Chương 7
Sau các trận tấn công tháng tám và tháng chín thành công của chúng ta ở Ennha, trên mặt trận phía tây đã hình thành một tình huống tương đối yên tiếng súng. Lữ đoàn xe tăng của trung tá Klimôvíts đang đóng trong những khu rừng phía nam Ennha, còn tiểu đoàn quân báo của nó lại chiếm lĩnh một khu vực phòng ngự dài hơn cây số ngoài tiền duyên như bộ binh.
Ngay trước khi chiến tranh bùng nổ, Klimôvíts chỉ huy lữ đoàn xe tăng đóng ở Xlônim. Trong số những người cùng chiến đấu với anh lúc đầu nay vẻn vẹn chỉ còn chừng bảy chục người tại ngũ. Một số đã tử trận khi lữ đoàn phá vòng vây xuyên qua rừng để đến Xlutxk và Bôbruixk, một số khác đã ngã xuống trong lúc yểm hộ Môghilép, còn một số nữa thì đã bị loại ra khỏi vòng chiến đấu ngay ở Enna này.
Cho tới trước khi nổ ra những trận chiến đấu ở Ennha, lữ đoàn đã được trang bị một nửa là các xe tăng cũ «BT-7» còn một nửa là các xe tăng «T - 34», hay như người ta đã đặt ngay cho chúng một cái tên là «những chiếc ba mươi tư». «Ba mươi tư» đã tỏ ra là những xe tăng hạng nhất, nhưng chính vì thế mà ở Ennha gánh nặng chủ yếu của các trận chiến đấu đã đổ lên đầu chúng. Từng tiểu đoàn đều đã hao hụt nhiều, nhưng người ta vẫn không đưa lữ đoàn về hậu phương mà hứa là nay mai sẽ bổ sung cho thêm người và xe tăng ngay tại trận địa, lần này chỉ toàn là «ba mươi tư» cả thôi. Trong thời gian đánh nhau ở Ennha, Klimôvíts đã đâm mê những chiếc xe tăng này cho nên cứ sốt ruột chờ đợi chúng đến bổ sung, sự sốt ruột này chỉ có người sĩ quan xe tăng, kể từ ngày bắt đầu chiến tranh tới nay, đã hai lần nhờ sự may mắn kỳ lạ mà chui ra được khỏi những chiếc «BT-7» đang bốc cháy như những bao diêm, mới có thể hiểu nổi. Những chiếc xe tăng hạng nhẹ này tuy có tốc độ nhanh nhưng vỏ sắt thì mỏng và hỏa lực lại yếu, điều đó đã rõ ngay từ hồi kết thúc những sự kiện ở Khankhingôn. Nhưng đợi mãi mà chẳng được thay thế bằng những chiếc «ba mươi tư» như người ta hứa hẹn, Klimôvíts đã phải ứng phó với chiến tranh ở biên giới phía tây chỉ bằng những chiếc xe tăng cổ lỗ sĩ đó mà thôi.
Đến ngày thứ năm của chiến tranh, suýt nữa thì anh đã xử bắn một đại đội trưởng của mình ngay trước hàng quân, vì anh chàng này, do điên đầu lên vì bất lực, đã kêu la trước mặt chiến sĩ rằng không thể đánh nhau bằng những cái bao diêm ấy được. Thế mà một giờ sau anh ta xuất trận đã diệt được một xe tăng Đức rồi bản thân mình cũng bốc cháy ngay trước mắt Klimôvíts.
Ở Ennha, Klimôvíts cảm thấy trong lòng mình xen lẫn hai loại tình cảm: một mặt anh tự hào về các chiến sĩ xe tăng của mình với những chiếc xe mới đã bóp bẹp xe tăng Đức như bóp bẹp những chiếc vỏ lạc, và mặt khác anh đau xót là ngay từ ngày đầu chiến tranh đã không có lấy một chiếc xe tăng nào như thế thành ra đã phải đổi hai — ba để lấy một, ở nơi mà đáng lẽ anh có thể đổi một lấy hai.
Bây giờ, trong lúc tạm lắng tiếng súng, anh đã cho sửa chữa tất cả những chiếc «BT-7» còn lại trong lữ đoàn, và kiên trì gây cho cấp dưới một ý thức sâu sắc rằng có thể chiến đấu được cả với những chiếc xe tăng đó, nhưng thật ra trong thâm tâm mình, anh vẫn chờ đợi những xe tăng mới với một lòng say mê chưa từng có đối với bất cứ một cái gì trên đời này.
Anh chỉ nghĩ đến lữ đoàn của mình chứ không nghĩ đến một điều gì khác hơn, bởi vì anh cũng chẳng còn có cái gì khác để mà nghĩ đến nữa cả.
Trước chiến tranh đã có bốn người cùng chung sống với anh, trong đó anh yêu ba người, còn đối với người thứ tư anh coi mình có bổn phận chăm sóc: đó là con gái anh, con trai anh, vợ anh và mẹ vợ anh. Cả bốn người ấy đều đã bị chết bom trên một chiếc ôtô ở dọc đường vào ngày thứ ba của chiến tranh, vào lúc mà anh tưởng là họ đã thoát nạn. Khi anh được tin đó thì trận đánh vẫn đang diễn ra và thậm chí anh đã không sao có thể đến xem những nắm xương tàn của những người thân của mình sẽ được chôn cất ra sao. Anh mới có ba mươi tuổi, và nếu ai nảy ra ý nghĩ hỏi anh rằng: «Phải, một việc khủng khiếp nhất đã xảy ra với cậu, nhưng trước mật cậu còn cả cuộc đời, chẳng nhẽ trong cuộc đời đó sẽ không còn gì để bù lại cho những cái đã mất hay sao?»—thì chắc hẳn mặc dầu đau khổ đến cùng cực, anh vẫn thẳng thắn trả lời: «Không, còn chứ!!» Nhưng trong tất cả những tháng ngày ấy, không một ai trong số những người đã nghe thấy giọng nói cứng rắn của anh và trông thấy vẻ mặt lầm lỳ của anh lại nảy ra ý nghĩ hỏi anh rằng sau chiến tranh, còn lại một mình, anh định sẽ sống ra sao. Má bản thân anh cũng chưa hề nghĩ rằng sau chiến tranh mình sẽ sống ra sao nữa. Bản thân anh cũng là sự thể hiện của chiến tranh và trong lúc chiến tranh đang tiếp diễn thì ngoài chiến tranh cùng với những nhu cầu và lợi ích trực tiếp của chiến tranh ra, trong tâm hổn anh bây giờ, sau khi gia đình đã tử nạn, đã không còn gì và cũng chẳng còn ai nữa cả.
