Chương 7 Những Người Đàn Ông Không Có Đàn Bà.
Cuộc điện thoại lúc hơn một giờ sáng khiến tôi tỉnh giấc. Tiếng chuông điện thoại lúc nửa đêm bao giờ cũng dữ dội. Nghe như thể ai đó muốn phá hủy thế giới bằng hung khí. Là một thành viên của nhân loại, tôi phải ngăn chặn việc này. Vì vậy, tôi ngồi dậy, đi ra phòng khách, nhấc điện thoại lên.
Một giọng đàn ông trầm thông báo với tôi: một phụ nữ đã vĩnh viễn biến mất khỏi thế giới này. Chủ nhân của giọng nói là chồng của người phụ nữ. Chí ít thì anh ta xưng như vậy. Rồi anh ta nói. Vợ tôi tự tử vào thứ Tư tuần trước, tôi nghĩ bất luận thế nào cũng phải báo cho anh biết. Bất luận thế nào. Tôi không cảm nhận được một giọt cảm xúc lẫn trong giọng điệu của anh ta. Hệt như đoạn văn được viết cho bức điện tín. Giữa các từ gần như không có khoảng cách. Một thông báo thuần túy. Một sự thật không tô vẽ. Một dấu chấm hết.
Tôi đã nói gì trước một việc như thế? Chắc chắn là tôi có thốt ra gì đó nhưng tôi không nhớ được. Dù sao sau đó cũng là một khoảng lặng dài. Khoảng lặng giống như một cái hố toang hoác bỗng hiện ra giữa đường mà hai người đứng hai bên đang nhòm xuống. Rồi vẫn không nói không rằng, đầu bên kia dập máy. Nhẹ nhàng như đặt một tác phẩm nghệ thuật dễ vỡ xuống sàn. Tôi đứng ngây ra thêm lúc nữa, tay vẫn cầm ống nghe một cách vô nghĩa. Trong bộ dạng áo phông trắng, quần đùi xanh dương.
Tôi không rõ vì sao anh ta lại biết tôi. Nàng đã báo với chồng nàng tôi là "người yêu cũ" chăng? Để làm gì? Làm thế nào anh ta biết được điện thoại nhà tôi (không có trên danh bạ). Và trên hết vì sao lại là tôi? Vì sao chồng nàng phải cất công gọi điện cho tôi, thông báo rằng nàng đã mất? Không thể có chuyện nàng yêu cầu như vậy trong di ngôn. Chuyện tôi và nàng hẹn hò đã xưa lắm rồi. Sau khi chia tay cũng không gặp nhau. Thậm chí còn không nói chuyện điện thoại.
Nhưng thôi, chuyện đó thì sao cũng được. Vấn đề ở đây là anh ta không cho tôi một lời giải thích nào. Anh ta nghĩ phải báo cho tôi biết chuyện vợ mình tự tử. Anh ta tìm được số điện thoại của nhà tôi ở đâu đó. Song anh ta lại thấy không nhất thiết phải cho tôi biết tường tận. Có vẻ như ý đồ của anh ta là đặt tôi vào tiếp điểm của biết và không biết. Vì sao? Để khiến tôi phải suy nghĩ gì đó chăng?
Chẳng hạn như điều gì?
Tôi không biết nữa. Chỉ có số lượng dấu chấm hỏi cứ mãi tăng lên. Như thể đứa trẻ liên tục đóng dấu vào bất cứ chỗ nào trên cuốn vở.
Vì lẽ đó, tôi vẫn không biết tại sao nàng lại tự tử, nàng đã chọn cách thức nào để từ giã cõi đời. Có muốn cũng không có cách gì để tìm hiểu. Tôi không biết nàng sống ở đâu, nói vậy chứ ngay cả việc nàng lấy chồng tôi cũng không biết. Đương nhiên không biết cả họ mới của nàng (trên điện thoại anh ta không xưng tên). Nàng lấy chồng được bao lâu rồi? Có (các) con chưa?
Song tôi vẫn tiếp nhận y nguyên điều chồng nàng nói trên điện thoại. Không mảy may nghi ngờ. Sau khi chia tay tôi, nàng tiếp tục sống trên thế giới này, (có lẽ) yêu một ai đó và cưới người đó làm chồng, thứ Tư tuần trước, vì một lý do nào đó, bằng cách thức nào đó, nàng đã tự kết liễu đời mình. Bất luận thế nào. Đúng là giọng anh ta có thứ liên kết chặt chẽ với thế giới của người chết. Giữa đêm tối u tịch, tôi có thể nghe thấy sự kết nối sống động ấy. Nhìn thấy độ căng của sợi chỉ được kéo hết cỡ và sự lóe lên sắc lạnh của nó. Theo nghĩa này, tạm thời không tính tới chuyện có cố tình hay không, thì việc gọi vào lúc một giờ sáng là một lựa chọn đúng đắn của anh ta. Nếu là một giờ trưa thì có lẽ sẽ không như vậy.
