Chương V
Một buổi chiều người ta lại dẫn vào đây hai đứa trẻ. Một đứa lên sáu và một đứa lên tám Cha chúng nó chết trong một cuộc hành quân ở Phát Diệm. Mẹ chúng nó là một người phu hồ thất nghiệp. Người đàn bà đau khổ ấy có bốn đứa con. Một đứa chết hồi tháng trước, một đứa đang nằm ở nhà thương làm phúc và hai đứa này. Trong tình cảnh quẫn bách ấy, bà ta phải gửi chúng nó vào đây. Nom chúng nó tiều tụy quá, chúng nó nhịn đói từ hôm qua nên mặt mày hốc hác, nước da thì tái ngắt vì mỗi đứa mặc có một manh áo phong phanh. Chúng nó không có vẻ gì là kháu khỉnh bởi vì đứa nào cũng ngơ ngác đến độ thẫn thờ. Mẹ chúng nó khi giao con đã khóc với chúng tôi:
– Thôi trăm sự cháu nhờ các bà. Các bà nuôi làm phúc, chứ cháu bây giờ thì chẳng còn biết làm sao.
Rồi bà ta chấm nước mắt.
Nhìn vành khăn tang chít ngang đầu bà, chúng tôi tự hỏi chúng tôi còn sướng hơn bà ta hay sao? Lúc ra về bà ta đi như chạy trốn. Nhưng hai đứa trẻ lại không khóc. Chúng nó cung cúc ngồi ở một góc phòng. Hai chị em nắm tay nhau, giương mắt nhìn chúng tôi với một vẻ sợ sệt. Bà phước Hòa đến dịu dàng an ủi nó, rồi bà đem chúng nó đi tắm. Trong khi ấy tôi tìm quần áo cho chúng nó thay.
Được mặc chiếc áo sợi vào người, chúng đỡ run và mặt có vẻ tươi tỉnh hơn trước. Tôi dẫn chúng nó lên phòng trên và gọi mấy đứa khác lại kể chuyện cho chúng vui.
Nhưng chúng chỉ nghe theo tôi như một cái máy. Câu chuyện dí dỏm của tôi không làm thay đổi được mặt chúng, thỉnh thoảng tôi thấy con bé kéo tay chị nó rồi nhắc đến mẹ. Con chị như hiểu biết hơn khẽ dỗ dành em nó. Lúc ấy tôi thấy tiếng cười của chúng tôi có vẻ độc ác. Tôi phải cho lũ trẻ đi chơi chỗ khác và giở một quyển sách ra cho chúng nó xem tranh ảnh. Nhưng chúng nó lại càng chán hơn. Nhìn cặp mắt hờ hững của chúng nó, tôi phân vân không biết làm thế nào cho chúng nó vui. Vừa may lúc ấy chuông rung báo hiệu đến giờ cơm. Tôi dẫn chúng nó xuống phòng ăn và săn sóc cho chúng suốt buổi.
Đến tối thì con bé con lên cơn sốt. Bây giờ nó mới khóc. Nó nhèo nhẽo gọi mẹ nó làm con chị cũng thút thít theo. Trán nó nóng hầm hập Tôi phải lên xin bà phước Nhân cho nó một viên thuốc. Nó nằm dài trên chiếc giường sắt thỉnh thoảng lại ho sù sụ. Tôi phải đắp thêm lên ngực nó chiếc áo rét của tôi và ngồi chơi với nó suốt buổi tối.