Chiếu ngày mồng một tháng mười, Klimôvíts đang ngồi trong ban tham mưu của lữ đoàn mình. Đó là một ngôi nhà gỗ, bên ngoài trông xiêu vẹo và bẩn thỉu, nhưng bên trong được lau chùi rất sạch sẽ — anh vốn là con người rất cầu kỳ và thích sạch sẽ. Anh đang đọc «Những cuộc phiêu lưu mới của chú lính Svâyk gan dạ» do một nhà văn trào phúng viết ngoài mặt trận. Phần lớn anh em bộ đội ngoài mặt trận đều thích đọc những mẩu truyện ngắn đó, nhưng Klimôvíts lại không thích, theo ý anh, trong lúc quân Đức đang quật ta nhiều hơn là ta quật chúng, nếu đi chế giễu chúng thì còn sớm quá. Tuy vậy, anh vẫn đọc những mẩu truyện ngắn này, bởi vì anh có thói quen đọc một mạch cho hết cả tờ báo mặt trận đế tim xem có cái gì có ích lợi thiết thực cho công tác của mình không.
Máy diện thoại trên bàn reo lên. Klimôvíts gấp tớ báo lại, chú ý sao cho đoạn mình đang đọc dở ở đúng vào chỗ gấp để sau này khỏi phải mất công tim kiếm, rồi cầm lấy ống nghe, Tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn quân báo gọi dây nói về báo cáo một tình huống hết sức khác thường là: trước hỏa tuyến của tiểu đoàn, trong hậu tuyến của quản Đức bỗng nổi lên tiếng súng máy, tiếng tiểu liên và súng trường bắn dồn dập, lại nghe có cả tiếng lựu đạn nổ.
Klimôvíts bèn bỏ ống nghe ra khỏi tai, đẩy cánh cửa sổ và lắng nghe. Cái tai thành thạo của anh đã bắt được những tiếng vang vọng phảng phất của một trận chiến đấu ở đằng xa.
— Tôi sẽ đến chỗ anh. Đợi nhé, — Klimôvíts nói.
Trên tiền duyên ở trong rừng, trời tối và ẩm, vừa mới mưa xong một trận ngắn. Người trung úy được phái ra đón lữ đoàn trưởng đi đằng trước Klimôvíts, hai tay anh đặt lên khẩu tiểu liên, hai cùi tay nhô lên dưới tấm áo khoác mưa ướt sũng. Khi đi ngang qua chiếc xe tăng «BT-7» giấu ở trong một công sự đào sâu, Klimôvíts lại nghĩ tới điều anh hằng nghĩ đến không lúc nào nguôi:
«Mong sao chóng nhận được xe tăng ba mươi tư!»
Đài quan sát đặt ở tận cửa rừng. Ban ngày đứng đãy trông thấy rõ cả một cánh đồng cỏ chưa cắt thoai thoải đổ xuống suối và ở bờ bên kia, phía quân Đức cũng có một cánh đồng cỏ như vậy chênh chếch chạy lên tới bìa rừng. Trên đồng cỏ hai chiếc xe tăng đã cháy đứng cạnh nhau: một chiếc «ВТ -7» của ta và chiếc «T-4» của Đức.
Chúng đúng đấy từ gần một tháng nay, không rời nhau chẳng khác nào một cặp anh em sinh đôi vậy
Ở đằng trước, phía trên khu rừng do quân Đức chiếm, nhiều chỗ đang thấy có pháo hiệu màu trắng và đỏ bay vút lên và ánh lửa đạn lóa sáng. Tiếng súng máy và súng trường bây giờ đã rất gần không còn ở sau tiền duyên quân Đức một cây số rưỡi như tiểu đoàn trưởng quân báo báo cáo cách đây nửa giờ nữa. Từ đây đến hỏa tuyến của quân Đức là bốn trăm thước, tiếng súng ở đằng sau hỏa tuyến của chúng là chừng năm trăm thước, mà theo số liệu của quân báo thì đó chính là tuyến công sự thứ hai của quân Đức.
Nỗi hồi hộp của tất cả những người đang tập trung trên đài quan sát đã truyền sang Klimôvíts. ai nấy đều cùng nghĩ như nhau, nhưng đều sợ không dám tin vào điều dự đoán của mình.
— Ivanốp, cho các tổ chiến đấu lên xe! — Klimôvíts ra lệnh cho tiểu đoàn trưởng quân báo sau khi đã nghe báo cáo về những điều quan sát được trong nửa giờ qua.
— Rõ, các tổ chiến đấu lên xe! — Ivanốp nói và không nhịn được, phải hỏi thêm: —Thưa đồng chí trung tá, chúng ta công kích đến tận nơi để đón họ chứ ạ?
— Chúng ta sẽ quyết định tùy theo hoàn cảnh, cứ làm đi!
— Klimôvíts nói rồi xuống hầm, ra lệnh cho diện thoại viên bắt liên lạc với ban tham mưu tập đoàn quân.
Anh đã gọi dây nói cho tập đoàn quân lần đầu ngay từ trước khi đi đến đây, nhưng bây giờ đã đến lúc phải gọi lại. Điện thoại viên chưa kịp quay máy thì đã nghe có chuông nơi khác gọi đến: chính bộ tư lệnh tập đoàn quân đã chủ động gọi lữ đoàn trưởng trước.
— Chỗ các anh thấy thế nào? Báo cáo đi! — tư lệnh trưởng ra lệnh.