Khi tôi cuối cùng cũng đặt được điện thoại xuống và trở lại giường, vợ tôi đã tỉnh.
"Điện thoại gì vậy? Ai chết à?" Vợ tôi hỏi.
"Không ai chết cả. Gọi nhầm thôi." Tôi nói. Bằng giọng ngái ngủ và uể oải.
Nhưng tất nhiên vợ tôi không tin. Bởi giọng của tôi có lẫn dấu hiệu của người chết. Sự dao động mà người mới chết mang lại có sức lây lan mạnh mẽ. Nó biến thành những rung chấn nhỏ, truyền qua đường dây điện thoại, làm biến dạng âm hưởng của ngôn từ, khiến thế giới dao động cùng nhịp với nó. Tuy vậy, vợ tôi không nói gì thêm. Chúng tôi nằm trong bóng tối, lắng nghe sự u tịch, mỗi người theo đuổi dòng suy nghĩ riêng.
Và thế là nàng đã trở thành người thứ ba trong số những người tôi từng hẹn hò chọn con đường tự tìm đến cái chết. Ngẫm thử, không, chẳng phải ngẫm nghĩ làm gì cũng thấy đây là một tỉ lệ tử vong tương đối. Không thể tin được. Tôi dầu có giao thiệp với nhiều phụ nữ đến thế. Tôi không lý giải được tại sao họ lại lần lượt kết liễu đời mình, hay bắt buộc phải kết liễu đời mình khi đang còn trẻ như vậy. Cầu cho đó không phải là lỗi của tôi. Cầu cho tôi không liên quan. Hoặc cầu cho họ không chọn tôi là người chứng kiến hay ký lục. Tôi thật sự mong như thế. Và, nói sao nhỉ, nàng – người thứ ba ấy (không có tên sẽ hơi bất tiện nên tôi giả định nàng là M) – nghĩ thế nào cũng không phải típ người tự sát. Bởi lẽ, M luôn được các thủy thủ cường tráng trên khắp thế giới trông chừng và bảo vệ.
Tôi không thể kể chi tiết M là người thế nào, chúng tôi biết nhau bao giờ, ở đâu, đã làm những gì. Tôi rất xin lỗi nhưng nếu nói ra sẽ có rắc rối. Sẽ làm phiền tới những người (vẫn đang) sống. Vì vậy, tôi chỉ có thể viết rằng, tôi từng có một thời gian gắn bó với nàng nhưng xảy ra chuyện nên đã chia tay.
Thật ra, tôi luôn nghĩ M là cô gái tôi gặp lúc mười bốn tuổi. Thực tế thì khác nhưng chí ít ở đây, tôi muốn giả định như thế. Chúng tôi gặp nhau trong lớp học năm mười bốn tuổi. Hình như đó là tiết sinh học. Học về cúc đá hay cá vây tay gì đó. Nàng ngồi kế bên tôi. Khi tôi bảo: "Tớ để quên tẩy, cậu thừa cục nào không cho tớ mượn", nàng liền bẻ cục tẩy của mình làm đôi và đưa cho tôi một nửa. Kèm theo một nụ cười. Chỉ mất một giây, vâng, thực sự là đúng một giây, tôi đã yêu nàng. Nàng là cô gái đẹp nhất trong số các cô gái tôi từng nhìn thấy. Hồi ấy tôi đã nghĩ thế. Tôi muốn M tồn tại như thế. Rằng chúng tôi gặp nhau lần đầu như vậy tại lớp học. Thông qua sự mai mối thầm lặng, áp đảo của cúc đá và cá vây tay các thứ. Nếu nghĩ theo cách này, nhiều chuyện sẽ trở nên thuyết phục hơn.
Mười bốn tuổi, tôi sung mãn như thứ gì đó vừa mới ra lò, đương nhiên bị cương cứng mỗi khi có làn gió Tây ấm áp thổi tới. Thì đang ở độ tuổi đó mà. Nhưng nàng lại không khiến tôi cương cứng. Bởi nàng vượt trội hơn mọi làn gió Tây. Không, nàng tuyệt vời tới mức dập tắt gió từ mọi hướng chứ không chỉ có gió Tây. Trước một thiếu nữ hoàn hảo như thế, tôi sao có thể làm điều dơ dáy ấy được. Đây là lần đầu tiên có một cô gái khiến tôi cảm thấy như vậy.
