 được điều đến Benghazi, nhưng sau đó hủy bỏ. Ngũ Giác Đài đã xem xét cẩn thận về những lời cáo buộc. Không những không có máy bay chiến đấu điều đến mà cũng không có căn cứ sân bay nào gần hoặc trong khu vực của châu Phi. Đây chỉ là một trong những cáo buộc thiếu trung thực của nhóm người quá nhẹ dạ tin vào những thông tin sai sót.
Một tài liệu khác đưa ra, một số người chỉ trich khẳng định, có thể có kết quả khác nếu như có sự giúp đỡ của FEST (Foreign Emergency Support Team – Nhóm Hỗ trợ Khẩn cấp Nước ngoài). Sau vụ đánh bom sứ quán ở Đông Phi năm 1998, Nhóm Hỗ trợ Khẩn cấp Nước ngoài đã được triển khai. Nhóm này đào tạo, huấn luyện trang bị các phương tiện để giúp đỡ khôi phục việc thông tin liên lạc, phản ứng nhanh các tình huống xảy ra, hỗ trợ mọi mặt trong tình trạng ngoại giao bị tê liệt. Nhưng nhóm nay không phải là lực lượng phản ứng vũ trang có khả năng can thiệp, giải cứu trong tình huống cuộc chiến đang diễn ra và cơ sở này cũng cách xa hàng ngàn dặm ở tận Washington.
Nhiều người Mỹ và ngay cả một số thành viên của Quốc Hội rất ngạc nhiên khi biết không có lực lượng Thuỷ quân Lục chiến Hoa Kỳ có mặt trong khu nhà tổng hợp ở Benghazi. Thực tế, Thuỷ quân Lục chiến có mặt rất ít, chưa tới non nửa trong số các cơ sở của ngoại giao đoàn của chúng ta trên toàn thế giới, với nhiệm vụ cơ bản là bảo vệ, trong sự cố cần thiết họ sẽ hủy bỏ toàn bộ các tài liệu và các thiết bị. Vì thế, lực lượng Thủy quân Lục chiến chỉ có mặt tại toà đại sứ ở Tripoli, cơ sở sát ngay khu cán bộ nhân viên sứ quán làm việc và nơi lưu trữ tất cả các tài liệu mật, còn khu vực Benghazi không lưu trữ bất cứ tài liệu mật nào, nên khu nhà tổng hợp không có lực lượng Thủy quân Lục chiến.
Ngoài ra không có hệ thống theo dõi camera tại khu tổng hợp Benghazi được truyền hình trực tiếp về Washington để theo dõi. Một số cơ sở sứ quán lớn của chúng ta trên thế giới có hệ thống này, nhưng Benghazi chỉ là cơ sở tạm thời, vì thế không lắp đặt hệ thống đó. Tuy nhiên khu nhà ấy có hệ thống camera theo dõi tại chỗ, nhưng không có hệ thống thu ghi giám sát bằng kỹ thuật số (DVR – Digital Video Recorder) vì thế các sĩ quan an ninh Hoa Kỳ mãi đến tuần sau khi nhà chức trách Libya khôi phục lại các thiết bị, thu thập được hình ảnh ghi, giao cho quan chức Hoa kỳ mới có tài liệu nghiên cứu. Vì vậy, các quan chức ngoại giao trong Tổng Hành dinh Trung tâm An ninh Ngoại giao ở Virgina hết sức cố gắng theo dõi từng chi tiết ở thời điểm căng thẳng nhất dựa vào đường dây điện thoại thông thường, nghe lại những cuộc trao đổi giữa các đồng nghiệp từ Tripoli đến Benghazi. Họ chỉ có thể kiểm tra qua các cuộc trao đổi, cón hình ảnh ghi những gì đã xảy ra hầu như không có.
Để bổ xung những thiếu sót này, máy bay do thám không người lái loại nhỏ lập tức được sử dụng điều tra nhiều khu vực khả nghi ở Libya. Máy bay do thám được điều đến Benghazi hạ cánh tại trạm điều khiển sau khi bị tấn công khoảng 90 phút, đã giúp sĩ quan an ninh và tình báo Mỹ một cách khác để điều tra, theo dõi những gì đã xảy ra.
