← Quay lại trang sách

27- Mấy Đời Bánh Đúc Có Xương

Ông Quang ơi! Tại sao ông ghét, ông thù hằn những người có phòng nhì? Có mắc mớ, có thiệt hại gì đến ông đâu?”

Nhiều người quen biết ông Quang đã trêu chọc ông như thế. Và ông Quang đã trả lời cho họ hiểu tại sao:

-Tôi thương những bà có chồng bị phụ bạc, thương những đứa nhỏ gặp phải dì ghẻ ác độc. Tôi khinh những người đàn ông có mới nới cũ, bất công, mù quáng, bỏ bê con cái khốn quẫn, đói rách, để cho dì ghẻ hành hạ con mà không dám bênh vực. Vì chính tôi đã là nạn nhân. Và tôi không bao giờ quên được quãng đời thiếu thốn đã chịu đựng nhiều khổ ải tại gia đình.

Bố tôi quê ở Bắc Ninh là con nhà khá giả ở miền quê. Sau khi đỗ bằng tiểu học Pháp Việt, ông bà nội gửi bố tôi lên Hà Nội học. Sau khi ông nột tôi chết, bà nội bảo bố tôi về quê làm ruộng lấy vợ. Nhà có 10 mẫu ruộng, cũng đủ sống, rồi làm lý trưởng, chánh tổng cũng danh giá chán. Bố tôi chê cô gái bà nội chọn cho bố tôi là quê mùa, nhất định không chịu về. Giữa bà nội và bố tôi vì thế xảy ra xích mích. Bà nội tôi không gửi tiền ăn học nữa và bố tôi phải nghỉ học kiếm việc làm với chân thư ký kế tòa án, ngày xưa kêu là ông phán.

Nhân ngày nghỉ, một người bạn rủ bố tôi về quê ở Hưng Yên ăn giỗ. Bố tôi gặp mẹ tôi bán tiệm tạp hóa ở đây và ông bị tiếng sét ái tình ngay. Bố tôi ngỏ lời cầu hôn nhưng ông bà ngoại tôi không chịu, lấy cớ người làm việc ở tỉnh thành dễ bị sa đọa, người nhà quê không thích ứng được. Ông bà ngoại tôi nhất định không gả nên mẹ tôi chỉ còn cách trốn nhà theo bố tôi lên Hà Nội. Bố mẹ tôi ở với nhau không được cả hai bên nội và ngoại công nhận, nên không có hôn lễ, không có ai chứng nhận, không có cả hôn thú. Yêu nhau có bao giờ nghĩ ai sẽ phản bội ai mà cần bảo vệ quyền lợi.

Mẹ tôi là người biết buôn bán nên việc chi tiêu trong nhà không cần đến lương của bố, còn nuôi thêm người giúp việc bế em nấu nướng. Anh em chúng tôi được cưng chiều, ăn mặc không thiếu thứ gì, Mẹ tôi chiều bố tôi muốn tiêu gì cũng không để ý.

Mấy ông bạn cùng sở thấy bố tôi có tiền hay rủ bố tôi đi chơi đi hát, đi nhảy. Mẹ tôi không bằng lòng kêu ca phàn nàn lại bị những người bạn xấu của bố tôi nói khích, chê bố tôi sợ vợ, không dám đi chơi chỉ ở nhà với vợ con. Lâu dần, bố tôi nghe lời mấy ông bạn xấu nết này, ngày nào cũng theo họ đi du hí, ngụp lặn trong chốn ăn chơi, không còn biết đến vợ con. Mẹ tôi không can nổi đành buông xuôi.

Mẹ tôi buồn rấu, lo nghĩ, lại bị buôn thua bán lỗ chi tiêu nuôi các con, bố tôi không cho, bắt mẹ tôi đi buôn bán tiếp. Tiền vốn buôn của mẹ tôi đã cạn dần tiêu vào tiền thuốc, tiền ăn hết. Bố tôi bắt mẹ tôi ở riêng ở căn phòng nhỏ gần bếp lấy cớ sợ lây bệnh lao và chỉ cho đủ tiền mua gạo, mua thức ăn.

