Chương 7 Trên đồng cạn, dưới đồng sâu..
Chương 7
trên đồng cạn, dưới đồng sâu..
ôi xách cái thúng bước lững thững theo đoàn con gặt. Sáng nay trời quang mây tạnh, gió thổi hiu hiu. Trên mặt đê đất đã khô, chỉ một vài nơi nước còn đọng lại trên những lằn bánh xe bò lún sâu vào đất ngày hôm qua. Nước phản chiếu ánh mặt trời ban mai lấp loáng lên gương mặt đoàn con gặt.
Đêm qua trời tự dưng đổ mưa thật lớn vào lúc nửa đêm. Tôi thức giấc vì tiếng gió rít cùng những loạt mưa nặng hạt lộp độp trên nóc nhà. Không ngủ được, tôi nằm im nghe tiếng con dế ma nỉ non dưới bếp đất hòa lẫn với tiếng gió rung bụi chuối sau hè nghe phành phạch. Một lúc lâu gió lặng bớt, mưa nhẹ dần. Tiếng nước mưa nhỏ giọt từ trên mái hiên nhà xuống cái lon để trước sân nghe lộc cộc đều đặn như tiếng gõ mõ tụng kinh. Ba tôi thức giấc lò dò bật que diêm ẩm mấy lần để thắp chiếc đèn dầu mang xuống bếp, ông lục tìm lấy cái chậu để dưới đất hứng nước mưa giọt xuống từ chỗ mái nhà giột. Ngửa mặt nhìn lên trần nhà, ông lẩm bẩm:
“Chắc mai phải trèo lên lợp lại cái mái rạ!”
Tôi xoay mình vào phên tường, cố dỗ giấc ngủ vì mai còn phải dậy sớm để theo con gặt.
Bụi chuối sau vườn đêm qua gió thổi quá mạnh, lá già lá non rách bung tơi tả. Mấy cây chuối con gãy nằm ngã nghiêng. Đàn gà con sáng ra đã theo mẹ ríu rít đi ăn. Nền trời trong xanh. Từng cụm mây trắng cao lờ lững trôi. Gió sớm thổi tạt vào mặt tôi thấy mát lạnh. Đang suy nghĩ vẩn vơ chân tôi vấp phải hòn đá đau nhói làm tôi khựng lại vài giây. Tôi hấp tấp bước vội theo đoàn con gặt, thấy trên tay ai nấy cũng cầm liềm cùng giây lác và giỏ cơm trưa. Tôi sực nhớ chắc mình có quên một cái gì đây? Nhưng tiếng hò hát của đoàn con gặt lấn át trí tôi làm tôi cũng quên luôn điều mình muốn nhớ, tôi bật tiếng hò theo họ những chỗ tôi biết. Có con chó nhà ai cũng chạy theo phụ họa sủa vang.
Đây là lần đầu tiên tôi đi mót lúa. Tối hôm qua khi ba tôi qua thăm nhà ông dượng, thấy trước sân một đám thợ gặt đang ngồi nghe ông phân phối công việc cho họ vào ngày mai. Sau khi dặn dò đám thợ gặt xong, ông xoay ngang ba tôi bảo, ngày mai nhớ cho thằng nhỏ đi theo mót lúa và cũng nhớ dặn nó đem theo cái thúng lơn lớn nghe. Ba tôi dạ, về nhà lấy một cái thúng để sẵn trước sân dặn tôi sáng mai theo họ.