Cũng khoảng thời gian đó, Trung tâm Điều hành báo cáo tiếng súng nổ ở khu tổng hợp đã hết, lực lượng an ninh của chúng ta đã vào được khu nhà tìm kiếm người mất tích. Đây là những tin lạnh xương sống. Hấu hết bọn tấn công đã rút lui, nhưng chúng đã chiếm toà nhà trong bao lâu? Số lượng kẻ tấn công và số người mất tích vẫn chưa rõ ràng. Nhóm giải cứu cho rằng càng ở trong khu nhà tổng hợp nguy cơ nguy hiểm càng tăng cho người Mỹ. Bất chấp những nỗ lực phải tìm bằng được Chris vẫn bị mất tích trong khu nhà chính đang cháy, sự lựa chọn duy nhất phải di chuyển ngay đến cơ sở cách đó hơn một dặm, nơi có lực lượng CIA đông đảo, được trang bị vũ khí đầy đủ.
Bất đắc dĩ, năm sĩ quan An ninh Ngoại giao phải lên xe bọc thép. Chuyến di chuyển thật ngắn - chỉ mất có 5 phút - nhưng thật sự khó khăn. Họ phải vượt qua đám cháy lớn thật nhanh, đường phố chật ních bọn khủng bố đang chặn đường. Hai viên đạn làm vỡ kính xe bọc thép, nhưng xe vẫn tiếp tục chạy. Có hai chiếc xe không rõ từ đâu bám đuôi, xe bọc thép vượt qua đám ký giả rồi tiếp tục chạy. Vài phút sau xe bọc thép đến được cơ sở CIA. Những người bị thương được cấp cứu, người còn lại chuẩn bị chống cự. Một lúc sau đội phản ứng nhanh của CIA đến, đưa theo thi thể Sean, nhưng Chris vẫn mất tích.
Tại tầng thứ 7 của Bộ Ngoại giao, mọi người làm tất cả những việc mà họ thấy cần thiết. Các quan chức các cấp của nhà nước trao đổi với đối tác đồng cấp của chính phủ. Quan chức Hoa Kỳ tại Washington và Libya làm việc với người Libya yêu cầu giúp đỡ tìm kiếm vị Đại sứ Chris. Tôi mời tất cả các quan chức cao cấp Bộ Ngoại giao về họp thảo luận các bước tiếp theo. Tôi báo cáo với Nhà Trắng. Một cơ sở của CIA giờ đây lại bị tấn công bằng súng trường và súng phóng lựu. Mọi người đang chuẩn bị tinh thần bọn tấn công sẽ ùa vào, nhưng chúng không dám thực hiện. Các cuộc nổ súng vẫn rải rác, kéo dài, cuối cùng cũng im hẳn.
Theo báo các của Trung tâm Điều hành, nhóm dân quân Hồi Giáo Ansar al-Sharia bảo thủ tuyên bố chịu trách nhiệm về vụ tấn công này, nhưng sau đó họ bác bỏ. Đây là vấn đề rất nghiêm trọng. Những ngày sau đó, các nhà phân tích tình báo Hoa Kỳ đã nghiêm túc tìm hiểu nguyên nhân cuộc tấn công, bắt đầu từ khi nào và những thành phần nào tham gia. Nhưng đến lúc bấy giờ, chúng tôi vẫn phải cẩn thận với những chuyện tồi tệ nhất có thể xảy ra - những cuộc tấn công trong tương lai chống lại quyền lợi Mỹ có thể tiếp tục xảy ra.
Tòa Đại sứ của chúng ta ở Tripoli tìm mọi cách thuyết phục mọi người những vấn đề mà họ tìm kiếm, nhưng tôi không hài lòng những báo cáo từ phiá người Libya.Tôi điện cho Tổng thống Libya, Magariaf và suốt cả tuần ấy, trao đổi thẳng thắn về khả năng các cuộc tấn công khác có thể tiếp tục gây ra. Tôi muốn ông và các quan chúc chính phủ phải hiểu tính cấp bách của tình hình và không được giả định các mối đe dọa đã qua. Magariaf thành thực cáo lỗi. Tôi cám ơn ông về mối quan ngại, nhưng tôi muốn mọi việc phải giải quyết minh bạch hơn là những lời hối tiếc: Chúng tôi cần những hành động thực tế và ngay lập tức để bảo vệ sinh mạng người Mỹ ở Benghazi và Tripoli.
