10- Niềm Tin
Bà Biền đang lom khom nhổ cỏ vườn, thỉnh thoảng đứng lại đưa tay lên quệt nước mắt trộn với mồ hôi, miệng thở dài lẩm bẩm: Chúa ôi! Vì tội lỗi con hay ý Chúa muốn mà con khổ quá thế này!
Năm1953, chưa phát động đấu tố mà khí thế cách mạng vô sản hung bạo rung chuyển bao trùm mọi nơi. Những người có chút ít ruộng nương cũng như những người có nhiều điều lo âu tìm cách cất giấu những gì có thể cất giấu được.Còn những người xưa nay không có ruộng đất chỉ đi làm thuê cấy mướn đều hồ hởi bàn tán bao giờ mình được chia đất, chia nhà, chia ruộng, chia đồ đạc của những nhà giàu, những cường hào ác bá, những người đã cướp của nhân dân làm giầu, theo lời cán bộ nói.
Ở thôn quê nhà nào có từ 10 mẫu ruộng trở lên đã bị liệt vào hàng khá giả, có khi trông bề ngoài ai có căn nhà cao ráo sạch sẽ, thêm cái sân lát gạch trước nhà để ngày mưa phơi lúa phơi rơm, dân làng đã đôn lên là nhà giầu.
Có khác gì với nhiều người trong xóm, ông bà Biền bắt đầu gây dựng gia đình với 5 sào ruộng công điền làng chia cho theo ước lệ 3 năm một lần. Cả hai ông bà hiền lành, siêng năng, chịu cơ cực, chịu khó làm hết việc nhà lại đi làm thuê cho người hay hái dâu, nuôi tầm quanh năm không có ngày nghỉ. Mùa này đủ một ít, mùa sau dư thêm ít nữa, “tích tiểu thành đại”, để rồi năm nay tậu một mẫu ruộng, sang năm mua thêm mẫu nữa do sự cần cù, sẻn nhặt mà có, không như những người “bóc ngắn cắn dài”, làm sao có dư để làm giầu, tậu được điền sản.
Ông bà Biền đã nghe nhiều người nói: “Cách mạng về sẽ lấy hết nhà cửa, ruộng vườn”. Ông bảo với bà:
-Việc gì phải lo, mình ăn ngay ở lành, vất vả, sẻn nhặt mới có. Mình có đi nói dối, lường gạt ai, đè đầu bóp cổ ai đâu. Xóm làng hòa thuận, không để ai phải thiệt vì mình, ai cần đến không nhiều thì ít mình vẫn giúp đỡ mọi người.
Nghe ông nói vậy, bà Biền vì tính lo xa vẫn lén lút bán lúa, bán gia súc để có món tiền phòng khi hữu sự.
Bình, con trai duy nhất của ông bà Biền gửi học ở tỉnh lỵ Thanh Hóa, viết thư xin phép bố mẹ gia nhập quân đội quốc gia. Anh không dám trở về nhà, sợ bị cản trở không đi được nữa. Nhận được thư của con, ông bà lo lắng; thương con, bà nhất quyết đi thăm con, cho con ít tiền và ông bà Biền có ngờ đâu đó cũng là ngày vĩnh biệt giữa đôi vợ chồng già. Lặn lội đi bộ từ Quảng Xương tới Thanh Hóa, trên con đường từng quãng bị đắp mô, bị đào cắt khúc để cản trở địch quân, khi gặp con bà muốn con trở về nhà. Nhưng Bình cương quyết nói:
-Má để con đi gia nhập quân đội quốc gia làm tròn nghĩa vụ trai thời loạn, sống chết theo Thiên ý. Nếu con trở về với bố mẹ, đã chắc gì được ở nhà, có khi con bị chết tủi nhục vì chúng có thể ghép con vào tội làm gián điệp cho người Pháp, vừa bị hạ nhục vừa bị khổ.
Bà Biền ở lại chơi với con được ba ngày. Bình phải từ giã mẹ lên xe theo đơn vị. Trước ngày đi, bà Biền dặn con nhắc đi nhắc lại một điều: bất luận làm việc gì cũng phải gìn giữ sự thật thà, và chiến thắng sự thật chính là đức bác ái với niềm tin mãnh liệt vào Đấng Chí Tôn che chở sẽ biến cái họa thành cái may. “Con hãy tâm niệm, nhớ kỹ lời mẹ dặn khi nhớ đến bố mẹ”.