Sáng hôm sau khi đoàn con gặt đi ngang qua nhà, tôi cầm thúng theo ngay. Len lỏi lên phía trên tôi bám sát theo chị Nhàn, cháu gái của ông dượng tôi. Đến thửa ruộng của ông tôi, chị Nhàn và con gặt cùng nhau dừng lại. Họ sửa soạn liềm móc cùng giây lác để buộc lúa. Đoàn người xắn ống quần lên quá gối rồi thong thả bước xuống. Những nhánh lúa nặng trĩu cành oằn những hạt vàng thẩm, vàng suốt cả cánh đồng. Nước ruộng có chỗ xâm xấp còn lại vì cơn mưa lớn đêm qua. Tiếng roạt roạt của liềm hái bắt đầu hoạt động. Tôi bước xuống theo chị Nhàn, nước ban mai lạnh và ngập gần đến mắt cá chân. Con gặt xếp hàng ngang và tiến đều đặn. Gặt đến đâu họ gom lúa trong tay, đến khi đầy họ tìm chỗ khô xếp lại từng đống trên ruộng, lấy lạc bó lại thành từng ôm. Tôi bước sau chị Nhàn, hễ nhánh lúa nào rơi rớt ra ngoài mà con gặt không cột vô thì tôi được phép lấy. Có mấy thằng nhỏ như tôi cũng theo bà con nó đi mót lúa. Nhưng mấy con gặt kế bên ít khi để rơi rớt nhiều, họ túm lấy rồi cột lại thành từng bó ngay, riêng chị Nhàn thì cố tình để rơi rớt nhiều hơn cho tôi. Từ sáng tới trưa tôi đã lượm được gần một thúng bèn lên bờ kiếu chị Nhàn để chạy về nhà. Tôi lật đật ôm thúng lúa mót lên bờ chạy một mạch về nhà đổ xuống sân, đến cái lu hứng nước mưa cầm chiếc gáo dừa uống một hơi rồi chạy ngay ra ruộng mót nữa.
Đến ruộng thì đã giữa trưa, con gặt ai nấy cũng dừng tay lên bờ tụ tập để ăn trưa. Người thì mang cơm, kẻ mang xôi, lên bờ ruộng hoặc vào núp dưới bóng lùm tre gần đó cho mát. Họ ăn trưa một cách vui vẻ. Riêng tôi vì lo chạy về bỏ lúa rồi chạy ngay ra để mót tiếp nên quên cả vụ ăn trưa. Thấy mọi người ăn tôi mới chợt nhớ ra rằng mình đã quên xới cơm theo. Thảo nào thấy xót xót trong bụng, cũng vì ham mót lúa nên quên cả chuyện ăn trưa!. Chị Nhàn thấy tôi còn nhớn nhác dưới ruộng bèn kêu lên bờ ngồi chung với chị. Tay chị cầm cái nón quạt lấy quạt để, mồ hôi trên trán và trên má chị chảy ròng ròng. Chị ngưng tay mở gói xôi ra, định ăn, nhưng khi thấy tôi ngồi im, chị liền hỏi:
“Chớ em đã ăn chi chưa?, răng không thấy đem cơm theo?.
Tôi đáp:
“Hồi nãy em về nhà trút vội rổ lúa mót chạy ngay ra đây nên quên đem cơm! Nhưng em không đói lắm vì sáng đã có ăn khoai rồi. Để chút chiều về ăn luôn thể.”
Chị cười thuần hậu:
“Thằng ni thiệt, ham mót lúa quá nên quên cả ăn, thôi ngồi đây ăn miếng xôi với chị.”
Tôi lắc đầu bảo không đói, nhưng nhác thấy đồ ăn là kiến bò bụng rồi, vì sáng nay chỉ ăn có mấy củ khoai sùng còn lại tối qua. Gáo nước lạnh làm cho bụng tôi trống trơn và kêu rột rột nãy giờ!. Chị Nhàn cũng tâm lý lắm, biết tôi đang đói nhưng ngại ngùng không lẽ mới hỏi thì ừ liền sao, nên chị cầm tay tôi dúi vào một cục xôi và bắt phải lấy. Chỉ chờ có thế, tôi vui vẻ nhận liền. Nói nào ngay, miệng tôi lúc đó thoái thác cho có lệ chớ trong bụng thì lại muốn chị mời! Tôi cầm xôi nhưng thấy hơi ngượng, bèn xây mặt qua chỗ khác. Ăn xong mọi người lại lục tục kéo nhau xuống ruộng.
Chị Nhàn hơn tôi năm sáu tuổi chi đó. Tuổi mười bảy bẻ gãy sừng trâu. Chị không đẹp lắm, dáng người rắn chắc khỏe mạnh, nước da ngăm ngăm, tóc đen nhánh chấm ngang vai. Chị là đứa con gái duy nhất của bác tôi kêu ông dượng tôi bằng ông nội. Con nhà khá giả trong làng nên chị cũng được đi học buổi sáng ngoài chợ Hà Lam, nhưng đang nghỉ hè về nhà lo giúp đỡ cha mẹ cơm nước và gặt lúa. Chị giỏi việc bếp núc lắm, cùng với mấy người làm lo cho cả chục miệng ăn vào mỗi vụ mùa. Khi mùa gặt đã xong thì đến lúc bà con trong xóm tụ họp bên sân nhà chị đập lúa giã gạo sáng đêm. Chị thương tôi lắm và coi tôi như em. Nhiều lần chị qua nhà thăm ba mẹ tôi thấy tôi ngồi một mình trước sân, chị đến ngồi bên vuốt tóc tôi hỏi:
“Chắc em buồn lắm hỉ, ở đây không có ai trang lứa mà chơi! Em nhỏ lớn ở tỉnh đâu có quen việc nhà quê?! Mẹ em thì nằm liệt giường, chị thấy em cực chị thương lắm.”