Klimôvíts báo cáo rằng mình trông thấy pháo sáng và ánh lửa đạn lóe lên, rằng có trận đánh đang diễn ra trong hậu tuyến quân Đức và chỗ đánh nhau cách đài quan sát chừng tám trăm đến chín trăm mét.
— Đơn vị bạn ở bên trái anh cũng báo cáo như vậy.
Nhưng trận đánh xảy ra phía bên phải họ, tất cả đang diễn ra ngay trước mặt các anh, trong một mặt trận hẹp.
Anh nhận định tình hình như thế nào và định hành động ra sao?
Klimôvíts trả lời theo những điều mà bản thân anh cũng như anh em trong tiểu đoàn quân báo đã suy nghĩ: ở khu vực mình có một đơn vị phá vây đang chiến đấu để thọc ra qua hỏa tuyến quân Đức. Anh xin phép dùng chiến đấu có sử dụng cả xe tăng để tiến hành trinh sát ở bên trái và bên phải khu vực nơi nghe thấy tiếng súng ở hậu tuyền quân Đức.
Ống điện thoại lặng im trong mấy giây, sau đó tư lệnh trưởng báo rằng theo ông biết, ở hậu tuyền gần nhất của quân Đức từ lâu đã không có đơn vị nào bị bao vây cả, và có thể đó là một vụ khiêu khích không ngờ nghệch gì, nhằm lúc đầu buộc chúng ta phải xông sang đón, rồi sẽ lật nhào chúng ta xuống và cưỡi ngay lên chính hai vai chúng ta mà tràn vào trận địa quân ta.
— Báo cáo tư lệnh trưởng, tôi đã tính đến khả năng đó.
Tôi đã có những biện pháp phòng bị trước, đã cho xe tăng ba mươi tư phục kích sẵn.
— Hiện giờ cậu có bao nhiêu chiếc còn dùng được, mười một à? — tư lệnh trưởng ngắt lời Klimôvíts.
Trong những ngày này mỗi chiếc ba mươi tư là một viên châu báu của toàn tập đoàn quân, nên tư lệnh trưởng nhớ rõ từng chiếc không nhầm.
— Mười một ạ, — Klimôvíts xác nhận, —nhưng báo cáo tư lệnh trưởng, dù sao chăng nữa, nếu đó là quân ta phá vòng vây thì chẳng nhẽ chúng ta không giúp đỡ họ hay sao?
Trong ống lại bắt đầu im lặng. Klimôvíts nghe có nhiều tiếng nói lao xao nhưng không phân tích được từng câu từng chữ; hẳn là tư lệnh trưởng đang đứng ngay cạnh máy mà nói chuyện với ủy viên hội đồng quân sự hay tham mưu trưởng.
— Hành động đi, — một phút sau ông nói. — Cứ cách nửa giờ lại báo cáo nhé!
Klimôvíts đặt ống nghe xuống và không đế mất thời gian, bắt đầu chuẩn bị tấn công; rồi anh lại cầm lấy ống diện thoại nói chuyện với các tiểu đoàn trưởng, ban bố mệnh lệnh, trong lúc đó, trận chiến đấu phía trước vẫn tiếp tục vang rền, khi lan sang trái, lúc chuyển sang phải, khi nhích lên trước, khi lùi ra xa một cách đáng lo ngại.
Không, đây không thể là một vụ khiêu khích được: ở cách đây tám trăm thước, giữa tuyến thứ nhất và thứ hai của trận địa quân Đức, có những người đang tiến lên, đang gục ngã, đang xông ra, đang lùi lại phía sau và đang bị một vòng hỏa lực mỗi phút một dày đặc và cũng đang tiến lên của quân Đức dồn ép bốn bề. Hình như ở bên kia, giữa những vị trí của quân Đức có một trái tim sống rỉ máu đang lồng lộn, một trái tim bốn bề bị những ảnh lửa đạn băm chém, bị những băng tiểu liên xỉa xói, bị những loạt súng cối xâu xé...
Nếu như tư lệnh trưởng cấm Klimôvíts đưa quân đi ứng cứu những người bị vây đó, những người chắc hẳn đã vượt qua hàng trăm cây số mà giờ đây lại gục ngã cách quân mình có hai bước, thì đấy sẽ là ngày đen tối nhất trong cuộc đời bộ dội của Klimôvíts, và nếu như người ta dự đoán trước với anh rằng đi ứng cứu là bản thân anh cũng nhất định sẽ chết thì anh vẫn phải xông vào trận chiến đấu đó, không lưỡng lự một chút nào. Khi quả tim rách nát đầy thương tích đó giữa những vị trí của quân Đức đã đổ máu lần cuối cùng để văng mình một cách tuyệt vọng lên phía trước thêm hai trăm thước nữa tới gần tuyến công sự thứ nhất của quân Đức, và lúc bấy giờ tám chiếc xe tăng «BT-7» cùng một trăm rưỡi chiến sĩ của tiểu đoàn quân báo xông tới đón nó trong bóng tối, thì đó không đơn giản chỉ là một trận tấn công ban đêm táo bạo, mà còn là sự chuyển động tâm hồn một cách hài hòa và kiên cường của tất cả những con người hợp thành tiểu đoàn quân báo, cái tiểu đoàn mà hàng ngũ đã thưa thớt hẳn đi qua nhiều trận chiến đấu ròng rã.
Ý đồ của Klimôvíts—công kích vào bên trái và bên phải, nơi đang có quân ta từ hậu tuyến quân Đức đánh thọc ra — tỏ ra là đúng đắn và đã mang lại kết quả ngay tức khắc.
Bọn Đức theo các công sự và giao thông hào kéo đến chỗ dự đoán có đột phá khẩu, hòng dùng chiếc nút bằng xương thịt mà bịt cái cổ họng nhỏ hẹp ấy lại. Nhưng chúng bỗng nghe cả hai phía đều có tiếng động cơ xe tăng rú và tiềng thét «xung phong», thì lại phải vội vàng theo đường công sự mà di chuyển sang trái và sang phải.