Nhìn theo con cho đến khi xe chạy xa mới trở về. Đi chưa được mấy bước, chị hĩm Ba, người hàng xóm vẫn được bà Biền hay giúp đỡ, vẻ mặt đầy hốt hoảng, kéo bà vào gốc cây gần đấy, nói sẽ:
-Bà không về nhà được nữa đâu. Sau khi bà ra khỏi nhà được chừng 4 giờ, du kích tới vây nhà, họ bắt ông đưa đi. Nhà cửa bị niêm phong, có người canh gác bên ngoài. Họ nói chờ bà về sẽ bắt luôn. Còn ông, qua hôm sau đoàn đấu tố lập tòa án nhân dân kết án ông là địa chủ ác ôn, lại có con làm gián điệp cho Pháp. Sau khi tuyên án, chúng đã bắn ông tại chỗ.
Không nói được câu nào, bà Biền từ từ khuỵu chân đầu gối như rời ra, bà ngã xuống đất. Chị hĩm Ba moi trong túi bà Biền lọ dầu nóng (đi đâu bà cũng đề phòng mang theo) xoa lên đầu, cổ, chân tay. Một lúc sau, bà hồi tỉnh. Chị hĩm Ba đưa bà Biền về nhà trọ quen. Chị nói bà bị cảm cần phải ở lại tỉnh dưỡng mấy ngày rồi sẽ về. Cả hai không dám nói hở việc nhà. Bà Biền nhờ chị hĩm Ba trở về nhà lấy cho bà gói vàng, bạc bà đã cất giấu dưới chuồng heo và nhờ anh chồng chị lo liệu chôn xác ông Biền.
Vài ngày sau, chị hĩm Ba đem số vàng bạc còn thừa sau khi chi phí chôn cất ông Biền đưa lại cho bà Biền. Bà Biền chia đôi số tiền và vàng đền ơn chị hĩm Ba một nửa. Chị từ chối không lấy. Chị nói:
-Từ xưa đến nay mang ơn ông bà giúp đỡ đã nhiều, chẳng may ông bà gặp cảnh khổ hận, từ đây bà không còn nhà cửa, nơi nương tựa, rồi bà sẽ đi đâu?
Không phải đợi lâu, bà Biền trả lời ngay:
-Mấy hôm nay, tôi đã suy nghĩ kỹ rồi. Vì ông nhà tôi bị sát hại, tôi không muốn trở về quê nữa, chỉ thêm khổ cực. Còn chút ít tiền đây tôi sẽ tìm vào vùng quốc gia tìm con tôi. Tôi sẽ gặp con tôi.
Chị hĩm Ba cũng nói:
-Bà về vùng quốc gia là phải. Cháu trở về bàn với chồng cháu sẽ tìm cách vào vùng quốc gia sinh sống. Cách mạng nói rằng sẽ sung sướng, có tự do, bình đẳng mà cháu chỉ thấy người này bị bắt, người kia bị tù, bị giết vì thù oán hay vì có tiền có của, làm mọi người đêm ngày lo sợ, chưa biết lúc nào đến lượt mình.
Bịn rịn mãi rồi cũng phải chia tay. Bà Biền là người biết suy tư tuy không có học nhiều. Tâm hồn ngay thẳng, cương quyết, bà tự nghĩ chồng đã bị sát hại rồi còn làm gì được. Đau buồn, khổ lụy chỉ làm cho mình mất sức, dễ đau yếu, đâu có còn ai giúp đỡ. Mình phải tự cứu mình, còn hy vọng tìm con là một nhiệm vụ sẽ phải làm. Gặp được con đời mình còn có mục đích. Và bà cố gắng không khóc, không than vãn, tìm cách ra Hà Nội.
Việc đầu tiên bà tim tới thánh đường cầu xin: “Lạy Chúa xin hãy ban cho con được sự bình an trong tâm hồn để thay đổi những gì có thể thay đổi được. Để chấp nhận những gì không thể được và sáng suốt nhận biết được sự khác biệt những sự việc đó.”
Ra khỏi thánh đường bà tự nghĩ: đi đâu, ở đâu, rồi lấy gì mà ăn. Phải tìm nơi quán chợ, gầm cầu ngủ qua đêm, rồi đi làm thuê làm mướn, ăn đói ăn khát mà tự lực, tự trọng còn hơn là đi ăn xin, ăn bám xã hội dù có người quen, người làng, có thể tá túc được. Bà đi tới từng cửa tiệm, từng nhà xin việc làm, bất cứ việc gì có thể làm được, miễn có tiền sống qua ngày. Và một hôm bà được một nhà sang trọng mướn làm công việc trong nhà, có chỗ ngủ.