Trong khi đó máy bay chở lược lượng an ninh Hoa Kỳ từ Tripoli tăng viện đã hạ cánh xuống phi trường Benghazi. Mục đích của đơn vị sử dụng xe địa phương đến trạm CIA càng nhanh càng tốt. Nhưng lúc ấy tại phi trường đông đảo các quan chức an ninh và lãnh đạo quân đội Libya họ muốn dùng đoàn xe bọc thép hộ tống người Mỹ. Lực lượng an ninh chúng ta cảm thấy không vui vì phải chờ họ hàng giờ đồng hồ, sau khi lực lượng Libya chuẩn bị xong mới rời phi trường đến cơ sở của CIA.
Tại Washington, tôi triệu tập cuộc họp mời tám quan chức cấp cao của Bộ và Phó Đại sứ Greg Hicks ở Tripoli tới dự. Greg là người cuối cùng trao đổi điện thoại với Chris trước khi mất tích, khi Đại sứ mất tích, ông là người chịu trách nhiệm bảo đảm an toàn cho tất cả công dân Mỹ ở Libya. Một đêm thức trắng vì tôi rất lo lắng về số phận cán bộ nhân viên đang ở Tripoli. Tôi và họ đều hiểu những gì mà bên quân đội, CIA và các cơ quan khác trong chính quyền Washington đã và đang hỗ trợ. Greg đề nghị phương án đề phòng bằng cách di tản tất cả nhân viên sứ quan ở Tripoli đến khu tổng hợp khác an toàn hơn. Tôi đồng ý đề nghị này, bàn biện pháp tìm kiếm Chris mà cả hai đều rất quan tâm. Hình như tình hình không có gì sáng sủa khi nghe giọng nghẹn ngào, đau buồn của Greg. Tôi yêu cầu ông chuyển lời chia sẻ nỗi buồn của tôi đến toàn thể cán bộ nhân viên và yêu cầu giữ liên lạc thường xuyên.
Tôi đến Trung tâm Điều hành để nói chuyện trực tiếp qua hệ thống truyền hình trực tuyến giữa đại diện các ngành của chính phủ với các quan chức Hội đồng An ninh Quốc gia, CIA, Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng và các cơ quan khác trong Phòng Tình huống của Nhà Trắng. Đây là cuộc họp của các “Đại biểu” mà không có “Thủ lĩnh”, nhưng quy trình vẫn ám ảnh mãi. Tôi ghi nhớ những điều đã thảo luận trong nhóm với Greg và Tổng thống Magariaf, nhấn mạnh tầm quan trọng như thế nào về vấn đề sơ tán người Mỹ ra khỏi Benghazi đến nơi an toàn càng nhanh càng tốt.
Trở lại vấn đề, tôi đã trao đổi trong nhóm đây là thời điểm phải có những tuyên bố công khai. Cho đến lúc ấy, tôi hoàn toàn tập trung vào việc hợp tác, phối hợp các ban ngành trong chính phủ, huy động các nguồn tin của người chúng ta trên thực tế. Nhưng các báo cáo về các sự kiện Benghazi đã trở thành cơn lốc trên báo chí, đáng nhẽ ra nhân dân Mỹ phải được nghe sự việc xảy ra từ những lời tôi phát biểu dù thông tin còn hạn chế. Thực tế, Bộ Ngoại giao chưa đưa ra công bố nào cụ thể cho đến khi có thể xác định chắc chắn về số phận từng cá nhân, trong đó có số phận Chris vẫn chưa xác định được. Tôi yêu cầu phải tìm mọi cách xác định vấn đề này càng sớm càng tốt. Tôi công bố xác nhận tổn thất một quan chức và lên án các cuộc tấn công, cam kết hợp tác với các đối tác trên toàn thế giới để bảo vệ các nhà ngoại giao, các cơ sở ngoại giao đoàn và người Mỹ.