Sự vận động đi lại hai lần như vậy vào ban đêm không thể không gây ra hỗn loạn; rồi quân ta vừa từ hậu địch thọc ra lại vừa từ ngoài mặt trận tấn công vào là một sự giáp công hết sức bất ngờ đối với quân Đức, khiến chúng càng đâm ra hỗn loạn hơn.
Một giờ sau trận chiến đấu kết thúc. Thỉnh thoảng nó còn bùng lên đây đó, về sau hoàn toàn im lặng, rồi đâu đấy trong bóng tối có lúc tại ùng ục vang lèn những tràng tiểu liên muộn màng nghe như tiếng gõ vào một chiếc thùng rỗng. Klimôvíts mất hai chiếc xe tăng vấp phải mìn nổ tung và mười lăm người ngã xuống trước làn đạn ở hai bên bờ suối. Tuy vậy. chí với theo sự tính toán đại thể trong ban đêm, đã có một tiểu đoàn — hơn ba trăm người, — trong khi hai bên đánh nhau hỗn loạn, đã đột phá được qua trận địa quân Đức và giờ đây đang mê lên vì sung sướng. Vừa rách rưới vừa đói khát, vừa lành lặn vừa bị thương, tay vẫn chưa buông vũ khí, tỏa vào các công sự và hầm ngầm của các chiến sĩ xe tăng.
Các đài phát thanh trên toàn thế giới đã theo dõi việc các tàu phá băng và máy bay của sáu nước đến cứu mười hai ngươi của đoàn thám hiểm Nôbilê ra khỏi các tảng băng trôi; báo chí trên toán thế giới đã viết về việc các phi công đến chở những người thám hiểm ra khỏi tàu «Trêliuxkin» đang bị cầm tù trong băng giá: hàng chục triệu người đã nín thở chở đến những tin tức về ba đoàn công tác đã cùng một lúc đi đến băng đảo «Bắc cực» để đưa bốn người ra khói nơi đó.
Còn những việc xảy ra đêm ấy lại khu vực tiểu đoàn quân báo thuộc lữ đoàn xe tăng thứ mười bảy chỉ chiếm vẻn vẹn nửa trang trong bản thông báo chiến sự của mặt trận và thậm chí không được đăng vào bản thông cáo của Cục thông tin, nhưng niềm vui sướng cao nhất trong tất cả những niềm vui sướng của con người, niềm vui sướng của những người đã cứu sống người khác, thì đã không phải vì thế mà giảm sút đi chút nào.
Trong mỗi căn hầm thuộc lữ đoàn xe tăng của Klimôvíts, những người được cứu và nhửng vị cứu tinh đến ngồi cạnh nhau, ôm hôn nhau, tranh lời nhau, và vừa kể lại tất cả những chuyện xảy ra một cách chẳng có mạch lạc gì vừa ăn bánh mì, cháo, thịt hộp đến no nê rồi ngủ lăn ra trên những chiếc giường đơn và phản, trên mặt đất, trên những cành lá thông sắc nhọn.
Lữ đoàn trưởng Xerpilin, người chỉ huy đội quân phá vây, đã bị thương ở cả hai chân trong trận chiến đấu cuối cùng. Người sĩ quan tùy tùng và hai xạ thủ tiểu liên dùng áo capốt khiêng ông vào căn nhà gỗ của Klimôvíts và đặt ông lên giường nông thôn có trải tấm chăn bông chần màu xanh lơ. Xerpilin nằm tựa lưng vào những chiếc gối cao màu trắng, người ông dài nghêu, bẩn thỉu, râu ria lởm chởm mớ tóc bạc xòa ra trên cái đầu hói, nhưng ông vẫn ăn mặc chỉnh tề, đeo huân chương Cờ đỏ trên ngực áo và đôi phù hiệu hình thoi trên cố áo: một bên là phù hiệu thật, có lớp mạ đã bong mất; còn một bên lại bằng len cắt ở vành mũ kêpi ra.
Hai chân Xerpilin trong cái quần bồng đã được rạch toang ra tới quá đầu gối đang đặt trên tấm chăn xanh lơ và rỉ máu qua lớp băng bê bết bùn đất. Các xạ thủ tiểu liên đặt ông lên giường xong, bước ra khỏi cửa nhà cùng với người cần vụ của Klimôvíts. Anh này cứ vội vàng muốn đưa họ đi nhanh để cho họ ăn uống, còn người sĩ quan tủy tùng của Xerpilin,—một chính trị viên cao lênh khênh đã mệt nhoài—thì cứ đứng như vị thiên thần hộ mệnh ở ngay phía trên đầu cấp chỉ huy của mình, và chỗ ngay bên thành giường đăm đăm nhìn xuống mặt ông ta.
Klimôvíts ghé ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh giường:
— Đồng chí lữ đoàn trưởng, tôi đã gọi bác sĩ, một vài phút nữa đồng chí ấy sẽ đến. Trước khi nói chuyện, xin phép thay băng cho đồng chí.
— Đồng chí trung tá, thôi đừng gọi bác sĩ nữa, —Xerpilin mấp máy đôi môi một cách vất vả. — Cậu cứ đưa thẳng mình đến tiểu đoản quân y, dù sao ở đây cùng không làm phẫu thuật được. Nhưng trước hết cho mình nói chuyện với tư lệnh tập đoàn quân. Cậu có liên lạc trực tiếp chứ?
— Có.
— Ai là tư lệnh trưởng tập đoàn quân này?
Klimôvíts nói họ tên của tư lệnh trưởng ra.
— Xécgây Philipôvíts à? — Xerpilin hỏi, và trên bộ mặt phờ phạc của ông thoáng một nụ cười.
— Vâng.
— Bạn đồng môn với tớ ở học viện đấy, — Xerpilin nói. — Cho tớ nói chuyện đi!
Klimôvíts liền gọi ngay dây nói cho tư lệnh trưởng mà không phản đối gì. Vả lại chính anh cũng có nhiệm vụ phải báo cáo nữa, vì quá phấn khởi anh đã trễ mất mười phút rồi.
— Trung tá Klimôvíts báo cáo, — anh nói khi tư lệnh trưởng đã đến bên máy điện thoại. — Kết quả của trận chiến đấu vừa qua là đã có một đội quân gồm tới ba trăm người mang theo vũ khí thoát khỏi vòng vây về tới trận địa của chúng tôi. Đồng chí chỉ huy dội muốn nói chuyên với đồng chí.
