Chương 9 Dinh tê
Chương 9
dinh tê
ông việc buôn bán ở quán ba mẹ tôi càng ngày càng ế ẩm. Sau vụ đi xem Việt Minh xử bắn một người gọi là “Việt gian” thì quán tôi lại càng vắng tanh vì không còn ai dám đi buôn đi bán trên tuyến đường Tam Kỳ-Đà Nẵng nữa.
Số là có một hôm, một đoàn VM, 4 người đi đến chợ Hà Lam, trên vai đều có mang súng ống. Một người trong bọn lôi theo một người đàn ông trung niên khoảng 4, 5 chục tuổi bị cột cả hai tay. Vừa đi họ vừa cầm ống loa la lớn ra hai bên rằng: “A lô, a lô, xin đồng bào nghe cho rõ, ngày mai 8 giờ sáng, xin mời đồng bào ra sân vận động để chứng kiến vụ xử bắn tên Việt gian phản quốc này đã làm mật thám cho Tây.”
Ba tôi bữa đó đi chợ về nghe tiếng ồn ào cũng dừng lại với đám đông nhìn thấy toán VM và người đàn ông nghi can là Việt gian. Ông nhớ mang máng gương mặt người này ông đã gặp ở đâu đó. Về đến nhà ông nói nhỏ với mẹ tôi cái tin là mai 8 giờ VM sẽ hành quyết một người ngoài sân vận động! Một chặp ông đang chẻ củi sau hè, thình lình ông buông vội cái rựa chạy vô quán ngoắc má tôi rồi nói:
“Tui nhớ ra rồi bà ơi, cái thằng cha ni là thằng…(ông ngập ngừng vài giây) mà mấy tháng trước đây nó đi buôn thuốc Tây vô ra ngoài thành, có ghé qua quán mình ăn uống mấy lần đó, bà có nhớ không?”
Má tôi đang làm cá, bà lắc đầu:
“Làm răng tui nhớ hết được! Ối cha, cái mửng ni ai đi buôn ra thành cũng là VG hết rứa răng?”
Ba tôi tiếp:
“Nói nho nhỏ rứa bà, chắc không phải vì buôn bán thuốc Tây lậu mà bị bắn mô! Cùng lắm bán thuốc lậu thì bắt người ta bỏ tù chớ căn cứ vô chỗ mô mà cho người ta là VG rồi đem đi xử bắn?”
Má tôi tiếp:
“Thôi ông ơi! Mình không biết rõ chuyện thì thôi, kệ người ta chớ bàn luận làm chi cho thêm mệt!”
Sáng hôm sau, trước tám giờ ba tôi ra sân vận động và dắt tôi theo để xem VM xử bắn. Hàng xóm trong làng cũng đã tụ tập thật đông, vì đây là lần đầu tiên có vụ xử bắn nên ai cũng háo hức ra xem cho biết. Cũng có đến vài trăm người đi xem, hầu hết là dân trong các làng xung quanh. Một vụ xử bắn hi hữu đầu tiên của cái quận Hà Lam này. Riêng tôi nghe nói xử bắn thì cũng mường tượng rằng có người nào đó làm bậy bị đem ra xử bắn cái bùm, chứ còn chết hay không thì tôi chưa bao giờ thấy và cũng không hình dung được là nó sẽ ra sao. Cái gì lần đầu mà mình chưa biết, chưa gặp thì mình không hình dung được. Đó là tâm trạng của tôi sáng nay, tôi chỉ háo hức vì tò mò mà thôi.
Một chốc tôi thấy một toán 4 người VM mang súng ống đi đến. Hai người đi đầu lôi theo một anh mồm bị nhét đầy giẻ. Anh này bị kêu là VG, bước theo mà chân tay run lẩy bẩy. Tháp tùng theo sau, là hai người VM tay cầm súng dí mũi xuống đất. Anh bị bịt miệng được dắt đi tới một cái cột trồng trước một đống đất cao hơn đầu người. Hàng người đi xem vội dạt ra hai bên. Một người VM mở trói tay cho anh ta nhưng vừa mở xong thì hai người khác chờ sẵn quặt ngay hai tay anh VG ra đằng sau cây cột, rồi cột anh lại. Hai chân anh cũng bị cột. Anh ta đứng nhìn đám đông một lượt mặt cắt không còn hột máu và run như cầy sấy.
Một người VM đến gần bên anh lôi miếng giẻ trong miệng anh ra và quăng xuống đất rồi bịt mắt anh ta lại với một miếng giẻ màu đen. Anh đứng đó cúi gục cái đầu xuống chờ đợi. Chẳng nói chẳng rằng, ba người VM còn lại xách súng ra đằng phía trước anh VG độ khoảng vài chục mét dựng súng đứng thế nghỉ. Người VM bịt mắt anh ta xong lùi ra đứng xa bên tay trái hô lên một tiếng. Ba người VM cầm súng đưa lên trước mặt nhắm vào anh VG. Cả sân banh im lặng, mọi cái miệng đều im thin thít, cũng có người há hốc nhưng không một ai dám hó hé. Im lặng như tờ. Bỗng có tiếng chim cú kêu lên đâu đây. Một tiếng hô vang lên:
"Nhắm..!"