Tôi cảm giác đó chính là cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa tôi và M. Thật ra thì khác nhưng nghĩ theo cách này, mọi thứ sẽ khớp được với nhau. Tôi mười bốn, nàng cũng mười bốn. Với chúng tôi, đó là độ tuổi đúng đắn để hội ngộ. Lẽ ra chúng tôi nên gặp nhau như thế.
Nhưng bỗng nhiên M biến mất. Nàng đi đâu? Tôi mất dấu M. Xảy ra chuyện gì đó, tôi vừa mới sểnh mắt thì nàng đã đi mất. Nàng vừa mới ở đây, thế mà giờ đã không còn ở đây nữa. Có lẽ nàng bị dụ lên con thuyền khả nghi nào đó và bị đưa tới Marseille hay Bờ biển Ngà mất rồi.
Nỗi thất vọng của tôi thẳm sâu hơn bất cứ vùng biển nào họ đi qua. Hơn bất cứ vùng biển nào có loài mực khổng lồ và hải long trú ngụ. Tôi thấy chán ghét bản thân. Tôi không còn tin vào bất cứ điều gì. Thế này là sao! Tôi yêu M thế cơ mà. Tôi trân trọng nàng thế cơ mà. Tôi cần nàng thế cơ mà. Cớ sao tôi lại sểnh mắt?
Nhưng ngược lại, kể từ đó, M hiện diện ở khắp mọi nơi. Đâu đâu cũng có thể trông thấy nàng. Nàng ở trong nhiều không gian, trong nhiều thời gian, trong nhiều người. Tôi biết điều ấy. Tôi cho nửa cục tẩy vào túi ni lông, luôn mang theo bên người. Như là lá bùa hộ mệnh. Như là la bàn định hướng. Chỉ cần có nó trong túi, một ngày nào đó, tại một nơi nào đó trên thế giới này, tôi sẽ tìm ra M. Tôi tin như thế. Chỉ là nàng leo lên con thuyền lớn theo lời dụ dỗ đường mật của những tay thủy thủ từng trải và bị đưa đi đâu đó mà thôi. Bởi nàng là kiểu người hay tin vào thứ gì đó. Bởi nàng là người sẵn sàng bẻ đôi cục tẩy mới và cho đi một nửa.
Tôi cố gắng thu nhặt, chừng nào hay chừng ấy, các mảnh vụn của nàng từ nhiều nơi, từ nhiều người. Nhưng dĩ nhiên đó chỉ là những mảnh vụn. Có thu được nhiều thế nào thì mảnh vụn vẫn chỉ là mảnh vụn. Phần cốt lõi của nàng cứ trốn chạy như ảo ảnh. Đường chân trời thì vô tận. Ngoài khơi cũng vậy. Tôi di chuyển liên tục, miết mải theo đuổi nó. Bombay, Capetown, Reykjavik, Bahama. Tôi đặt chân đến tất cả những thành phố có cảng biển. Nhưng khi tới nơi thì nàng đã đi mất. Trên đống chăn nệm xộc xệch vẫn còn vương chút hơi ấm của nàng. Chiếc khăn hoa văn hình xoắn ốc vắt trên tựa ghế. Cuốn sách đọc dở nằm úp mặt xuống bàn. Đôi tất ẩm phơi trong nhà tắm. Nhưng nàng thì không còn. Các tay thuyền viên đeo bám dai dẳng ở khắp thế giới đánh hơi thấy tôi nên vội vàng đưa nàng đi trốn. Đương nhiên lúc ấy tôi không còn mười bốn tuổi nữa. Da sạm hơn, rắn rỏi hơn. Râu rậm hơn, đã phân biệt được ẩn dụ và so sánh. Nhưng một phần trong tôi vẫn ở tuổi mười bốn, không hề thay đổi. Và cái phần mãi mãi tuổi mười bốn ấy kiên nhẫn chờ đợi làn gió Tây dịu dàng đến ve vuốt cậu nhỏ còn trong trắng. Nơi nào có làn gió Tây ấy, nơi đó chắc chắn có M.
Đó là M của tôi.
Nàng không phải người có thể ở yên một chỗ.
Nhưng cũng không phải người có thể tự kết liễu đời mình.
Tôi định nói gì ở đây, tôi cũng không biết nữa. Có lẽ tôi định viết ra những bản chất không phải là sự thật. Nhưng viết ra bản chất không phải là sự thật chẳng khác nào hẹn gặp ai đó ở phía sau mặt trăng. Tối thui, không mốc chỉ dẫn. Chưa kể còn rộng mênh mông bể sở. Tóm lại, điều tôi muốn nói là M là người con gái tôi nên yêu lúc mười bốn tuổi. Nhưng trên thực tế, tôi lại yêu nàng rất lâu sau đó, và khi ấy (tiếc thay) nàng không còn mười bốn tuổi nữa. Chúng tôi đã gặp gỡ nhầm thời điểm. Giống như bị nhầm lịch hẹn. Đúng thời gian và địa điểm. Nhưng lại sai ngày.