Tôi rơm rớm nước mắt. Tôi mến chị từ hôm ấy, nhưng ít khi tôi qua nhà chị, trừ khi nào bên nhà chị có đi nhổ đậu đen hay đậu phộng chị kêu tôi qua ăn đậu luộc.
Đoàn thợ gặt ăn uống đã xong, họ bắt đầu xuống ruộng gặt tiếp. Cái nóng buổi chiều hâm hấp trên ruộng làm mọi người không buồn nói chuyện với nhau. Ai lo phần nấy. Chỉ nghe tiếng lưỡi liềm sột soạt cắt lúa mà thôi. Vài tiếng chim kêu “bắt cô trói cột” vang rân trong xóm gần đấy, còn lại là tiếng lỏm bõm của con gặt bước đi trong ruộng.
Tôi lót tót chạy theo chị Nhàn. Có vài thợ gặt nhìn tôi lắc đầu chặc lưỡi, chắc thấy tôi là dân tỉnh thị chưa bao giờ lam lũ như dân quê, nhưng cũng có người nhìn tôi mà mặt chẳng hề tỏ chút cảm tình, có lẽ họ cho tôi là con của đám tản cư đến đây dành mót lúa với mấy thằng nhỏ trong xóm.
Theo sau đoàn thợ gặt, tôi thấy họ yên lặng say mê công việc. Thinh thoảng có vài tiếng hỏi han nho nhỏ hay dừng tay lại quấn điếu thuốc hoặc lầm bầm kể lể chuyện nhà cửa mưa gió tối qua. Mồ hôi đẫm trên lưng nhễ nhại, biến cái áo vải đen của chị Nhàn thành từng đám trắng loang lổ, mồ hôi muối khô đọng lại trên áo nom như chị đang mặc áo vá. Tôi chậm rãi đi theo và lượm từng nhánh lúa rơi, thỉnh thoảng đứng thẳng người lên nhìn đám con gặt chỉ thấy toàn mông đít và nón lá. Họ lội bì bõm trong ruộng, chân người nào cũng bê bết bùn đen. Tôi nhìn họ và rồi nhìn lại tôi! Mới mấy tháng trước đây tôi vẫn còn là cậu học trò thư sinh chẳng biết một chút gì về đồng áng. Nay nghiễm nhiên trở thành một thằng nhỏ nhà quê chính cống! Một nỗi buồn man mác xâm chiếm lòng tôi kể từ đó. Nhưng tôi cảm thấy tôi hòa mình với họ, những người nông dân chất phác chân lấm tay bùn quanh năm vật vã với nắng mưa trên ruộng đồng. Bài ca dao trong quốc văn giáo khoa thư thoạt hiện lên trong đầu tôi với hoạt cảnh: “trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa!” Hai chiếc xe bò ở đâu trờ tới đậu ở cuối ruộng. Mấy người trai trẻ nhảy xuống khuân các bó lúa mà con gặt đã bó sẵn đem lên xe. Khi chất đầy họ đánh xe đi. Ruộng còn trơ lại những gốc rạ nửa khô nửa ướt.