Rồi tiếp theo:
"Bắn!"
Ba tiếng súng đồng loạt nổ vang, anh VG máu ứa ra miệng, cúi gập người xuống. Anh VM có nhiệm vụ hô bắn tiến tới chỗ anh VG, rút súng lục ra nhắm vào đầu anh VG bắn thêm một phát nữa. Tôi thấy đầu anh ta giật một cái rồi gục hẳn sang bên tay mặt.
Tôi lạnh người, níu tay ba tôi đòi đi về. Một cảm giác rờn rợn chạy trong người tôi. Chân tôi đi không vững. Tôi nhướng mắt lên hỏi ba: “Rứa là ông nớ chết rồi hả ba?” Ba tôi gật đầu. Mọi người lục tục ra về, tiếng ồn ào cãi lẫy nổi lên. Tôi nghe có tiếng người đi bên cạnh nói với nhau: “Thiệt đáng đời quân Việt gian phản quốc!”
Kể từ hôm xử bắn người VG trở đi, ba tôi về nhà thường trầm ngâm nghĩ ngợi. Tối tối ông hay ngồi uống nước chè hút thuốc lá suy nghĩ một mình. Thỉnh thoảng ông lắc đầu rồi thở dài. Mẹ tôi thấy ông lo lắng thì chỉ nhìn ông mà không nói năng chi. Tối ngủ tôi để ý thấy ba mẹ tôi hay nói chuyện thì thầm với nhau cả đêm rồi sau đó lại cùng nhau cầu nguyện. Cũng có lúc tôi nghe bà khóc nữa. Tôi không dám để ý tới việc của người lớn chỉ thắc mắc chút đỉnh rồi vì mãi lo chơi nên mọi chuyện cũng qua.
Cho đến một buổi chiều, có một người thanh niên trẻ hơn ba tôi mấy tuổi ghé vào quán uống nước. Sau khi ba tôi chào hỏi thì ông nhìn ra ba tôi và kêu ba tôi là “anh đội”! Ông ta người mảnh khảnh, tóc húi cua, vai mang túi xách, bên hông có giắt khẩu súng lục nổi cộm trong chiếc áo sơ mi trắng bỏ ra ngoài. Ba tôi hết hồn lạnh cả người, giật mình ngạc nhiên nhìn anh trân trân không biết tại sao anh lại biết ba tôi mà còn gọi là anh đội, tức là chức vụ mà trước kia ba tôi làm cho quan thuế Tây. Trong lúc ba tôi đang bối rối thì anh nói tiếp:
“Ủa, anh đội quên tôi rồi hả? Tôi là con ông Chánh Ba ngoài làng Bảo An đây.”
Ba tôi hoàn hồn buộc miệng cười như mếu:
“I’ chu choa, tôi nhớ ra rồi! Anh là?..là?..anh chi chi đây, tôi quên rồi?”
Anh tiếp lời ba tôi ngay:
“Tôi là Thắng đây, con trai trưởng ông Chánh mà ngày trước khi anh còn làm cho Tây, Tây vô ruồng bắt cha tôi nấu rượu lậu, mấy lần nớ không nhờ anh báo trước cho biết thì ba tôi đã bị Tây bắt đi tù rồi! anh còn nhớ không?”
Ba tôi giựt mình và nhớ lại rằng thì là trước kia khi ba tôi còn làm cho quan thuế Đà Nẵng, hễ mỗi lần có người điềm chỉ trong làng chạy ra báo cáo cho Tây biết, làng có người nấu rượu lậu là hôm sau thế nào Tây nó cũng dắt lính vô càn bắt liền. Những lúc như vậy thì ba tôi nửa đêm cho người chạy ngay vô làng báo cho ông Chánh biết, vì ông Chánh cũng nấu rượu lậu lại là chỗ bà con và người cùng làng với ông nội tôi. Ba tôi đáp:
“Nhớ, nhớ, tôi nhớ ra rồi! Sao? Anh Thắng? Anh khỏe không? Bác Chánh ra sao?”
Anh đáp:
“Dạ ba tôi cũng khỏe, nhưng bây giờ già rồi mắt lòa nên loanh quanh lẩn quẩn trong nhà.”
Trả lời xong ông Thắng hỏi ba tôi dồn dập:
“Chớ anh đội dọn về đây bao lâu rồi? Mở quán được lâu chưa?”
Ba tôi nhìn anh rồi nhìn cây súng lục cồm cộm trong lưng có vẻ ngần ngại. Ông hiểu ý ba tôi rồi ghé đầu nói nhỏ cho ba tôi biết rằng ông bây giờ là cán bộ thanh tra vùng cho VM ở liên khu năm này. Hôm nay tình cờ đi ngang đây thấy có cái quán định ghé vô uống nước nghỉ chân, không ngờ gặp chủ quán lại là ba tôi. Ông nói:
“Anh đội không phải sợ, tôi không làm chi anh đâu!”