— Cứ cho nói đi, — tư lệnh trưởng nói vào máy điện thoại.
Klimôvíts đi vòng qua bàn, kéo dây điện thoại từ dưới gầm bàn ra, để chuyển máy nói lại đầu giường. Lữ đoàn trưởng ngửa đầu lên, trông thấy người sĩ quan tùy tùng đang đứng phía trên đầu mình, bèn ra hiệu bằng mắt khiến anh ta hiểu ngay và chạy lại kê gối xuống phía dưới lưng để giúp lữ đoàn trưởng nhổm dậy.
— Đồng chí tư lệnh trưởng, — người lữ đoàn trưởng bị thương nay đã dùng hết sức nói oang oang vào máy điện thoại, chứ không nói khe khẽ như vừa nói với Klimôvíts nữa. — lữ đoàn trưởng Xerpilin báo cáo! Tôi đã đưa được sư đoàn bộ binh một trăm bảy sáu mà tôi được ủy thác ra khỏi vòng vây sang tới khu vực của đồng chí... Chào Xécgây Philipôvíts, Xerpilin đang nói đây...
Mãi tới lúc này, khi nói những câu cuối cùng ấy, giọng của ông mới lạc hẳn đi. Cơn nấc giật chẹn lấy cổ họng ông, rồi ông lăn kềnh ra một bèn, cùng với mấy chiếc gối mà người tùy tùng không sao giữ kịp vì quá bất ngờ. Chiếc ống nghe rơi xuống nền nhà. Khi nhặt nó lên. Klimôvíts vẫn nghe tiếng tư lệnh trưởng nói vì ông tưởng là Xerpilin vẫn ở đầu dây.
— Xerpilin à, Xerpilin nào nhỉ? Phêđôr Phêđôrôvíts, có phải cậu đấy không?
— tư lệnh trưởng nói vào ống nghe mà lủc này Klimôvíts đang áp vào tai mình, bởi vì Xerpilin đã nằm ngất xỉu đi rồi.
Người bác sĩ quân у chạy vào, cúi xuống xem cho Xerpilin, còn cô у tá thì vội vã đặt những hộp đựng xơranh và thuốc tiêm lên chiếc ghế đẩu.
— Xerpilin, sao cậu không nói gì nữa? Có phải cậu đấy không? Xerpilin nào đấy? Sao cậu lại im lặng thế? — tư lệnh trưởng hét vào ống điện thoại.
Còn Klimôvíts thì đang mải nhìn Xerpilin đã bất tỉnh nhân sự, quên khuấy mất rằng lẽ ra từ lâu đã phải báo cáo cho tư lệnh trưởng biết không phải Xerpilin mà chính anh đang nghe ông nói.
— Báo cáo đồng chí tư lệnh trưởng, — cuối cùng anh rời mắt khỏi Xerpilin đang được cô y tá dùng bông thấm ête lau cánh tay cho trước khi tiêm thuốc, — trung tá Klimôvíts đây ạ, tôi đang cầm ống nghe đây ạ, lữ đoàn trưởng bị thương, đồng chí ấy đã ngất đi rồi ạ!
— Hình dạng ông ta ra sao? — tư lệnh trưởng căn vặn. — Cao, gầy, hơi hói phải không?
— Thưa đúng thế, Klimôvíts trả lời, trong phút ấy anh không còn phải nhìn lại Xerpilin nữa.
Khỏi phải nhìn anh cũng đã đủ ghi nhớ suốt đời rằng Xerpilin cao, gày và hơi hói, rằng ông ta đeo một phù hiệu hình thoi có lớp mạ đã vỡ, còn chiếc phù hiệu bên kia thì cắt ở vành mũ kêpi ra, rằng trên ngực ông có tấm huân chương Cờ đỏ, và rằng ông là một người mà quân đội lúc nào cũng vẫn lả quân đội, dù cho nó có rút lui từ biên giới đến Ennha đi chăng nữa, một con người mà không phải nhìn tới lần thứ hai mới hiểu và ghi nhớ được đó là người như thế nào.
— Đúng là Xerpilin rồi! — tư lệnh trưởng mừng rỡ reo lên trong máy điện thoại. — Mà cậu ấy từ đâu ra thế nhỉ? Cậu ấy còn đang... — Suýt nữa tư lệnh trưởng buột mồm nói ra điều Klimôvíts hoàn toàn không cần biết tới, ông bèn nói thêm rằng ông sẽ thân hành xuống lữ đoàn ngay bây giờ. — Chỗ cậu có bác sĩ rồi đấy chứ? Anh ta nói sao?
— Báo cáo tư lệnh trưởng, có đây ạ. Tôi sẽ hỏi đồng chí ấy ngay bây giờ, — Klimôvíts quay lại phía bác sĩ: —Tư lệnh trưởng sẽ xuống đây ngay bây giờ, đồng chí ấy hỏi tình hình sức khỏe của lữ đoàn trưởng thế nào.
Bác sĩ vẫn đứng kế bên Xerpilin, đang xem mạch cho ông.
— Đến đây thì không nên dâu, anh ta thậm chí không quay đầu lại mà nói vậy. — Bây giờ tôi đặt thêm miếng gạc nữa. rồi phải chở ngay đồng chí này đến tiểu đoàn quân y, đưa thẳng lên bàn mổ. Mỗi phút là một phút quý, đồng chí báo cáo với tư lệnh trưởng cho.
— Đồng chí tư lệnh trưởng, Klimôvíts lại cầm lấy diện thoại, — bác sỉ báo cáo rằng phải đưa lữ đoàn trưởng đến tiểu đoản quân y để cho lên bàn mổ ngay bây giờ.
Tư lệnh trưởng thở dài thẳng vào ống nghe và khe khẽ nguyền rủa có vẻ cay cú.