Ngay sau khi trao đổi với tôi, Greg và nhóm của ông tại sứ quán nhận được cú phôn thật lạ. Cú phôn từ chiếc điện thoại di động mà Chris sử dụng lần cuối cùng trước khi mất tích trong làn khói dày đặc tại nơi trú ẩn an toàn. Một giọng người đàn ông nói tiếng Ả Rập, có một người Mỹ bị bất tỉnh, giống như người ở toà đại sứ mô tả, đang nằm ở bệnh viện địa phương. Người đàn ông ấy không đưa thêm tin tức gì hoặc đảm bảo đó là sự thật. Có chắc chắn đấy là Chris hay không? Đây có phải cú đánh lừa dụ chúng ta ra khỏi khu vực CIA rồi nhân cơ hội tấn công? Việc này phải điều tra. Greg yêu cầu quan chức địa phương cử người đến bệnh viện tìm hiểu và điều tra. Thật kỳ lạ, cũng vẫn là anh chàng người Libya đã từng giải cứu phi công của chúng ta bị bắn rơi năm trước.
Một đoạn video không chuyên nghiệp quay cảnh một đám đông hôi của đi lục soát toàn thể khu nhà cháy dở đầy khói sau khi chúng ta rút đi. Một nhóm người Libya - không xác định được – đã thấy thi thể Chris giữa đám khói nhưng cũng không biết Chris là ai, họ lôi ông ra khỏi đám khói và đưa đến bệnh viện. Chris được đưa ngay đến phòng cấp cứu khoảng hơn 1 giờ sáng. Các bác sĩ đã làm mọi cách hồi sức cấp cứu trong vòng 45 phút, nhưng không thành công. Đến khoảng 2 giờ sáng, bác sĩ tuyên bố Chris đã qua đời do ngạt khói. Sau đó Thủ tướng Libya gọi điện báo tin cho Greg ở Tripoli. Ông đau đớn thông báo tin buồn dữ dội ấy. Thông tin chính thức được xác định khi thi thể Chris được đưa đến phi trường Benghazi vào sáng sớm hôm sau. Tôi biết Chris có thể đã chết, nhưng khi chưa có thông tin chính xác nên vẫn hy vọng một điều thần kỳ nào đó sẽ cứu được ông. Giờ đây niềm hy vọng ấy đã vụt tắt.
Các đặc nhiệm An ninh Ngoại giao của chúng tôi ở được CIA bảo vệ nghiêm ngặt và cả lực lượng tăng cường từ Tripoli ở phi trường, tôi quyết định rời văn phòng về khu nhà tôi ở phiá tây bắc Washington, cách khu Foggy Bottom khoảng dăm phút lái xe. Tôi biết chỉ vài ngày sắp tới, tất cả chúng ta đều bị ảnh hưởng bởi thuế lợi tức mới, có thể toàn thể cán bộ nhân viên của Bộ tìm tôi để hiểu rõ, tìm cách giải quyết trong khi vẫn phải tập trung những việc cần làm. Khi trở thành Ngoại trưởng, toàn bộ khu nhà tôi được sửa sang trong ngoài lắp đặt tất cả các hệ thống thông tin liên lạc phục vụ công việc, vì thế tuy ở nhà nhưng cũng dễ dàng gặp gỡ, trao đổi như làm việc tại văn phòng.
Nhận được điện thoại của Tổng thống Obama, tôi báo cáo ông những tin mới nhất vừa nhận được. Ông hỏi, làm thế nào để mọi người an tâm và ông lặp đi lặp lại phải làm tất cả các bước cần thiết để bảo vệ các nhà ngoại giao và người Mỹ tại Libya cũng như trong toàn thể khu vực. Tôi tán thành ý kiến và đảm bảo với ông thực hiện bằng mọi giá. Tôi không tin cuộc khủng hoảng đã chấm dứt, nó còn có thể còn xảy ra không ở Libya thì có thể ở nơi khác.
Đơn vị tăng cường từ Tripoli cuối cùng từ phi trường cũng đến được căn cứ của CIA, hỗ trợ cho các đồng nghiệp đã kiệt sức trong mấy ngày qua, nhưng niềm vui cũng không kéo được lâu.
Chỉ sau vài phút đơn vị tăng cường tới, tiếng súng cối đã vang lên. Quả đạn đầu tiên bắn trượt, phát thứ hai trúng cơ sở, phá huỷ nhà và hai nhân viên an ninh CIA thiệt mạng, Glen Doherty và Tyrone Woods, cộng thêm vài người bị trọng thương, trong đó có David, đặc nhiện An ninh Ngoại giao.