Một hôm bố tôi về nhà bảo bà giúp việc lau nhà cửa, thu dọn sạch sẽ, thay khăn giường mới, cắm hoa tươi, Bố lại dẫn anh em tôi đi mua quần áo mới, giầy mới.

Ngày Chúa nhật hôm ấy, mẹ tôi gọi chúng tôi vào phòng nói chúng tôi ở nhà đừng đi đâu chơi, mẹ nhìn các con mẹ mới đỡ buồn. Mẹ chịu nhục nhã vì các con mà sống. Tôi hỏi mẹ tôi sao lại khóc. Mẹ tôi nấc lên nói: “Hôm nay bố đưa dì hai về làm mẹ tủi thân nên mẹ khóc!” Ba mẹ con đang nói chuyện với nhau, tôi nghe tiếng pháo nổ trước cửa, chạy ra xem. Bố tôi khóac tay một người đàn bà khác cùng mấy người bạn trên xe bước vào nhà. Họ chia nhau ngồi vào bàn ăn, bố tôi đã thuê người bầy sẵn.

Sau này tôi mới biết, bố hay đi hát đã mê cô Huệ tức dì hai, là cô đầu ở Khâm Thiên. Cô này bắt bố tôi phải cưới đàng hoàng để lấy mẽ với bạn bè, lấy le với bồ cũ. Mấy người bạn của bố tôi gọi anh em tôi vào nhưng bố đuổi anh em tôi xuống bếp ăn với u già.

Từ ngày có dì hai, bố tôi hay đánh mắng chúng tôi, nhất là những lúc dì hai sai tôi làm gì mà tôi không làm bị bố đánh thật đau, bắt phải lễ phép với dì, gọi dạ bảo vâng, thưa gửi. Rồi dì hai lấy cớ tôi lớn, cho u già nghỉ việc, bắt tôi nghỉ học ở nhà nấu cơm, quét nhà, giặt quần áo, làm những việc trước kia u già làm. Bố và dì hai đi ăn cơm tiệm, chỉ đưa tiền đủ để mua gạo, củi, nước mắm. Mẹ con tôi sống thật thiếu thốn đủ thứ. Cũng may thỉnh thoảng bạn buôn của mẹ tôi và mấy bà hàng xóm thương tình tới giúp đỡ thăm nom yên ủi mẹ con tôi.

Cuối năm 1946, tự vệ thành tới nhà đục vách tường thông sang các nhà hàng xóm để phòng đánh nhau. Bố bảo mẹ tôi dẫn anh em tôi đi lánh nạn còn bố tôi đi với dì hai. Mẹ con chúng tôi không biết đi đâu, muốn về với ông bà ngoại, sợ ông bà còn giận. Mẹ tôi nghĩ bà nội còn một mình thấy cháu nội cũng mừng nên kiếm đường tới nhà bà nội.

Trái với sự mong muốn, bà nội tôi lạnh nhạt hỏi loạn lạc về quê biết làm gì mà ăn. Bà cho mẹ con tôi ở một gian nhà nhỏ sát bếp.

Hai tuần lể sau, bố tôi cũng đưa dì hai về ở với bà nội. Khác với mẹ tôi, di hai ăn mặc sang trọng, đem theo quà về biếu bà nội, vải lụa, giày dép đủ cả nên bà nội vui vẻ hỏi han và dọn căn phòng nhà trên cho bố và dì hai ở, bắt mẹ con tôi làm cơm cho bố và dì hai ăn. Tôi tức quá chảy nước mắt. Mẹ tôi an ủi: “Thôi con nhẫn nhục mấy hôm nữa mẹ sẽ dẫn con về ở với ông bà ngoại. Loạn lạc chắc ông bà cũng tha thứ cho mẹ.”