— Thế thì bảo bác sĩ cứ đưa đi. Nói lả tớ sẽ thân hành đến tiểu đoàn quân y, may ra sẽ đến kịp trước khi mổ... Hay thôi, đừng nói nữa: biết dâu họ lại mất bình tĩnh, lại mổ lung tung ra. Nói là tớ sẽ đến tiểu đoàn quân y ngay sau khi mổ. Còn về những việc khác thì khi nào đưa đồng chí ấy di, cậu cứ gọi dây nói cho tham mưu trưởng. Mình nói hết rồi đấy.
Mười phút sau, người ta đưa cáng vào và đặt Xerpilin lên. Klimôvíts đưa tiễn ra đến tận xe cứu thương. Người sĩ quan tùy tùng của Xerpilin theo anh đi ra. Anh ta muốn theo chân bác sĩ và y tá trèo lên xe, nhưng bác sĩ bảo rằng không có chỗ mà cũng không cần thiết nữa.
— Đồng chí bác sí quân y, dù sao tôi vẫn cừ đi. —Người tùy tùng nói và níu lấy thảnh xe.
— Báo cáo trung tá! — người bác sĩ quân y đành phải cầu cứu.
Nhưng bất ngờ thay cho người bác sĩ, Klimôvíts không ủng hộ anh ta, mà lụi ủng hộ người sĩ quan tùy tùng kia. Trung tà cho rằng anh này muốn đi tới tiểu đoàn quân y cùng lữ đoàn trưởng của mình là hợp lý thôi.
— Đồng chí chính trị viên, không sao đâu, cứ trèo lèn! Sẽ tìm ra chỗ đấy. Khi nào về thì cứ cái xe cứu thương này mà về nhé.
— Cái đó còn tùy lữ đoàn trưởng ra lệnh ạ, — người chính trị viên đáp.
— Cố nhiên. Nhưng nếu về thì đến thẳng chỗ tôi nhé.
— Đồng chí trung tá, nhờ đồng chí nói hộ với chính ủy Smakốp của chúng tôi rằng tôi đưa lữ đoàn trưởng đi! — người chính trị viên hét to khi xe đã chạy.
Chiếc xe cứu thương đã đi khuất.
Klimôvits thoáng nghĩ thầm rằng hình như trước kia mình đã trông thấy người chính trị viên cao kều này ở đâu đó thì phải, rồi anh quay vào ngôi nhà gỗ, đặt máy điện thoại trở lại chỗ cũ và quay máy gọi trợ lý hậu cần, dặn dò không nên cho những anh em đã kiệt sức ăn quá no và uống quá nhiều rượu vốtca trong những lúc liên hoan.
— Không thể đưa lòng hiếu khách của lính xe tăng vào khuôn khổ được đâu!—Trợ lý hậu cần định nói đùa trong máy.
— Thì anh phải đưa vào khuôn khổ đi chứ. — Klimôvít ngắt lời. — Và nội trong đêm nay hãy cho tất cả anh em tắm rửa xong cho tôi, thế mới là hiếu khách đấy.
Sau đó, anh gọi dây nói cho chính ủy lữ đoàn, hỏi xem hiện giờ chính ủy của đội quân phá vây là Smakốp có ở đằng ấy không.
— Có đấy. Đồng chí ấy hơi bị ù tai. Một quả mìn nổ ngay bèn cạnh. Nhưng đồng chí ấy đã nằm nghỉ được một lát ổn rồi, bây giờ chúng tôi sắp ăn bữa tối đây.
— Được, cứ ăn đi, tớ cũng đến đằng cậu ngay bây giờ. — Klimôvíts nói vậy đoạn dặn dò người cần vụ chuẩn bị sẵn phòng khi đồng chí chính trị viên quay về đây ngủ, rồi bước ra khỏi nhà.
Những đám mây thấp xám xịt, rách nát, bị gió lùa chạy trên bầu trời, những ngôi sao mùa thu mờ nhạt nhấp nháy trong mây. Một bầu im lặng như tờ bao trùm lấy mặt trận, tựa hồ như trước đó không hề có một trận chiến đấu nào xảy ra cả.
...Còn Xintxốp lúc bấy giờ đang bị xóc mạnh trên chiếc xe ôtô dọc con đường rừng đầy ổ gà, ngồi xổm ở đằng đầu Xerpilin.
Được nửa đường thì Xerpilin hồi tỉnh, nhưng ông vẫn im lặng, chỉ thỉnh thoảng mới mím môi lại mà khẽ rên lên khi gặp ổ gà.
Mãi sau ông mới hỏi:
— Đi đâu thế này? Đến tiểu đoàn quân y hả?
Khi nhận ra tiếng Xintxốp, ông liền bảo anh rằng hễ đến nơi là anh phải quay về sư đoàn ngay. Đã hơn hai tháng nay, ông đã một mực gọi đoàn người cùng phá vây ra với ông là sư đoàn, và cả đến bây giờ vẫn tiếp tục gọi họ như thế.
— Tôi không muốn rời đồng chí. — Xintxốp nghĩ đến tiểu đoàn quân y và việc mổ xẻ sắp tới bèn nói.
Nhưng Xerpilin lại hiểu theo ý khác:
— Ấy ấy, chú ạ, thế thì có mà chú theo tớ đến tận Uran. Người ta sẽ cho tớ nằm điều trị không thiếu chỗ nào đâu! Vậy thì chiến đấu vào lúc nào? Chính bây giờ cuộc chiến tranh mới thực sự bắt đầu đấy.
— Tôi chỉ muốn đợi cho đến lúc mổ xong...
— Ờ, ờ, thế thì cứ đợi! — bây giờ Xerpilin đã hiểu ra, liền nói. — Theo sự hiểu biết trong nghề y sĩ trước đây của tớ thì vết thương không nặng lắm đâu, chỉ phải cái dở là máu ra nhiều quá.