Chiều hôm đó trên đường về tôi hớn hở vì được thêm nửa thúng lúa nữa. Về nhà đổ chung với đống lúa lúc sáng ở sân để phơi cho khô, chờ tới khi nào bên sân ông dượng nhà tôi có đập lúa tôi sẽ mang sang nhờ họ đập. Và cứ thế liên tiếp cả mấy tuần sáng nào tôi cũng xin đi theo con gặt. Hết ruộng này đến ruộng khác. Nhưng cũng có ruộng họ không cho mót, chỉ dành riêng cho bà con họ. Người tôi đen dòn, tôi ốm thấy rõ, nhưng cái ốm rắn chắc. Mặt tôi rám nắng hồng lên như mặt con gái thấy trai. Những hôm nào có chị Nhàn đi gặt thì tôi theo chị để được lúa mót nhiều hơn. Cuối mùa tôi được một đống lúa to, khi đem qua nhà ông dượng đập lúa ra tôi nhớ mang máng cân cũng được gần 4, 5 giạ. Ba tôi cất lại một giạ làm lúa giống, còn bao nhiêu xay ra gạo ghế sắn khoai ăn cũng được trên dưới nửa năm. Từ đó trở đi cho đến khi khôn lớn, cho dẫu đến lúc khá giả, tôi vẫn quý từng hạt cơm và ăn không bỏ mứa. Tôi trân quý từng hạt cơm hạt gạo và hay dặn con cái rằng: “mồ hôi và nước mắt của bao nhiêu người nông dân đổ ra cho chúng ta mới có lúa gạo mà ăn, đừng bao giờ phung phí hạt ngọc trời cho”.
Đang ngồi trước sân chơi với thằng em, bỗng thằng Nẩu ở đâu chạy đến cho biết chiều nay anh em nó đi đánh chim chà chiện, nó xin anh nó cho tôi đi theo. Tôi hỏi đánh ở đâu, thì nó chỉ mấy đám ruộng của nó đã gặt từ mấy tuần trước, nay chim lúa đi ăn tối về đậu dưới gốc rạ để ngủ. Anh Hai và mấy bạn của anh nó sẽ đi đặt bẫy đêm nay. Tôi hỏi nó:
“Chim gì mà mày kêu là chà chiện?”
Nó nói:
"Thì là chà chiện chớ chim chi?”
Tôi cũng chẳng tò mò hỏi thêm sợ nó giận không cho đi theo, tôi bảo ngay với nó:
“Ừa, chiều tao sẽ chạy qua ngay.”
Tôi hớn hở chạy qua nhà thằng Nẩm thì đã thấy anh Hai nó và bốn người thanh niên lực lưỡng đang hì hục giăng lưới trước sân, sau đó cuộn tròn lưới lại vào hai khúc tre lớn. Chiều cao mỗi khúc cũng đến 5, 6 thước là ít. Lưới cột từ đoạn tre bên này giăng qua đến đoạn tre bên kia. Chiều dài của lưới ước chừng cũng từ 8 đến 10 thước. Cuộn xong, hai người vác một đầu phía trước, hai người vác phía sau ra đi. Tôi và thằng Nẩu với một người lớn cùng hai thằng nhỏ nữa chạy theo sau đám họ. Lúc đó trời đã ngã về chiều, ráng đỏ phía tây sáng ửng cả một vùng, tôi lẩm bẩm trong miệng, chắc ngày mai có mưa đây. Thường thì nhà nông hay đoán trước trời sắp mưa hay gió bằng những câu ca dao ngắn ngủi nhưng nội dung đầy ắp những kinh nghiệm mà những thế hệ đi trước đã từng trải. Ví dụ như chiều nay trời ráng đỏ ửng thì ngày mai trên 50% sẽ có mưa, vì “ráng vàng thì gió, ráng đỏ thì mưa.” Từng đàn chim đi ăn bay về hướng núi, gió hây hây thổi và mặt trời sắp lặn ở chân trời.