Ba tôi bớt lo và yên chí nên thật tình kể lể lại hết sự việc từ khi má tôi bị lao xương phải ra Huế mổ, xong rồi về Đà Nẵng thì lại tiếp tục tản cư vì chiến tranh, mẹ tôi liệt giường hai năm nằm dưới Phú Mỹ nay mới bớt được mấy tháng, vì sinh kế nên dọn lên đây dựng quán nấu chè cháo bán qua ngày. Anh nghe ba tôi kể xong, thì ngồi yên suy nghĩ. Một chốc anh nói:
“Thôi tôi đói rồi anh có chi cho tôi ăn, đêm nay tôi ngủ lại đây với anh chị cho vui và cùng bàn với anh chị một việc. Chị đâu? Để tôi vào chào chị một tiếng.”
Nói rồi ông đi thẳng vô bếp. Má tôi thấy người lạ thì hơi khựng lại, định hỏi han thì ba tôi giới thiệu ngay:
“Đây là anh Thắng, con bác Chánh Ba ở ngoài Bảo An đó bà, lâu quá mới gặp, anh đi ngang qua quán mình định ghé vào uống nước, nào ngờ tình cờ anh em lại gặp nhau.”
Giới thiệu xong, ba tôi quay sang ông Thắng và nói:
“Nhà tôi đó anh.”
Ông Thắng gật đầu:
“Chào chị.”
Rồi theo ba tôi ra ngồi ngoài chõng trước. Ba tôi nói với vào:
“Má nó làm cơm mời anh Thắng ăn với mình tối nay nghe. Biểu con Bẻo dọn cái giường thằng T. cho ảnh ngủ lại. Còn nó sang ngủ với em”.
“Dạ.”
Tôi nấp trong nhà ló ra nhìn ba tôi.
Ba tôi nói vọng vô tiếp:
“Cho tôi xin hai bát nước chè nóng nghe, với bao thuốc lá.”
Sau bữa cơm tối, đêm hôm đó ba mẹ tôi đem chõng ra đằng trước nhà ngồi uống nước chè ăn chè ngọt và nói chuyện sáng đêm với ông Thắng. Tôi vì ăn no quá, lên giường nằm chơi với thằng em rồi ngủ khò lúc nào không biết. Sáng ra thì thấy ông khách lạ tên Thắng đã ra đi từ lâu.
Từ hôm đó trở đi ba mẹ tôi dọn dẹp đồ đạc trong nhà lại cho gọn gàng, mở cửa bán lai rai chớ không nấu nướng chi nhiều và tôi để ý thấy ông cất áo quần tiền bạc vào rương sẵn sàng cho một cuộc ra đi. Buổi sáng hôm ông Thắng ra về, ngay sau đó ba tôi đánh thức cả nhà dậy bảo mọi người quỳ xuống giuờng với ông bà để cầu nguyện. Tôi nghe thấy ông bà cám ơn Thượng đế đã trả lời cho ông bà, trong lúc ông bà đang lo lắng bối rối thì Ngài đã sai người đến giải cứu gia đình chúng tôi. Tôi chỉ biết thế thôi!
Rồi một đêm tối trời ba mẹ dắt chúng tôi khăn gói lầm lủi ra đi theo hướng Chợ Được. Ở đó ba tôi đã thuê sẵn một chiếc ghe (lần này ghe nhỏ, không phải ghe bầu) rồi xuôi thuyền trở về Đà Nẵng. Lần đi này im lặng và xuôi chèo mát mái. Đến nơi thuyền cặp bến ở Cống Bà Xin vào lúc xẩm tối. Ba tôi kêu xe kéo chở mọi người về nhà.
Sau này ba tôi cho biết rằng chính cái đêm ông Thắng ghé quán gặp ba tôi, ông Thắng có khuyên ba mẹ tôi nên dinh tê (về thành) gấp, trước khi VM khám phá ra là ba tôi đã làm cho Pháp trước đó. Và cũng chính ông là người cấp giấy tờ cho ba mẹ tôi đi trót lọt về thành mà không bị cản trở chi khi qua các chốt gác của VM. Thật là lạ lùng, không thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên được, mà là phải có một sự sắp đặt, một sự sắp đặt mà cha mẹ và tôi hằng tin tưởng rằng "có Ơn Trên phù hộ", hoặc nói như cách nói của chúng tôi là người có đạo Chúa: “Trong cơn gian truân, ngươi hãy kêu cầu Ta, Ta sẽ giải cứu ngươi”. Chúng tôi lớn tiếng tạ ơn Thượng Đế là Đấng hằng cứu giúp con cái Ngài ra khỏi cơn hoạn nạn.
Nguồn: MyThanh "Tác giả thân tặng" - VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 3 năm 2016