Một buổi chiều, ông chủ nhà bắc ghế ra vườn ngồi đọc sách. Ông nhác thấy người giúp việc nhổ cỏ vườn có cử chỉ hơi lạ, thỉnh thoảng ngừng tay quệt nước mắt hay mồ hôi, miệng lẩm bẩm nói gì. Ông gọi người đàn bà lại hỏi chuyện. Người giúp việc thưa:
-Tôi tên Biền, quê ở Quảng Xương, Thanh Hóa, tránh nạn cộng sản tìm về miền quốc gia. Việc chính là đi tìm con tôi. Chồng tôi bị xử tử. Chúng buộc là thành phần tư bản ác ôn. Tôi thoát chết vì hôm đó tôi đi Thanh Hóa gặp con tôi. Cả hai mẹ con tôi không tính đến việc sẽ xảy ra. Con tôi nói đến căn cứ yên ổn sẽ viết thơ cho bố mẹ biết. Bây giờ tôi không còn biết con tôi ở đâu mà tìm.
Ông chủ nhà hỏi:
-Người ta buộc ông là nhà tư bản, bà giầu có sao không đem theo của cải mà chạy người không đến nỗi khổ nhục này.
-Thưa ông, người ta buộc như vậy. Thôn quê có căn nhà sạch sẽ, có mấy mẫu ruộng họ cho là nhà giầu, là tư bản. Thực ra hàng năm ăn tiêu rồi có dư chút ít, tôi có phòng bị mua được ít vàng và ít tiền. Khi xảy ra tai nạn, tôi có nhờ được người lối xóm lấy được ít tiền và vàng tôi giấu. Họ có lấy được hết và đưa cho tôi. Tôi chia một nửa mà người hàng xóm không chịu lấy. Trong khi đi tìm con tôi, tôi gặp bao nhiêu người túng thiếu, khổ cực, tôi đã chia sẻ cho họ. Bây giờ hết cả, phải kiếm việc làm nuôi thân. Còn việc tìm con tôi, tôi tin rồi cũng sẽ gặp nếu tôi còn sống.
-Cảnh khổ của bà thật đáng thương. Nếu hôm nay tôi không hỏi về tình cảnh của bà đâu ai biết bà có tâm sự não lòng như vậy. Bà tới đây cả tháng tôi chưa nghe ai trong nhà này biết về quá khứ khổ cực của bà. Bà không buồn hay sao?
-Thưa ông, là người đâu phải gỗ đá, tôi cũng buồn, cũng lo lắng cho đời mình và lo lắng về con tôi hiện giờ ra sao. Nhưng tôi phải tự khắc phục để tìm lấy yên ổn cho tâm hồn trong công việc. Vùi đầu vào công việc cũng chưa tránh được sự xao xuyến, phải tìm nó trong nội tâm là hãy quên những lỗi lầm người ta làm cho mình.
-Tôi thấy bà là người hiền lành, biết thương yêu mọi người, biết nhường cơm xẻ áo cho người thiếu thốn mà sao ông Trời ở bất công với bà như vậy?
-Không, ông đừng nghĩ như vậy. Tôi tin có Đấng Tối Cao ở trên trời là đấng làm cho mặt trời mọc lên trên những người lành cũng như kẻ dữ và cho mưa trên người công chính cũng như kẻ bất lương. Đấng chí công vô tư sẽ biến cái họa thành cái may đời này sẽ nối tiếp đời sau. Tôi đã sống bằng niềm tin.
-Như vậy bà không phải là người thôn que. Bà đã có đi học và đọc sách nhiều?
-Thưa ông, là người sống ở thôn dã, tôi đi học biết đọc biết viết rồi thôi. Tôi không có được đọc sách nhiều ngoài một quyển Thánh kinh của tôn giáo tôi theo. Tôi đặt niềm tin vào tôn giáo và giữ những điều hay như trong sách đã dậy.
-Tôi thành thực phục bà. Đang sống trong tình trạng nghèo khổ cùng cực mà có tinh thần đáng quý hơn cả người khôn ngoan, tài trí mà thủ đoạn độc hại lẫn nhau. Hơn cả người giàu sang, phú quý mà lại lừa đảo, bất trung, hơn cả người uy quyền, thế lực mà lại hà hiếp, hối lộ.
Năm 1954, theo đoàn người vào Nam, bà Biền đã gặp lại người con trai duy nhất đã là một chiến sĩ chiến đấu lừng danh với lòng quả cảm, có tâm hồn vị tha như lòng bà mong ước. Niềm tin mãnh liệt của bà đã biến cái họa thành cái may.