Song ở bên trong M, thiếu nữ mười bốn tuổi vẫn đang sống. Thiếu nữ ấy ở bên trong nàng như một bản thể đầy đủ, không bao giờ là một phần. Nếu căng mắt nhìn, tôi có thể thấy thấp thoáng bóng dáng thiếu nữ ấy đi lại bên trong M. Khi làm tình với tôi, nàng lúc thì già đi, lúc lại biến thành thiếu nữ trong vòng tay tôi. Nàng lúc nào cũng bước qua bước lại giữa thời gian mang tính cá nhân như thế. Tôi thích nàng như thế. Mỗi lần như thế, tôi lại siết M thật chặt, khiến nàng đau. Có lẽ tôi làm hơi quá tay. Nhưng tôi không thể làm khác. Bởi tôi không muốn cho nàng đi.
Nhưng đương nhiên lại đến lúc tôi đánh mất nàng. Bởi thuyền viên trên khắp thế giới đều để mắt tới nàng. Tôi không thể giữ khư khư nàng cho riêng mình. Ai rồi cũng có lúc sểnh mắt. Bởi còn phải đi ngủ, còn phải đi vệ sinh. Thậm chí là cọ bồn tắm. Thái hành tây, tước xơ đậu que. Kiểm tra hơi lốp xe. Cứ như thế, chúng tôi xa nhau. Nói đúng ra là nàng đã rời bỏ tôi. Trong chuyện này tất nhiên có bóng dáng của thủy thủ. Một bản thể đơn độc, tự trị, đậm đặc như đang trườn trên bức tường của tòa nhà. Bồn tắm, hành tây, hơi lốp xe chẳng qua chỉ là những mảnh vụn ẩn dụ mà cái bóng đó rải như rải đinh mà thôi.
Chắc chắn không ai có thể hiểu tôi đã kiệt quệ, suy sụp thế nào khi nàng bỏ đi. Không, làm sao mà hiểu được. Bởi chính tôi còn chẳng nhớ được hết nữa là. Tôi đã đau khổ đến mức nào? Cõi lòng tan nát ra sao? Giá như trên đời này có loại máy đo được chính xác nỗi buồn. Chỉ cần quy nó ra con số rồi lưu lại là xong. Cái máy ấy mà nhỏ như lòng bàn tay nữa thì tuyệt. Mỗi lần đo hơi lốp xe, tôi lại nghĩ thế.
Rốt cuộc thì nàng đã chết. Cuộc điện thoại lúc nửa đêm thông báo với tôi như vậy. Tôi không biết địa điểm, cách thức, lý do, mục đích của việc này nhưng tóm lại là M quyết tâm kết liễu đời mình và đã thực hiện điều đó. Nàng (có lẽ) đã nhẹ nhàng từ giã thế giới hiện thực này. Các thủy thủ trên khắp thế giới có dùng những lời đường mật, hoa mỹ thế nào đi nữa cũng không thể cứu nàng – hay thậm chí là bắt cóc nàng – khỏi nơi suối vàng sâu thẳm ấy. Nửa đêm, nếu chú ý lắng nghe, chắc bạn cũng sẽ nghe thấy xa xa có tiếng hát tiễn biệt của các tay thủy thủ.
Cùng với cái chết của nàng, tôi cảm thấy như phần mười bốn tuổi trong tôi cũng mất đi mãi mãi. Giống như con số vĩnh viễn bị khuyết khỏi đội bóng chày, phần mười bốn tuổi bị tước ra khỏi cuộc đời tôi cả gốc lẫn rễ. Nó bị cất vào cái hòm sắt kiên cố ở đâu đó, bị khóa bằng chiếc khóa phức tạp và chìm nghỉm dưới đáy biển. Có lẽ cả tỉ năm nữa nắp hòm cũng không được mở. Cúc đá và cá vây tay âm thầm canh giữ nó. Làn gió Tây kỳ diệu cũng ngưng bặt. Thủy thủ ở khắp thế giới xót thương cho cái chết của nàng. Và cả những kẻ chống đối thủy thủ nữa.
Khi được thông báo về cái chết của M, tôi cảm thấy như mình là kẻ cô độc thứ nhì thế giới.
Kẻ cô độc nhất trên thế giới chắc chắn là chồng của nàng rồi. Tôi để sẵn vị trí ấy cho anh ta. Tôi không biết anh ta là người thế nào. Anh ta bao nhiêu tuổi, làm nghề gì hay không làm gì, tôi hoàn toàn không có thông tin. Điều duy nhất tôi biết là giọng anh ta rất trầm. Nhưng giọng trầm thì chẳng cho tôi biết được gì cụ thể. Anh ta có phải thủy thủ không? Hay là người chống đối thủy thủ? Nếu là người chống đối thủy thủ thì tôi sẽ là đồng hương của anh ta. Còn nếu là thủy thủ... thì tôi vẫn sẽ thông cảm với anh ta. Tôi ước có thể làm gì đó cho anh ta.