Một bà hàng xóm tốt bụng tới thăm thấy cảnh bất công, an ủi mẹ tôi. Mẹ tôi nói:

-Tôi bị bệnh không thuốc uống, còn phải hầu cơm nước cả nhà. Tôi lượng sức không biết có kịp đưa các con tôi về Hưng Yên nương náu ông bà ngoại không? Tôi có viết sẵn địa chỉ nhà bố mẹ tôi, nếu chẳng may tôi chết, xin bà làm phúc chỉ đường cho các cháu hay có thể hơn thế nữa, nhờ bà nhắn tin cho bố mẹ tôi đưa người đến đón các con tôi đi. Tôi biết các con tôi ở với bố và bà dì ghẻ chúng sẽ bị đánh chửi và sẽ khổ đến thế nào nếu tôi chết.

Sau buổi nói chuyện với bà hàng xóm, mẹ tôi có vẻ bình thản hơn. Mẹ tôi nói: “Chờ về với ông bà ngoại các con sẽ được đi học, ăn mặc đầy đủ hơn.” Mẹ tôi lại gói sẵn quần áo, giấy tờ làm hai gói, một lớn một nhỏ và dặn chúng tôi không được nói cho ai biết.

Hai ngày sau, buổi sáng định mệnh hôm ấy, mẹ tôi ra cầu ao bưng rá gạo, Nhìn mẹ tôi đi không vững, tôi nói mẹ tôi chờ tôi nhúm lửa xong sẽ ra vo gạo cho. Than ôi! Đâu còn kịp, một tiếng kêu “ùm”, tôi nhìn ra, mẹ tôi đã nằm sấp trên hòn đá cầu ao, rá gạo rơi chìm xuống nước. Tôi gọi, mẹ không nói gì. Tôi lấy hết sức kéo mẹ tôi đứng lên, dìu mẹ vào bếp. Nhìn mặt mẹ tôi xanh vì lạnh, tôi lấy chiếu phủ lên người cho mẹ tôi. Bà nội tôi nghe tiếng kêu chạy ra thấy mẹ tôi đánh đổ gạo xuống ao, bà tru tréo quát ầm phải xuống ao mà vớt gạo lên. Dì hai cũng chạy ra nói thêm: “Mẹ mày không dám lội xuống ao, thằng Quang phải xuống vớt gạo lên.” Tôi đang ngồi bên mẹ, lòng quặn đau thương mẹ, nghe thế tôi tức quá nói:

-Nước lạnh lắm, tôi không lội xuống ao được. Dì xuống mà vớt gạo.

Tôi vừa nói xong, dì hai quát lớn:

-Đấy, anh nghe con anh nói với tôi già giẻo như vậy đấy.

Bố tôi ra sân tát tôi mấy cái chúi đầu xuống vào chiếc bàn làm gẫy chiếc răng cửa. Tôi khóc chạy vào bếp cạnh mẹ tôi. Mẹ tôi mở mắt nhìn máu miệng tôi chảy ra, chỉ nắm chặt lấy tay tôi rồi nấc lên mấy cái và từ từ nhắm mắt lại. Tôi không biết mẹ tôi đã chết, nắm lấy tay mẹ tôi hồi lâu thấy lạnh dần. Bà nội tôi mang gạo khác ra gọi mẹ tôi không thấy đáp mới phát giác ra mẹ tôi đã chết. Bà nội tôi gọi ầm ĩ mọi người. Hai anh em tôi nghe mẹ tôi chết chúng tôi cứ ôm mẹ mà khóc. Tôi không còn biết sợ bố nữa, vừa khóc vừa chửi dì hai vì dì hai mà mẹ tôi chết. Vì có đông người, bố tôi không dám đánh tôi, chỉ bắt tôi im không được nói gì. Tôi thương mẹ quá, liều rồi, cứ tiếp tục chửi dì hai.

Ngày hôm sau, người ta đưa mẹ tôi đi chôn, quan tài là chiếc phản cũ mà mẹ tôi vẫn nằm. Người ta cưa phản đóng lại thành áo quan. Bà nội thắt khăn trắng lên đầu hai anh em tôi, đi theo quan tài có bố và cả bà hàng xóm tốt bụng cùng đi với anh tôi ra nghĩa địa. Tôi thấy bà ta cũng khóc, mắt đỏ hoe.