Thảm kịch ở Benghazi bây giờ lại tái diễn ở ngay khu nhà này. Chúng ta cần phải đưa ngay những người trong khu nhà - khoảng chừng 30 người, gồm 5 đặc nhiệm an ninh ngoại giao của Bộ và sĩ quan CIA - ra khỏi thành phố trước khi bị tổn thất thêm.
Gần một giờ sau, lực lượng an ninh chính phủ Libya, đơn vị vừa quay về thì cơ sở CIA bị dính đạn pháo, nay trở lại tháp tùng mọi người ra sân bay. Máy bay đầu tiên rời đường băng khoảng 7.30 sáng. Chiếc thứ hai chở những người còn lại, kể cả thi hài Sean Smith, Glen Doherty, Tyrone Woods và Chris Stevens được đưa từ bệnh viện tới. Đến trưa, tất cả các nhân viên Hoa Kỳ từ Benghazi cuối cùng đã có mặt tại Tripoli.
Tại Washington, tôi vẫn suy nghĩ về những gì đã xảy ra quá tồi tệ. Kể từ năm 1979, đây là lần đầu tiên một vị đại sứ Hoa Kỳ đã bị thiệt mạng trong khi làm nhiệm vụ. Bốn người Mỹ đã chết. Khu nhà tổng hợp ở Benghazi bị thiêu rụi và cơ sở CIA đành bỏ hoang. Chẳng có ai dám khẳng định cái gì sẽ xảy ra tiếp theo và ở nơi nào.
Tôi cố trấn tĩnh tiếp tục làm việc, cần phải lấy lại tinh thần và nghị lực làm đầu tầu gương mẫu trong khi mọi người trong Bộ vẫn còn bận rộn tập trung theo dõi mối đe dọa. Nhưng trước tiên tôi phải gọi điện chia buồn với gia đình và thân nhân của người đã khuất. Họ cần có sự chia sẻ, biết sự hy sinh cao quý của người thân vì danh dự quốc gia và của Bộ Ngoại giao, sự ra đi là sự mất mát quá lớn không có gì có thể so sánh được trong lòng chúng tôi. Cuộc gọi điện không dễ chút nào, nhưng đây là trách nhiệm lớn phải thực hiện.
Sau khi kiểm tra tất cả các tin tức bổ xung với Tướng Dempsey, tôi ngồi xuống ghế bên bàn làm việc trong văn phòng Bộ Ngoại giao, gọi điện cho em gái Chris, Anne Stevens, bác sĩ Bệnh viện Nhi khoa ở Seattle. Chị đã được các đồng nghiệp của Chris báo tin và Anne cũng thông báo cho toàn thể người trong gia đình biết hung tin ấy. Mặc dù mệt mỏi và quá sốc, nhưng chị vẫn cố gắng tập trung những gì mà người anh trai nguyện ước. Chị nói với tôi: “Tôi hy vọng không vì chuyện này mà chấm dứt sự ủng hộ, giúp đỡ nhân dân Libya.” Anne Stevens hiểu rõ ý nguyện của Chris muốn giúp xây dựng một nước Libya mới trong đống đổ nát của chế độ Qaddafi và tầm quan trọng vì lợi ích của Hoa kỳ. Ngay từ khi còn thanh niên, ông đã tham gia tình nguyện trong Đoàn quân Hoà bình dạy Anh ngữ tại Morocco, sau đó làm đại diện ngoại giao Hoa Kỳ trong khu vực. Bất cứ nơi đâu ông đến, ông đều giành được tình cảm bạn bè cho Hoa Kỳ và gây được mối thiện cảm cá nhân. Tôi nói với Anne, có rất nhiều quốc gia coi ông là người anh hùng của họ.
Trong nhiều tuần sau, tôi thật ngỡ ngàng về cách xử lịch thiệp đầy tự trọng của gia đình Stevens đối với nỗi đau trong giai đoạn khó khăn của lịch sử. Sau khi tôi hết nhiệm kỳ, chúng tôi vẫn liên lạc với nhau và rất tự hào vì đã nỗ lực hỗ trợ phát động xây dựng Quỹ hỗ trợ để tưởng nhớ Đại sứ J. Christopher Stevens, mục đích quỹ này phục vụ khoa học kỹ thuật để kết nối và hiểu biết lẫn nhau giữa thanh niên Trung Đông với thanh niên Hoa Kỳ. Đây là việc làm đầy ý nghĩa để tưởng nhớ Chris và thúc đẩy những vấn đề mà ông tâm huyết.