Nhưng tôi không có cách gì để tiếp cận chồng của người đã từng là người yêu của tôi ấy. Tôi không biết anh ta tên gì, sống ở đâu hoặc có khi anh ta đã mất cả tên lẫn nơi ở rồi cũng nên. Bởi anh là kẻ cô độc nhất trên thế giới. Trên đường đi dạo, tôi ngồi xuống trước bức tượng kỳ lân (đường đi dạo thường ngày của tôi đi qua công viên có con kỳ lân này), trong lúc ngắm đài phun nước lạnh lẽo, tôi thường nghĩ tới người đàn ông ấy. Sau đó tôi tưởng tượng theo cách của riêng mình xem cô độc nhất trên thế giới nghĩa là thế nào. Tôi đã biết cô độc nhì trên thế giới nghĩa là thế nào. Nhưng cô độc nhất trên thế giới thì chưa. Giữa cô độc nhì thế giới và cô độc nhất thế giới có một cái rãnh sâu. Chắc vậy. Không chỉ sâu mà còn rộng đáng sợ. Đến nỗi, dưới đáy rãnh chất đầy xương của những con chim rơi xuống vì kiệt sức, không thể bay từ bờ này sang bờ kia.
Bỗng một ngày, bạn trở thành những người đàn ông không có đàn bà. Ngày đó bất thình lình ghé thăm nhà bạn mà không cho bạn bất kỳ cảnh báo hay gợi ý nào, không cả linh cảm lẫn điềm báo, thậm chí còn chẳng buồn gõ cửa hay đằng hắng để bạn biết. Bạn mới qua một ngã rẽ và đã thấy mình ở đó. Nhưng giờ không thể thoái lui. Một khi đã rẽ, đó sẽ là thế giới duy nhất của bạn. Ở thế giới đó, bạn sẽ bị gọi là "những người đàn ông không có đàn bà". Dưới dạng số nhiều lạnh lùng.
Chỉ những người đàn ông không có đàn bà mới hiểu trở thành những người đàn ông không có đàn bà day dứt, đau đớn thế nào. Sẽ mất đi làn gió Tây tuyệt vời. Bị cướp đi vĩnh viễn – một tỉ năm chắc cũng gần bằng vĩnh viễn – tuổi mười bốn. Phải nghe tiếng hát thê lương, não nề của các thủy thủ vọng lại từ xa. Bị chìm nghỉm dưới đáy biển tối tăm cùng với cúc đá và cá vây tay. Phải gọi điện đến nhà ai đó vào lúc hơn một giờ sáng. Nhận được cuộc điện thoại từ ai đó lúc hơn một giờ sáng. Hẹn gặp đối tượng không quen tại tiếp điểm tùy chọn giữa biết và không biết. Phải đo hơi lốp xe trong lúc nước mắt lã chã rơi xuống mặt đường khô rát.
Đứng trước bức tượng kỳ lân, tôi cầu mong một lúc nào đó anh ta sẽ gượng dậy được. Mong anh ta không quên những điều thực sự quan trọng – chúng tôi ngẫu nhiên gọi đó là "thực chất" – mà hãy quên đi những sự thật đi kèm khác. Thậm chí tôi còn mong anh ta quên luôn cả việc anh ta đã quên những điều ấy. Từ đáy lòng, tôi cầu mong như thế. Các bạn thấy tôi có oách không? Kẻ cô đơn nhì thế giới lại thông cảm cho kẻ cô đơn nhất thế giới (dù chưa bao giờ gặp) và nguyện cầu cho anh ta cơ đấy.
Nhưng cớ sao anh ta lại cất công gọi điện cho tôi? Tôi không có ý chỉ trích anh ta, chỉ là đơn thuần, nói cách khác là về căn bản, tôi vẫn cứ canh cánh trong lòng câu hỏi ấy. Vì sao anh ta biết tôi? Tại sao anh ta lại quan tâm đến tôi? Câu trả lời có lẽ rất đơn giản. Vì M đã kể cho chồng nàng về tôi, điều gì đó về tôi. Tôi chỉ có thể nghĩ vậy. Tôi không biết nàng kể cho anh ta điều gì. Là người yêu trong quá khứ, tôi có giá trị thế nào, có ý nghĩa gì để nàng phải kể (lại còn với chồng) đây? Một điều quan trọng dính dáng tới cái chết của nàng chăng? Chẳng lẽ sự tồn tại của tôi có ảnh hưởng gì đó tới cái chết của nàng? Hay M đã kể với chồng rằng hình dáng dương vật của tôi rất đẹp. Nàng vẫn thường chiêm ngưỡng cậu nhỏ của tôi khi ở trên giường lúc xế trưa. Nàng cẩn thận đặt nó vào lòng bàn tay, như thể đang nâng niu viên ngọc huyền thoại gắn trên vương miện vua Ấn Độ. "Hình dáng đẹp quá," nàng nói. Tôi không biết có đẹp thật hay không.