Bé Phượng cũng thương nó lắm. Học bài xong Phượng đem búp bê cho nó chơi. Tay nó mân mê chiếc áo len nhỏ xíu, lúc ấy mặt nó mới hơi vui lên được một tí. Nhưng nó vẫn không nói. Còn bé Phượng thì kể chuyện luôn mồm. Phượng bảo cho nó giờ ăn, giờ tắm, giờ ngủ của con búp bê. Khi nào búp bê lớn, Phượng cũng cho búp bê đi học, dĩ nhiên búp bê sẽ viết bằng tay trái vì tay kia gẫy mất rồi. Con bé thích lắm. Bây giờ mới thấy nó cười. Hai tay nó ôm lấy búp bê vào ngực rồi nó cũng vuốt ve, âu yếm như Phượng mọi ngày. Phượng bảo sẽ cho nó mượn chơi cả ngày mai. Một lúc nó ngủ thiếp đi, hai tay ôm chặt lấy con búp bê. Tôi bảo bé Phượng đi chơi chỗ khác và sờ lại đầu nó. Trán nó bây giờ còn nóng hơn lúc ban chiều. Tôi lo lắng đi tìm bà phước Nhân và xin cho nó thêm hai viên thuốc. Bà Nhân dặn đến sáng mai mà nó không bớt thì cho đi tìm bà Madeleine.
Khi tôi về phòng thì nó vẫn ngủ. Điều ấy làm tôi yên tâm hơn. Tôi gấp đôi cái mền lại đắp kín ngực cho nó rồi trở về giường. Lúc ấy đã hơn mười giờ. Dãy đèn giữa đã tắt hết Trong phòng chỉ còn ánh sáng vàng nhạt. Vì mệt mỏi nên giấc ngủ đến với tôi một cách êm đềm.
Hơn mười hai giờ, tiếng khóc của con bé làm tôi tỉnh dậy. Trán nó nóng rừng rực. Thỉnh thoảng nó lại ho rũ rượi. Nó nhất định đòi về với mẹ nó. Tôi ôm nó vào lòng hết lời dỗ dành, nhưng nó vẫn khóc. Một lúc chân tay nó dúm lại, mắt trợn lên và nó bắt đầu lên cơn sài.
Tôi hốt hoảng lại đập cửa phòng bà Hòa phải thường trực hôm ấy. Bà Hòa cũng vội vã theo tôi đến với nó. Tiếng khóc của nó làm một vài đứa tỉnh dậy, dụi mắt ngơ ngác nhìn. Bà Hòa sờ khắp người nó lo lắng. Nhưng chúng tôi cũng chỉ biết ôm chặt nó vào lòng mà gọi nó. Từ đó đến sáng, nó lên cơn sài tất cả năm lần, rồi ngủ thiếp đi. Tờ mờ sáng bệnh của nó có vẻ trầm trọng hơn, tôi phải đi tìm bà Madeleine.
Nghe ngực nó, bà Madeleine bảo nó đã bị sưng phổi từ mấy hôm nay. Trong khi tiêm, bà trách chúng tôi sao không gọi bà sớm. Nhưng khi biết nó mới vào từ chiều hôm qua thì bà chỉ nhìn nó lắc đầu thương hại.
Đến mười giờ con bé chết. Tôi bàng hoàng cả người trước sự đột ngột ấy. Tôi hình dung đến hình dáng đau khổ của người đàn bà chít khăn tang, đến bộ mặt đau đớn của bà ta khi được tin con bé chết. Không hiểu rằng tâm hồn yếu đuối ấy có chịu được sự ra đi phũ phàng cách nhau không đầy một tháng của hai đứa con yêu. Tôi mong giây phút đau đớn này có mặt bà ta ở đây để mà vuốt mắt nó một lần cuối cùng. Nhưng cổng bên ngoài vẫn vắng lặng, tôi chắc bà ta đang ở trong nhà thương làm phúc. Điều ấy làm lòng tôi xót xa hơn. Tôi cúi xuống vuốt cặp mắt nhắm nghiền của nó, miệng lâm râm đọc kinh. Nước mắt tôi dàn dụa nhỏ xuống má nó. Tôi nhớ lại những phút tôi đã vuốt mắt Hòa. Tôi cầu mong cho linh hồn Hòa gặp được linh hồn nó, để an ủi nó, cũng như tôi an ủi bé Phượng. Bé Phượng đứng ở chân giường. Tay nó mân con búp bê, rồi không hiểu nghĩ thế nào, Phượng lại đặt con búp bê ấy nằm ngay ngắn trên tay đứa bé. Tôi cảm động kéo Phượng vào lòng mà không nói. Tất cả phòng chìm trong yên lặng. Chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng chân đi lại của bà phước và tiếng con chị khóc dẫy lên ở phía buồng bên.