Tiếp theo tôi gọi điện chia buồn và sự mất mát với người vợ của Sean, bà Heather đang sống ở Hà Lan cùng hai đứa con nhỏ. Đây là cú sốc rất nặng. Sean và gia đình có kế hoạch nghỉ phép sau chuyến công tác. Cũng như Chris, Sean tận tụy làm việc và rất tự hào được đóng góp những gì mà Mỹ cam kết giúp đỡ các nước trên thế giới. Những tổn thất sau cuộc tấn công ở Benghazi, Heather bày tỏ niềm tin, Sean không muốn vì thế mà Hoa Kỳ lùi bước và sống trong sợ hãi.
Ngày 12-9 là một ngày thật đáng sợ. Suốt đêm hình ảnh người biểu tình được truyền tải trên internet vẫn tiếp tục lan truyền từ Ai Cập sang khắp vùng Trung Đông. Hơn 200 người Maroc giận dữ tụ tập bên ngoài lãnh sự quán của chúng ta ở Casablanca. Tại Tunisia, cảnh sát phải sử dụng hơi cay để giải tán đám đông bên ngoài sứ quán Hoa Kỳ. Ở Sudan, Mauritania và Ai Cập những người biểu tình cũng tụ tập bên ngoài các cơ sở của Mỹ. Sau những gì xảy ra ở Benghazi vào hôm trước, mọi người trong tình trạng bối rối, chúng ta đang cố giải quyết từng sự việc một cách nhanh chóng nếu không nó sẽ vượt ra ngoài tầm kiểm soát.
Tôi tổ chức một cuộc họp qua cầu truyền hình trực tiếp với nhóm ở Tripoli đang quá kiệt sức. Họ đã có những cố gắng vượt bậc phi thường những gì mà họ làm trong 24 giờ trước, nhân danh cá nhân, tôi cảm ơn họ, thông báo dù ở xa tổ quốc hàng ngàn dặm nhưng họ không cô đơn, nhân dân trong nước đang sát cánh với họ.
Sau đó tôi muốn nói chuyện trực tiếp với người dân Mỹ và thế giới. Tôi cảm thấy thật sự khó khăn khi phải giải thích những điều không thể lý giải với nhân dân trong một nước từng bị kinh hoàng về vụ khủng bố đẫm máu ngày 11-9-2001. Sự súc động đang trào dâng. Một số phụ tá của tôi làm việc với Chris đã bật khóc vì thương nhớ ông. Tôi lặng người trong phòng làm việc, cố gắng trấn tĩnh chuẩn bị phát biểu những gì cần thiết. Sau đó tôi đi đến Phòng Hiệp Ứơc một đoàn phóng viên báo chí đang chờ.
Trong khi máy ảnh bấm liên tục, tôi trình bày tất cả sự thật tôi biết –“bọn tấn công có vũ trang” đã tấn công khu nhà tổng hợp và sát hại người của chúng ta – tôi cam kết với nhân dân Mỹ, chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để đảm bảo an toàn tính mạng cán bộ nhân viên và các công dân Mỹ trên toàn thế giới. Tôi cũng bày tỏ sự chia buồn và cầu nguyện đến từng gia đình và thân nhân của các nạn nhân, đồng thời khen ngợi các nhà ngoại giao đã quên mình phục vụ tổ quốc, vì giá trị của chúng ta trên toàn thế giới. Chris Stevens đã quên mình ngăn chặn tên bạo chúa, cống hiến đời mình giúp Libya xây dựng cuộc sống tươi đẹp hơn. Tôi kết luận: “Trên thế giới này cần nhiều những người như Chris Stevens.”
Lời khẩn thiết của Anne Stevens mong muốn ý nguyện của Chris vì một tương lai Libya vẫn văng vẳng bên tai. Tôi giải thích với nhân dân Mỹ, “đây là cuộc tấn công của một nhóm người hung hãn chứ không phải của nhân dân cũng như của chính phủ Libya”, vì vậy chúng ta sẽ không quay lưng với quốc gia mà chúng ta đã giúp họ giải phóng. Tôi cũng cam đoan, sẽ ra sức tìm hiểu động cơ, phương thức hành đ?