Chẳng lẽ vì lý do đó mà chồng M gọi điện cho tôi? Vào lúc một giờ sáng, để bày tỏ sự kính trọng với hình dáng cậu nhỏ của tôi? Không thể nào. Không đời nào có chuyện đó. Cậu nhỏ của tôi thực sự không có gì nổi bật. Cùng lắm cũng chỉ ở mức bình thường. Ngẫm lại thì từ xưa, tôi vẫn thường lắc đầu trước con mắt thẩm mỹ của M. Nàng có giá trị quan khá lạ so với mọi người.
Chắc có lẽ (chỉ là tôi tưởng tượng thôi) nàng đã kể chuyện chia cho tôi nửa cục tẩy trong lớp học hồi cấp II. Như một kỷ niệm nho nhỏ rất đỗi bình thường, không hề có ác ý hay hàm ý gì khác. Nhưng chẳng cần nói cũng biết là người chồng nghe vậy đã nổi cơn ghen. Kể cả trước đó M từng giao du với số thủy thủ tương đương hai chuyến xe buýt đi nữa thì nửa cục tẩy của tôi vẫn khiến chồng nàng đau đớn hơn bội phần. Đương nhiên rồi. Số thủy thủ cường tráng tương đương với hai chuyến xe buýt đã là cái thá gì. M và tôi mới mười bốn tuổi thôi, chưa kể tôi hồi ấy, chỉ cần làn gió Tây thổi qua cũng cương cứng lên rồi. Cho một người như vậy hẳn nửa cục tẩy thì đúng là to chuyện. Khác nào dâng một tá nhà kho cũ kỹ cho cơn lốc lớn.
Kể từ đó, mỗi lần đi qua tượng con kỳ lân, tôi lại ngồi xuống, miên man nghĩ về những người đàn ông không có đàn bà. Tại sao lại là chỗ đó? Tại sao lại là con kỳ lân? Lẽ nào con kỳ lân đó cũng là một trong những người đàn ông không có đàn bà? Tôi chưa từng nhìn thấy kỳ lân có đôi. Thằng kỳ lân – chắc chắn là thằng – lúc nào cũng chỉ có một mình, hiên ngang chĩa cái sừng nhọn hoắt lên trời. Có lẽ chúng tôi nên lấy con kỳ lân làm đại diện cho những người đàn ông không có đàn bà, làm biểu tượng cho sự cô độc mà chúng tôi đang gánh chịu. Có lẽ chúng tôi nên gắn huy hiệu in hình kỳ lân lên ngực áo hoặc mũ, âm thầm diễu hành qua các con phố trên khắp thế giới. Không kèn không trống, không cờ không quạt, không tung hoa giấy. Có lẽ vậy (tôi đang dùng quá nhiều từ 'có lẽ'. Có lẽ vậy).
Trở thành những người đàn ông không có đàn bà đơn giản lắm. Chỉ cần yêu sâu sắc một người và nàng biến đi đâu mất là xong. Hầu hết các trường hợp (như các bạn đã biết), dẫn nàng đi luôn là những tay thủy thủ lọc lõi, sành sỏi. Chúng khéo léo dụ dỗ họ, nhanh chóng đưa họ tới Marseille, Bờ biển Ngà. Chúng tôi hầu như chẳng thể làm được gì. Hoặc có thể họ tự kết liễu đời mình mà chẳng liên quan gì tới những tay thủy thủ. Ngay cả việc này chúng tôi cũng không thể làm gì. Thậm chí các tay thủy thủ cũng không.
Nhưng dù thế nào bạn vẫn sẽ trở thành những người đàn ông không có đàn bà theo cách đó. Chỉ trong chớp mắt. Khi đã trở thành những người đàn ông không có đàn bà, sắc màu của sự cô độc sẽ ngấm vào da thịt bạn. Như vết ố của rượu đỏ bị đổ xuống tấm thảm nhạt màu. Kể cả với vốn kiến thức tề gia nội trợ phong phú, bạn cũng khó mà tẩy được. Cùng với thời gian, vết ố nhạt dần đi nhưng sẽ mãi là vết ố cho đến khi bạn trút hơi thở cuối cùng. Nó có tư cách của một vết ố, đôi khi còn có cả quyền phát ngôn trước công chúng như là một vết ố nữa. Bạn chỉ còn cách sống chung với những biến đổi nhẹ nhàng của màu sắc và những đường nét đa nghĩa của vết ố đó.