Đến nơi anh em chúng tôi đặt lưới xuống ruộng cách xa với đám ruộng mà chim sẽ đáp xuống vài ba đám và ngồi chờ. Chúng tôi không chờ lâu, chỉ tàn một điếu thuốc, lúc mặt trời vừa gần tắt nắng, bỗng đâu bay về một đoàn chim lúa ước chừng cả mấy trăm con ào ào đến. Chúng lượn qua lượn lại mấy vòng trên thửa ruộng rồi từ từ hạ cánh xuống. Lúc đó tụi tôi nằm sát rạt xuống dưới một đám ruộng khô cách xa để tránh cho chim không thấy người. Đoàn chim hạ cánh rồi bắt đầu râm ran trò chuyện, bấy giờ tôi mới nhớ lại lời thằng Nẩu nói ngọng, gọi chúng là chim chà chiện. Chắc cả ngày lo tung ra đi ăn bây giờ đêm về tụ hội lại chuyện trò kể lể cho nhau nghe trước giờ đi ngủ? Tiếng chim trò chuyện át hẳn tiếng sột soạt của chúng tôi đang nhẹ nhàng vác lưới đến. Chờ cho trời chạng vạng tối, và sau khi chim bắt đầu im lặng để ngủ, mấy anh lướt như êm đến gần bờ ruộng chim ngủ giăng sẵn lưới ra một cách êm thắm. Cứ hai người mỗi bên, tay cầm chắc cọc tre, số còn lại là một anh lớn cùng đám trẻ nhỏ chúng tôi lúi húi đi vòng ra phía trước đối diện miếng ruộng mà chim đậu, ngồi chồm hổm chờ lịnh. Mặt trời đã lặn hẳn, bóng tối bao trùm cảnh vật, và đàn chim cũng lặng lẽ đi vào giấc ngủ. Bỗng một tiếng la ra hiệu của anh Hai thằng Nẩu, chúng tôi hè nhau đứng lên chạy qua đám ruộng chim ngủ, vừa chạy vừa la lớn vang rân trời đất. Chim mới vừa ngủ nghe tiếng la hoảng hồn thức dậy bay tán loạn về phía lưới, trong lúc đó anh Hai thằng Nẩu cùng mấy người bạn đã dựng đứng cái lưới từ bao giờ sẵn sàng ập mạnh lưới xuống. Bị một cú bất ngờ, một số lớn chim mắc kẹt vào lưới kêu en ét, còn lại một số thoát thân được bay dạt ra hai bên lưới. Chúng tôi phụ cuộn tròn lưới lại và mấy anh lớn vác lên vai lục tục trở về. Ai nấy mặt mũi hớn hở, anh Hai nói:
“Chắc cũng trăm con! Kỳ này khá hơn kỳ trước.”
Tụi trẻ con tôi cũng vui như mở cờ trong bụng, vừa đi vừa hát râm ran. Đêm đó đem chim về sân trải lưới ra, chúng tôi chia nhau bắt từng con đập chết, ước cũng đến cả bảy tám chục con. Anh Hai thằng Nẩu chia đều cho mọi người, riêng phần tôi cũng được khoảng mười con, về nhà vặt lông cho má rô ti ăn cơm. Cả tuần sau đó chúng tôi mới ăn hết chỗ thịt chim chà chiện.
Ngày ngày tôi và thằng em mỗi đứa phải đeo sau lưng một cái giỏ nan giống như cái gùi của người Thượng, để vào rừng cạnh nhà kiếm củi. Nhưng số cành cây khô thì rất ít chúng tôi phải cào lá khô dưới gốc cây về chụm thay củi. Những ngón tay cầm viết của tôi không còn tròn và trắng như mấy tháng trước, thay vào đấy đã xác xơ đen đúa, có chỗ trầy trụa và chảy máu, trên bàn tay nhiều vết xước, máu đã đông khô gồ lên thành một vệt hằn dài màu nâu sậm. Vì cào rác quá nhiều nên gân guốc nổi hằn lên trên hai bàn tay. Lòng bàn tay thì bắt đầu chai cứng không còn trong đỏ như trước. Nhưng không đi cào lá thì lấy gì chụm lửa nấu cơm, nhiều khi tôi tủi thân nhìn hai bàn tay ngồi khóc một mình.
Ba tôi mấy lâu nay bận đi lên mạn ngược chữa mấy bệnh lặt vặt cho đồng bào Thượng trên buôn. Bệnh sốt rét ngã nước, bệnh mất ngủ, đau bụng nhức đầu ăn không tiêu, đi tỏng, vân vân. Số là trước khi đi tản cư ông có mang theo một số thuốc thông thường như asperine, gadenan, ký ninh cùng một số thuốc khác kể cả thuốc ta dùng trong tủ thuốc gia đình. Vì kỳ này ông biết tản cư sẽ ở lâu nên cố mua thêm ít thuốc Tây nhiều hơn để mang theo về quê mà xài. Nào ngờ bây giờ lại đến lúc cần thiết dùng tới làm cần câu cơm. Ông cũng biết chút ít về thuốc men, và chích kim. Ở vào thời gian củi quế gạo châu này, ngay ở tỉnh thị bịnh nhân cũng ít khi chịu đi bác sĩ, ngoại trừ trường hợp bịnh nặng lắm mới phải nghĩ tới bác sĩ cùng nhà thương mà thôi. Thông thường thì kêu y tá đến nhà chích khi gặp nóng sốt cảm hàn hoặc tự mua thuốc về nhà uống.