Lúc nãy, được tin em nó chết, nó lăn xả vào ôm lấy con bé, vừa gọi em, vừa gọi mẹ làm chúng tôi không cầm được nước mắt. Bà phước Hòa phải lôi nó đi và dỗ dành nó ở bên ấy. Nhưng tôi nghĩ giá cứ để nó được ôm em nó vào lòng trong những giây phút chót có lẽ đỡ khổ cho nó hơn. Bởi vì chỉ chiều hôm nay là con bé sẽ lại như Hòa vùi sâu trong lòng đất, để rồi mãi mãi về sau chị em chúng nó không bao giờ thấy mặt nhau nữa.
Tôi bâng khuâng ra đứng ngoài hiên nhìn ra cổng. Tôi tưởng tượng mẹ chúng đang gọi ở ngoài ấy. Sự có mặt của bà ta lúc này để được trông thấy mặt con một lần chót có lẽ sẽ đỡ mai mỉa hơn. Nhưng ngoài ấy vẫn chẳng có một bóng người, những chiếc lá sấu vẫn lạnh lùng rơi theo từng cơn gió. Trời lất phất mưa. Mây u ám phủ một mầu trắng đục. Khung cảnh lúc ấy sao mà não lòng thế. Tiếng khóc của con chị, tiếng bà Hòa dịu dàng an ủi cùng bóng dáng những tà áo trắng thấp thoáng trong hàng hiên làm tôi nghĩ lại một ý nghĩ ngày nào, rằng khoảng đất con con chật hẹp ở góc thành phố này đúng là một thế giới xót xa đầy nước mắt.
Chiều hôm ấy tôi không dám theo vết xe tang của nó để đưa nó ra ngoài nghĩa địa. Hình ảnh đám ma của Hòa chưa phai mờ trong óc tôi. Mầu trắng lạnh lùng của những cây thánh giá. Những cành cây xơ xác lá đứng sừng sững trên nền trồi vẩn đục. Những vòng hoa tơi tả phủ trên vài ngôi mộ. Tất cả vẫn còn như những ấn tượng bi thảm đến ray rứt lòng tôi.
Nhưng đêm ấy tôi đọc kinh cầu nguyện cho linh hồn đứa bé tới mười hai giờ khuya.
Ba hôm sau khi con bé chết, mẹ nó mới quay trở lại. Tôi không thể tả được vẻ mặt đau đớn của bà ta. Bà đứng lặng đi một phút rồi mới òa lên khóc và kể lể với một giọng não nùng. Bà ta không trách chúng tôi, nhưng bà cho rằng thà kham khổ thế nào mà ở bên nhau còn hơn là cách biệt mẹ với con để rồi lúc chết mẹ con chẳng được nói với nhau một lời. Rồi bà ta ngất đi.
Chúng tôi phải hết sức an ủi người đàn bà đau khổ ấy và dẫn bà ta đi thăm mộ đứa bé. Theo mẹ con bà, có tôi và bé Phượng.
Chúng tôi không thể cầm nước mắt được khi nhìn hai linh hồn đau khổ ấy ngồi ủ rũ trước ngôi mộ xinh xinh. Không một vòng hoa, không một nén hương, nấm đất con con mới đắp trơ vơ giữa bãi cỏ non đơn độc một cách lạ lùng. Tôi hình dung đến hình dáng con bé nằm dưới ấy, hai mắt nhắm nghiền, mặc bộ quần áo trắng, chiếc áo sợi xanh mà tôi thay cho hôm nào, hai tay còn khư khư ôm con búp bê của bé Phượng. Tôi bàng hoàng không ngờ chuyện đời thay đổi đột ngột thế. Ý nghĩ ấy lại làm tôi nghĩ đến cái chết cũng như tôi đã nghĩ đến hôm nào ở bên xác Hòa. Tự nhiên tôi thấy chua xót.
Chiều hôm ấy, hai mẹ con người phu hồ lại xin ra và không bao giờ chúng tôi gặp họ nữa…