Ở thế giới ấy, âm thanh có tiếng vọng khác, cổ họng có cách khát khác. Cách râu dài ra cũng khác. Cách nhân viên phục vụ ở Starbucks cũng khác. Tiếng độc tấu kèn của Clifford Brown cũng khác. Cửa tàu điện ngầm cũng đóng theo cách khác. Thậm chí quãng đường đi bộ từ Omotesando đến Aoyama-itchōme cũng rất khác. Ví thử sau này bạn gặp một người con gái mới, bất luận cô ấy có tuyệt vời thế nào (không, phải nói là càng tuyệt vời bao nhiêu), thì ngay từ khoảnh khắc gặp gỡ, bạn đã bắt đầu nghĩ tới việc mất họ. Hình bóng đầy ẩn ý của những tay thủy thủ, âm hưởng của thứ tiếng nước ngoài mà những tay đó nói (tiếng Hy Lạp? Estoni? Tagalog?) khiến bạn bất an. Tên của những bến cảng kỳ lạ trên khắp thế giới khiến bạn run sợ. Bởi lẽ bạn đã biết trở thành những người đàn ông không có đàn bà là như thế nào. Bạn là tấm thảm Ba Tư nhạt màu còn cô độc là vết ố của rượu vang Bordeaux không bao giờ sạch. Vậy là cô độc đến từ nước Pháp, còn nỗi đau đến từ Trung Đông. Với những người đàn ông không có đàn bà, thế giới là một mớ hỗn độn rộng lớn và thống thiết, hệt như ở sau mặt trăng.
Tôi hẹn hò với M chừng hai năm. Không phải là dài. Nhưng là hai năm nặng nề. Có thể nói may mà chỉ có hai năm. Hoặc là những hai năm. Khác nhau tùy theo cách nhìn. Dù nói là hẹn hò nhưng một tháng chúng tôi chỉ gặp nhau đôi ba lần. Nàng có lý do của nàng, tôi có lý do của tôi. Và tiếc thay, lúc đó chúng tôi không còn mười bốn tuổi nữa. Rất nhiều những lý do như vậy rốt cuộc đã phá hỏng chúng tôi. Bất kể tôi đã cố gắng không buông tay, giữ nàng thật chặt. Cái bóng sẫm và đậm đặc của thủy thủ liên tục rải những chiếc đinh nhọn hoắt của phép ẩn dụ.
Cho đến tận bây giờ, điều tôi nhớ nhất về M là nàng rất yêu "nhạc thang máy". Thứ âm nhạc thường được bật trong thang máy, của Percy Faith, Mantovani, Raymond Lefevre, Frank Chacksfield, Francis Lai, 101 Strings, Paul Mauriat, Billy Vaughn. Nàng được số phận định đoạt thích kiểu âm nhạc vô hại (theo thiển ý của tôi) này. Tiếng đàn dây luyến láy, tiếng kèn gỗ ngân vang êm ái, tiếng kèn đồng có cài giảm âm, tiếng đàn hạc du dương. Giai điệu quyến rũ không bao giờ bị phá vỡ, lối hòa âm ngọt ngào như viên kẹo đường, tiếng thu âm vọng vừa đủ nghe.
Khi lái xe một mình, tôi thường nghe nhạc rock hoặc blues. Derek and the Dominos, Otis Redding, The Doors. Nhưng M không bao giờ cho tôi bật nhạc loại đó. Lúc nào nàng cũng cầm theo một túi giấy chứa chừng một tá băng cát xét nhạc thang máy và bật nghe hết băng này tới băng khác. Trong lúc chúng tôi lái xe lang thang vô định khắp nơi, nàng khẽ mấp máy môi theo bài "White Lovers" của Francis Lai. Đôi môi gợi tình quyến rũ phết một lớp son nhạt. Nàng có chừng mười nghìn băng cát xét nhạc thang máy. Có kho kiến thức khổng lồ về thứ nhạc vô tội ấy trên khắp thế giới. Tới mức có thể mở được cả một "bảo tàng nhạc thang máy".
Lúc làm tình cũng vậy. Luôn có tiếng nhạc thang máy. Vừa ôm nàng, tôi vừa nghĩ không biết đã nghe bản A "Summer Place" của Percy Faith đến lần thứ mấy rồi. Nói ra thế này thật xấu hổ nhưng đến tận bây giờ, mỗi khi nghe bài đó, tôi lại nổi cơn ham muốn. Hơi thở gấp gáp, mặt ửng đỏ. Trên thế giới này, chắc chỉ có mình tôi là nổi ham muốn khi nghe đoạn dạo đầu bài "A Summer Place" của Percy Faith. À không, có lẽ cả chồng của nàng nữa. Tạm thời tôi sẽ dành chỗ trống đó cho anh ta. Có tìm khắp cả thế giới chắc cũng chỉ thấy hai người (tính cả tôi) nổi ham muốn khi nghe đoạn dạo đầu bài "A Summer Place" của Percy Faith. Tôi sửa lại như thế. Vậy là ổn.