Một hôm trong làng có người bà con bị bệnh sốt rét, ông bèn qua thăm và cho gia đình đó một số thuốc ký ninh. Sau đó bệnh nhân thuyên giảm, gia đình bà con đó sang nhà ba tôi cám ơn rối rít và nói ba tôi mát tay, họ cũng mang theo một ít lúa để trả ơn. Từ đó một đồn hai, hai đồn bốn, hễ trong làng trong xóm có ai bị bệnh thì đều mời ba tôi qua chữa bệnh dùm.
Sau đó ông mới nghỉ ra là tại sao không đi lên mấy xóm trên xem có ai đau yếu thông thường gì không thì theo kinh nghiệm mình có cho họ ít thuốc chữa bệnh mà đổi lấy thực phẩm. Ba tôi thành công trong công việc đó, mấy tháng sau tiếng đồn vang ra và họ gọi ba tôi là ông thầy tản cư. Hầu hết là những bệnh như sốt rét, sốt vàng da, đi tháo tỏng hay một vài bịnh đàn bà do không biết vệ sinh để giữ gìn cơ thể. Khi chữa chạy xong xuôi thường là bệnh nhân trả bằng gạo hay lúa chứ không có trả tiền. Có một bữa chữa bệnh xong thì trời đã tối, thân chủ trả cho một gánh khoai lang, ba tôi đành phải gánh về cho nhà ăn cả tháng, vì thế cũng tạm đủ chi dùng trong nhà, ba tôi khỏi phải nặng nhọc lo cấy lúa và trồng khoai sắn ngoài rẫy.
Thậm chí một hôm có một chị trong xóm đau đẻ cả một ngày một đêm mà chưa đẻ được, họ cũng kêu ba tôi qua giúp dùm. Ba tôi hết hồn nói với họ rằng ba tôi đâu có biết đỡ đẻ. Nhưng họ cố tình nằng nặc đòi ba tôi giúp chớ bây giờ đêm hôm trong làng trong xóm chúng tôi biết đem đi đâu! Ba tôi trong bụng thì đánh lô tô, nhưng ngoài mặt cố bình tĩnh, ông trấn an hai vợ chồng và bảo với bà mụ vườn nấu nồi nước sôi rồi lấy khăn sạch ra cho ông. Lúc đó là thời buổi chiến tranh, trong làng trong xóm nhà quê đêm hôm đâu có xe mà chở bà chửa ra chợ, nơi duy nhất có một căn nhà lá nhỏ làm y viện có cô y tá vườn và một bà đở. Hầu hết mọi người trong làng xóm khi sanh nở đều mời cô mụ vườn đến đở mà thôi. Vậy mà cám ơn Trời, ổng loay hoay sao đó với bà mụ, đến quá nửa đêm thì bà có chửa mới cho thằng nhỏ ra đời và mẹ tròn con vuông. Sáng hôm đó ba tôi về đến nhà mệt nhọc thuật lại cho má tôi nghe, má tôi la bài hải:
“Chu choa…bữa sau ông đừng có làm tài lanh rứa nghe, nhỡ con người ta chết người ta đổ tội cho mình, hơn nữa ông có biết chi mô mà làm mụ đẻ?”
Ba tôi nói:
“Ừa, thì tôi cũng có nói cho họ biết rồi, tôi không phải bà mụ cũng chẳng đở đẻ bao giờ mà họ vẫn không tin, và hứa với tôi rằng họ không có kiện cáo chi mô khi có tai nạn, miễn sao giúp dùm cho mẹ con nó qua là được rồi!”
Lúc đó ba tôi định bỏ về thì họ cố níu kéo, thấy bỏ đi thì nhẫn tâm quá mà ở lại thì mình mần được cái gì đây? Ba tôi bèn hỏi nhỏ bà mụ vườn, bà đáp:
“Tại cái con khỉ ni nó đau quá nó la làng mà thằng chồng nó lại nhác, cửa mình chưa mở hết thì ráng chờ, chớ tui nói rồi, không có reng mô, chiện ni tui gặp nhiều lần lắm rồi cũng xong hết.”
Ba tôi yên chí ngồi yên đó giúp bà một tay và cũng để cho hai vợ chồng kia vững tâm hơn.