Ông thở dài và bỗng hỏi:
— Cậu còn nhớ là cô bác sĩ nhà mình đã phát khóc lên vì thấy trong vòng vây không thể tiếp máu cho thương binh được không? Máu thì anh em sẵn sàng cho, cô ta lại khéo chân khéo tay, thế mà không có khả năng để tiếp máu! Không có dụng cụ, không có phòng hóa nghiệm... Đúng thế đấy, chú ạ, không có trang bị thì thật là khó, trên đời không còn gì khổ hơn! À náy, cậu ở đằng ấy đừng quên cô ta nhé, nhớ săn sóc cô ấy đấy! Nói với Smakốp thế và cả bản thân cậu nữa... —nói những lời ấy, Xerpilin đưa bàn tay giá lạnh vì mất máu của mình đụng vào tay Xintxốp.
— Đồng chí lữ đoàn trưởng... —cử chỉ đó khiến Xintxốp cảm động, tiếng anh run lên và anh không biết nói thêm gì nữa cả.
Trong cuộc chiến tranh này. anh chẳng sợ mất ai như mất Xerpilin, nhưng anh vẫn sẽ không nói to lên được với ông: «Đồng chí lữ đoàn trửong, mong sao đồng chí không bị chết!»
Toàn tiểu đoàn quân y đang bận tíu tít. Trước khi Xerpilin tới, người ta đã chở tới đây nhiều thương binh loại nặng.
Trong phòng tiếp nhận và phân loại thương bệnh binh, cũng như trong phòng chờ mổ, đều không còn chỗ để chen chân nữa.
Anh em vội vàng kéo cái cáng khiêng Xerpilin ra khỏi xe, rồi mở vải bạt ra, đưa ông vào một chiếc lều tiếp nhận thương binh. Xintxốp len lỏi theo sau cái cáng và dưới ánh đèn vàng vọt tù mù, lần cuối cùng, anh trông thấy bộ mặt mất máu, trắng xanh của Xerpilin.
— Đừng sợ, tớ không chết đâu. Vượt vòng vây ra đây có phải để mà chết đâu.—Xerpilin nói, tựa hồ như để đáp lại cái nhìn lặng lẽ có vẻ cầu khẩn của Xintxốp.
Những người cứu thương khiêng chiếc cáng bằng những quai đeo vai bện bằng xà cạp, họ đã mệt mỏi, những đôi vai của họ rung rung nên bộ mặt của Xerpilin cùng rung theo.
Người ta khiêng ngược về phía họ một người đắp vải trải giường, hình như đã chết rồi. Anh em cứu thương bèn phải nép vào một bên ở lối ra vào để nhường chỗ khiến cho chiếc cáng trong tay họ bị lắc lư, họ vội vàng giữ lại cho yên, rồi đưa Xerpilin vào phòng mổ.
Xintxốp cừ lo lắng đi quanh quẩn bên phòng mổ tới gần hai tiếng đồng hồ: cuối cùng người bác sĩ quân y hồi nãy đưa Xerpilin từ lữ đoàn xe tăng đến đây, bước ra nói rằng lữ đoàn trưởng đã được tiếp máu và gắp ở chân ra hai viên đạn, tim ông đã chịu đựng nổi và bây giờ đã có thể coi là không lo nguy hiểm gì đến tính mệnh nữa.
— Trước mắt là như vậy, — người bác sĩ quá cẩn thận nói thêm, nhưng Xintxốp đã không nghe đến câu ấy nữa.
Anh chỉ cần hiểu một điều: đồng chí ấy vẫn sống!
Và niềm vui sướng được trở về với quân ta, trước đây bị nỗi lo ngại cho tính mệnh của Xerpilin nén xuống như một hòn đá, nay đã tràn ngập toàn bộ tâm hồn anh không sót chỗ nào Anh cố xin bác sĩ nán lại cho mươi phút rối đến chỗ tiểu đoàn trưởng quân y để nhờ gọi ngay dây nói cho Smakốp.
Tiểu đoàn trưởng toan từ chối, báo rằng trung tá Klimôvíts, chỉ huy lữ đoàn xe tăng đã gọi dây nói tới đây, đã được biết hết tình hình và người ta cũng đã báo cáo lên cả tập đoàn quân nữa rồi! Nhưng Xintxốp cứ như người điếc, vẫn nằng nặc đòi được gọi dây nói, người ta đành phải bắt liên lạc với đơn vị xe tăng theo đường vòng, qua phòng tham mưu cua sư đoàn bộ binh trực tiếp chỉ huy tiểu đoàn quân y này, và cuối cùng đã lùng tìm được Smakốp.
Qua điện thoại, Xintxốp báo cáo cho Smakốp biết việc mổ xẻ tiến hành ra sao và hiện nay tình hình sức khỏe Xerpilin như thế nào, nhưng thực ra ông đã được nghe Klimôvits kể lại một lần đầu đuôi câu chuyện rồi. Và như thế vẫn chưa yên tâm, Xinxốp còn nói thêm rằng sẽ đến chỗ ông và trực tiếp kể lại lần nữa
— Được, nhưng để đến sáng mai nhé, Smakốp cắt ngang cơn hăng say của anh, — của đáng tội. mình thì tháo ủng ra rồi, đang định đi nằm, mà cả anh cũng phải nghỉ ngơi đi thôi, hôm nay như thế là đủ mệt rồi đấy.
Nhưng Xintxốp đâu có thể nghỉ ngơi được.
Nuốt vội nuốt vàng chưa xong ít nước trà nóng với mấy chiếc bánh khô, anh nói là mình vội rồi đứng phắt dậy.
Nhưng khi từ biệt thì anh đột nhiên níu lấy ống tay áo của ông tiểu đoàn trưởng quân y và sung sướng trình bày với ông ta trong năm phút liền rằng Xerpilin là người như thế nào và Xerpilin vẫn còn sống thì thật là tốt như thế nào.
Sau đó. vẫn với tâm trạng phấn khởi ấy, tựa hồ như có ai bôi mỡ vào lưỡi, suốt dọc đường về, anh cứ huyên thuyên kể cho người bác sĩ đang ngủ gật nghe rằng mình đã vượt vòng vây ra sao.
Thậm chí khi về đến căn nhà gỗ của Klimôvíts anh vẫn chưa buồn nằm xuống chiếc giường sắt đã dọn sẵn cho mình.