Chỗ trống.
"Em thích nhạc kiểu đó." Có lần, M nói. "Tóm lại là vấn đề về chỗ trống."
"Vấn đề về chỗ trống?"
"Nghĩa là, khi nghe loại nhạc này, em cảm giác như mình đang ở trong không gian rộng thênh thang, trống trải. Chỗ ấy thực sự rất rộng, không có sự ngăn cách. Không có tường, không có trần nhà. Ở đấy, em không cần nghĩ, không cần nói, không cần làm gì cả. Chỉ cần ở đó. Chỉ cần nhắm mắt, thả hồn theo tiếng đàn dây du dương. Không có chứng đau đầu, không có chứng hạ thân nhiệt, không kinh nguyệt, không thời kỳ rụng trứng. Mọi thứ đều đẹp đẽ, an bình, không tù đọng. Không cần bất cứ điều gì nữa."
"Cứ như ở trên thiên đường nhỉ?"
"Đúng thế." M nói. "Em nghĩ chắc chắn trên thiên đường cũng để nhạc nền của Percy Faith. Anh này, xoa lưng thêm cho em được không?"
"Được, tất nhiên rồi." Tôi nói.
"Anh xoa lưng rất giỏi."
Tôi và Henry Mancini lén quay sang nhìn nhau, sao cho nàng không hay biết. Một nụ cười xuất hiện ở khóe môi.
Đương nhiên tôi cũng mất luôn cả nhạc thang máy. Mỗi khi lái xe một mình, tôi lại nghĩ thế. Trong lúc dừng đèn đỏ, liệu có cô gái xa lạ nào đó đột nhiên mở cửa, ngồi vào ghế lái phụ, chẳng nói chẳng rằng, chẳng thèm nhìn mặt tôi, cứ thế nhét cuốn băng cát xét có bài "White Lovers" vào máy nghe nhạc trên xe giúp tôi không nhỉ. Thậm chí tôi còn mơ thấy điều đó. Nhưng tất nhiên là điều đó không xảy ra. Tôi chẳng còn chiếc máy nào nghe được băng cát xét. Giờ đây, khi lái xe, tôi thường nối Ipod với đầu cáp USB để nghe nhạc. Đương nhiên là không có Francis Lai hay 101 Strings. Gorillaz và The Black Eyed Peas thì có.
Mất đi một người đàn bà là như vậy đó. Có lúc, mất đi một người đàn bà cũng là mất đi tất cả đàn bà. Cứ thế, chúng tôi trở thành những người đàn ông không có đàn bà. Tiếp theo là mất đi Percy Faith, Francis Lai, 101 Strings. Mất đi cúc đá và cá vây tay. Tất nhiên mất luôn cả tấm lưng quyến rũ của nàng nữa. Vừa nghe bản "Moon River" do Henry Mancini chỉ huy, tôi vừa xoa lưng của M theo nhịp ba du dương. Waiting round the bend. My Huckleberry friend... Nhưng tất cả những thứ đó đều đã biến mất. Chỉ còn sót lại mẩu tẩy cũ và khúc bi thương của những thủy thủ đằng xa. Tất nhiên là cả con kỳ lân cô độc giương cái sừng lên bầu trời bên cạnh đài phun nước nữa.
Cầu cho giờ này M đang ở trên thiên đường – hoặc nơi tương tự thiên đường – và nghe bản "A Summer Place". Cầu cho nàng được bao bọc bởi thứ âm nhạc mênh mang, không ngăn cách ấy. Mong là không phải nhạc của Jefferson Airplane (Thượng đế chắc cũng không đến mức tàn nhẫn như vậy đâu. Tôi hy vọng thế). Mong rằng trong lúc nghe tiếng gảy vĩ cầm trong bài "A Summer Place", thi thoảng nàng sẽ nhớ tới tôi. Nhưng tôi không dám đòi hỏi nhiều. Tôi mong rằng kể cả không có tôi, M vẫn có thể sống hạnh phúc, an lạc ở đó cùng với thứ âm nhạc thang máy vĩnh cửu.
Là một trong những người đàn ông không có đàn bà, từ đáy lòng, tôi mong cầu điều này. Ngoài ra, tôi chẳng thể làm gì khác. Hiện giờ. Có lẽ vậy.