Một hôm có người trên buôn xuống nhắn ba tôi lên chữa giùm cho một gia đình người Thượng. Khi ra về trời đã nhá nhem tối, ông gặp một toán Việt Minh mang súng ống đầy mình chận lại hỏi giấy tờ và bắt ông dẫn đi hết mấy ngày. Ở nhà mẹ tôi nóng ruột chờ mãi không thấy chồng về, bà lo lắng ra mặt, khóc lóc cả đêm vì không đi được để tìm ông. Phần tôi thì còn nhỏ quá đâu có biết đường nào mà đi tìm ba tôi. Tôi bèn chạy qua nhà ông dượng cho ông hay ba tôi đi đã hai bữa nay mà chưa thấy về. Ông cũng lo lắng ra mặt và dặn các chú bác tôi nếu ngày mai không thấy ổng về thì đổ ra đi tìm, mặc dầu không ai đoán được rằng ông đang ở đâu?. Ông dượng tôi nghe xong lật đật qua nhà an ủi mẹ tôi, hứa một hôm nữa không thấy sẽ cho bầy nhỏ lên miệt trên để tìm ba tôi. Mẹ tôi an lòng một tí, nhưng nằm trên giường mà thao thức suốt ngày đêm. Tôi cũng không đi hốt rác, cũng chẳng đi đâu chơi nữa dù mấy thằng bạn qua nhà rủ rê đi bỏ lờ. Tôi chỉ loanh quanh với thằng em sau nhà kiếm củi vụn hoặc qua nhà ông dượng mượn ít củi khô về nấu ăn. Cả nhà mẹ và tôi buồn bã, bà chả thiết ăn uống gì. Duy có tôi và thằng em thì không nhịn đói được nên mỗi ngày nấu nồi khoai lang hay sắn (khoai mì) ăn cho đỡ đói để chờ ba tôi về. Sáng ngày thứ ba, ba tôi lù lù về mặt mũi có phần âu sầu lo lắng. Gia đình chúng tôi tạ ơn Chúa vô cùng vì sau những đêm ba tôi đi vắng má tôi đều cầu nguyện tha thiết cho ba tôi được bình yên trở về. Ông cho biết, sau khi chữa bệnh xong, ông ra về với một bọc gạo sau lưng thì gặp một số người xưng là Việt Minh. Họ chận ba tôi lại trên đường về và hỏi ba tôi lên đây làm chi?. Ba tôi đáp, ba tôi là thầy thuốc nên có bệnh nhân trên này phải lên khám bịnh và cho thuốc. Họ hỏi tiếp: “vậy ông là bác sĩ à?”Ba tôi nói không. Tôi chỉ là người biết ít thuốc Nam và thuốc Tây trị những bệnh thông thường và chỉ giúp những người có bịnh như sốt rét, đau bụng tháo dạ hoặc những bịnh không ngoài sự hiểu biết của ba tôi mà thôi. Họ nghi ngờ ba tôi làm gián điệp cho Tây, mang ba tôi trở lại gia đình người Thượng và hỏi lại có đúng như vậy không? Sau khi biết đúng rằng ba tôi chỉ đi chữa bệnh, họ giữ ba tôi lại một ngày nữa để tra hỏi thêm về quá khứ của ông, làm chi mà tản cư đến đây? Ba tôi khai thật tất cả ngoại trừ việc làm quan thuế cho Tây, chỉ nói là có cửa hàng buôn bán ngoài thành, vì má tôi đau nặng phải tản cư về quê để tĩnh dưỡng và tránh chiến tranh. Sau một ngày nữa họ giữ ba tôi lại, thấy không có gì khả nghi họ cho ba tôi về và nói rằng vì ông biết chữ, biết đánh máy nên ông phải lên trên đó làm cho họ hai ngày một tuần để đánh công văn và chỉ thị. Ba tôi đành phải chấp nhận và cứ mỗi tuần hai ngày lên trên buôn để đánh máy và làm một vài công việc hành chánh.