Lấp đất xong, mọi người ra về, còn hai anh em tôi không chịu về. Bố tôi nói sẽ thay mẹ thương các con hơn. Tôi trả lời: “Bố ác lắm, bố bắt mẹ phải hầu di hai nên mẹ chết”. Bà hàng xóm chen vào nói: “Ông Phán về trước để tôi khuyên các cháu đi về sau.” Bố tôi đi khỏi, bà ta sẽ nói với tôi.

-Bác đã nhờ người đưa tin cho ông bà ngoại cháu biết. Trong mấy hôm nữa sẽ có người đến đón các cháu. Cháu không được nói cho bà nội và bố cháu biết. Khi nào thấy bác tới nhà xin hỏi bà nội miếng trầu thì cháu dắt em cháu ra sau vườn chui qua hàng rào đứng sẵn ngoài đường chờ bác.

Chúng tôi về nhà, sau đó suốt mấy ngày chúng tôi ngồi trước hè đợi bà hàng xóm. Bà nội hay bố bảo làm gì tôi còn làm. Dì hai tôi coi như người thù, gọi hỏi tôi không trả lời, bố chửi tôi cũng mặc kệ.

Tới ngày thứ năm sau ngày mẹ tôi chết, chúng tôi mới thấy bà hàng xóm tới xin bà nội tôi miếng trầu. Hiểu ý, tôi dắt em tôi ra vườn sau chui rào ra đường đứng chờ. Một lúc bà hàng xóm đi với một bà nữa tới, đưa cho tôi một gói nói là cửa mẹ tôi gửi trước và nói đi theo bà này về với ông bà ngoại. Hai anh em tôi chỉ nói được câu cám ơn. Cho đến bây giờ, tôi vẫn chưa gặp lại và cũng không biết đến cả tên bà hàng xóm tốt bụng.

Chúng tôi theo người đẫn đường về đến Hưng Yên. Ông bà ngoại tôi hỏi, tôi kể mẹ yếu đau làm sao cho đến lúc chết. Bà ngoại khóc thương mẹ, lại trách ông ngoại quá nghiêm khắc không chịu cho người đi tìm mẹ. Đền bù lại, ông bà ngoại yêu chiều săn sóc anh em chúng tôi, lo lắng cho chúng tôi mọi sự.

Năm 1954, hiệp định Genève ra đời, ông bà ngoại đưa cả nhà vào Nam. Lúc đầu khó khăn, ông bà vẫn cho chúng tôi đi học. Đến tuổi động viên, tôi đi học sĩ quan Đà Lạt, mấy năm sau em tôi xong Tú tai hai đi dậy học, lập gia đình. Hai ông bà ngoại đã già, nhìn chúng tôi an ủi tấm lòng và nói:

-Các cháu đã thành danh, đã có gia đình. Ông bà đỡ ân hận với mẹ các cháu, vì đã bỏ bê mẹ các cháu chết tức tưởi ngày trước.

Mỗi khi nhớ lại thời thơ ấu chịu nhiều đắng cay, thương mẹ chịu nhục nhã, tôi lại thù người dì ghẻ ác độc, khinh ghét những người đàn ông mê muội để cho dì ghẻ hành hạ con mình. Tôi thề trong đầu không bao giờ để con tôi phải chịu cảnh đó, thà tôi chịu ở góa nếu nhà tôi chết sớm.

Như câu ca dao: “Mấy đời bánh đúc có xương, mấy đời dì ghẻ có thương con chồng.” Tôi thường khuyên trong họ hàng, bạn bè có ai chẳng may gặp cảnh vợ chết sớm, hay cảnh cơm chẳng lành, canh không ngọt, hãy thương đến đàn con dại, nuôi dậy cho chúng học hành khôn lớn biết tự túc, đủ trí khôn góp mặt với đời, rồi hãy nghĩ tìm người thay thế làm chủ gia đình.

Kinh nghiệm riêng cho tôi thấy những người đàn ông bạc tình khinh bạc người vợ đầu đời, đến khi lấy người vợ thứ hai thường là xấu người, xấu tính, dữ dằn, hay ăn hiếp chồng. Âu cũng là quả báo cho những người đàn ông đã phụ rẫy người vợ hiền lành nết na đầu đời của mình như trường hợp bố tôi vậy.