Lúc đó ngoài thành (Đà nẵng) Tây vẫn còn đóng giữ. Tây đi tuần tiễu vào ban ngày, nhưng về đêm là của Việt Minh. Tây đóng trong đồn có căng giây kẽm gai và đắp nhiều bị cát xung quanh, trỏ súng lớn súng nhỏ ra ngoài. Nhiều đêm các đồn lẻ tẻ ngoại thành bị Việt Minh pháo vào và tấn công suốt đêm. Ở các làng xóm xa như làng quê của ba tôi là hoàn toàn yên tĩnh và do Việt Minh nắm giữ. Họ bắt đầu tụ họp dân làng ra Hà Lam nghe thuyết trình về chủ nghĩa Cộng sản chi đó và hô hào giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Tây. Họ cũng phát cờ cùng hình ảnh của một ông già má hóp có chòm râu lưa thưa trên cằm. Dân làng thoạt đầu mới nghe thấy rất lạ và có lắm người thích thú, sau đó Việt Minh kêu gọi thanh niên trai tráng trong làng đi kháng chiến chống Pháp dành lại độc lập và ai có học biết hát biết hò ăn nói chững chạc thì sung vào đoàn thanh niên tiền phong. Làng tôi ở cũng có một số trai tráng lên đường, ra mặt xin gia đinh đi đàng hoàng nhưng cũng có một số gia đình không chấp thuận thì họ bỏ trốn theo Việt Minh. Mấy tháng sau khi làm thư ký đánh máy không công cho Việt Minh trên buôn, một hôm ba tôi lên làm như thường lệ thì thấy toán Việt Minh đã dọn đi đâu mất. Hỏi mấy người Thượng trong buôn họ cho biết Việt Minh đã dời đi từ tối hôm qua vì bị động sao đó, sợ Tây vô ruồng. Từ đó ba tôi về nhà dưới làng không lên trên buôn làm việc nữa.
Một buổi sáng khi đang mang cơm lên cho mẹ, tôi thấy mấy ngón chân của bà nhúc nhích. Tôi đứng lại dòm cho kỷ, thấy hai ngón chân cái của bà ngo ngoe đụng đậy qua lại. Tôi vui quá suýt làm đổ bát cơm. Để vội cơm trên chõng tre gần đó, tôi hỏi mẹ tôi liên tiếp:
“Má, má…ngón chân của má động đậy được rồi tề.”
Má tôi gật gật cái đầu, miệng bà cười tươi rói. Bà nói:
“Ra kêu ba vô đi”.
Tôi chạy vội ra sau vườn kêu ba tôi:
“Ba ơi, chân của má đụng đậy được rồi.”
Ba tôi đang lom khom lượm trứng của con gà mái vừa mới đẻ, ông nhìn lên mặt hớn hở:
“Rứa hả, rứa hả?”
Ông vội bỏ mấy cái trứng vô giỏ chạy ngay vô nhà. Tôi theo sau mặt mày vui vẻ vì nghỉ rằng mẹ mình sắp sửa đi lại được rồi. Vào đến nhà vô giường mẹ, tôi thấy ba tôi đang bảo mẹ tôi nhúc nhích thêm nữa đi. Bà cố gắng động đậy hai ngón chân cái và sau đó cố co ống chân lên, nhưng chân vẫn còn liệt chưa co lên được. Ba tôi miệng cười tươi bảo với mẹ tôi:
“Thôi đừng ráng, cám ơn Chúa co mấy ngón chân cái lên được là tốt rồi, để thủng thỉnh từ từ rồi sẽ co ống chân sau.”
Ông tiếp:
“Đó là dấu hiệu mấy cái gân trên lưng xuống chân đã hoạt động lại rồi đó.”
Ba mẹ tôi vui quá, ông nắm lấy tay bà giật giật nhẹ rồi hôn trên má mẹ tôi. Mẹ tôi vui nhất, cả ngày bà mừng ra mặt. Chiều đó mẹ tôi một mình đã xây lưng qua lại được nhiều lần, không cần chúng tôi giúp như trước kia khi bà muốn trở mình.
Mấy tháng sau mẹ tôi đã ngồi dậy và chập chững tập đi lại trong nhà. Những tháng ngày đó là những ngày vui nhất trong gia đình tôi kể từ khi bà liệt giường đến nay là đã gần hai năm! Ba tôi vào ra huýt gió lẩm bẩm hát hò cả ngày, chúng tôi cũng vui lây và sốt sắng giúp mẹ đi đứng qua lại trong nhà. Ba tôi ra tận Hà Lam cất thêm thuốc bổ cho bà. Còn mỗi chiếc xuyến vàng trong tay bà cũng đưa cho ba tôi đi bán nốt để mua thêm thuốc thang tẩm bổ. Sau đó ba mẹ tôi bàn với nhau xin ông dượng cho phép dọn lên xóm trên gần đường xe lửa để ba mẹ tôi mở quán bán cho khách đi buôn vào ra trên con đường mòn sát cạnh đường rầy.
Nguồn: MyThanh "Tác giả thân tặng" - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 3 năm 2016