Không thấy Klimôvíts ở nhà. Anh chàng cần vụ ngái ngủ thì bực mình trả lời rằng trung tá đã ra tiền duyên để tiến hành kiểm tra việc kéo những chiếc xe tăng bị vướng mìn nổ về trước lúc trời sáng.
Vẫn trong tâm trạng xúc động phấn khởi như vậy, thoạt tiên không hiểu tại sao Xintxốp lại quyết định chờ cho đến lúc trung tá quay về, sau đó, vừa đi đi lại tại trong căn nhà, anh vừa căn vặn người cần vụ xem lữ đoàn xe tăng đã phải phá vòng vây bao giờ chưa và ở chỗ nào.
Cuối cùng, anh đề nghị đồng chí kia đi hỏi xem phòng tắm đã đun nước nóng chưa, có kịp tắm ngay bây giờ mà không cần chờ đến sáng mai được không.
«Phòng tắm nào cho ông được bây giờ, cái lão ma còm này? Nằm xuống mà ngủ nhanh lên. kéo lại khuỵu xuống như con ngựa ốm bây giờ!»— anh cần vụ nghĩ thầm nhưng không nói ra, chỉ quay lưng lại, càu nhàu, vớ lấy chiếc mũ calô treo trên đinh, rồi đi hỏi tình hình.
Khi anh trở về thì thấy Xintxốp đang ngồi trên chiếc giường sắt, đầu ngoẹo sang một bên vai, ngủ say như chết.
Người cần vụ lắc đầu, kéo đôi ống ướt sũng, rách nát từ chân người chính trị viên ra, tháo nốt đôi xà cạp đen như bồ hóng, rồi đỡ lấy hai vai anh, đặt cho anh nằm kê đầu lên chiếc gối.
Đến khí Xintxốp bừng mắt dậy thì thấy trong nhà đã sáng trưng. Klimôvíts đang ngồi trên ghế đẩu trước tấm gương nhỏ treo trên tường, cạo nốt râu trên mặt. Anh đi ủng, mặc quần bồng và áo sơ mi lót với chiếc khăn mặt tổ ong nhét trong cổ áo.
— Thế là tỉnh rồi đấy hả,—anh vừa quay nửa ngươi lại với chiếc dao cạo trong tay vừa nói. Mặt anh đã cạo được một nửa còn một nửa đang phủ đầy bọt xà phòng.
— Đồng chí trung tá, — Xintxốp thõng chân xuống khỏi giường, chăm chủ nhìn ông chủ nhà của mình rồi nói:— Hôm qua. Tôi chưa nghe rõ, có phải tên đồng chí là Klímôvíts không ạ?
— Phải, mà sao?
—Thế tôi là Xintxốp đây. Đồng chí không nhận ra ư?
Klimôvíts lặng lẽ đặt dao cạo lên bậu cửa sổ, liếc nhìn từ đầu đến chân cái người râu ria xồm xoàm, gầy gò, vai rộng, vừa mới từ trên giường đứng dậy, tựa hồ như để thẩm tra lần cuối cùng xem có thể như thế không, rồi bước nhanh về phía anh ta.
Họ ôm chầm lấy nhau, thậm chí Xintxốp ứa cả nước mắt ra—đó là kết quả của sự mệt nhọc và nỗi xúc động.
— Thảo nào hôm qua mình cứ ngờ ngợ là đã gặp cái anh chàng chính trị viên này ở đâu rồi ấy! — Kliimôvíts vội mỉm một nụ cười.
— Còn mình, nếu cậu không xưng họ tên ra, với bộ mặt cạo nhẵn nhụi thế này mình cũng chẳng nhận ra cậu được đâu.
—Cạo râu mà cạo chưa xong đấy!—Klimôvíts sục nhớ ra liền quay về tấm gương để tiếp tục cạo nốt.
Có lẽ trong một tình huống khác, họ đã hân hoan với nhau hơn. Nhưng cuộc gặp gỡ hôm qua trong chiến đấu đã đưa niềm vui của con người lên đến cực điểm khiến người ta không thể cảm thấy hân hoan hơn được nữa.
Hôm qua, cả hai người đã cảm thấy sung sướng thực sự, còn giờ đây họ chỉ thấy thú vị, vì đã gặp nhau và vẫn nhận ra nhau kể từ khi rời ghế nhà trường phố thông cho đến nay, do đó câu chuyện của họ dễ dàng trở nên thân mật.
— Lữ đoàn trưởng của cậu ổn rồi, — Klimôvíts vừa bôi xà phòng lên mặt lẩn nữa trước khi cạo vừa nói. — Người ta đã đưa ông ấy ra khỏi tiểu đoàn quân y, và nghe nói sau đó sẽ đưa lên máy bay đi Maxcơva! Đến bộ tham mưu mặt trận cũng đã phải hỏi vể ông ấy và suýt nữa thì cả Tổng hành dinh cũng hỏi nữa! Tư lệnh trưởng đã thân hành đến chỗ ông ấy từ sáng. Sao ông ấy lại là lữ đoàn trưởng nhỉ? Không kịp giám định để phong quân hàm à?
— Không kịp, —Xintxốp không muốn đi sâu vào chi tiết, nên chỉ trả lời có thế thôi. Anh đã được nghe nói về quá khứ của Xerpilin nhưng giờ đây, sau hai tháng chiến đấu, anh không còn muốn nói đến chuyện ấy nữa. — Ở, thế nghĩa lả lúc này sư đoàn chúng tớ không có người chỉ huy...
— Còn có sư đoàn thì sẽ có người chỉ huy thôi! — Klimôvíts đáp.—Cậu thế nào, ở sư đoàn ngay từ đầu à?
Tất cả câu chuyện của mình trước khi đến với đơn vị Xerpilin, Xintxốp đã kể lại chỉ bằng mấy câu vắn tắt đến nỗi chính anh cũng thấy ngạc nhiên.
— Thế nghĩa là cậu lạc ngũ mà trở thành lính chiến đấu. — Klimôvíts nói với giọng đùa cợt đượm vẻ tán thành,—Tớ cũng vớ được vô số lạc binh như vậy trong lúc vượt vòng vây, và có cả những tay chiến đấu cừ đến nỗi mình không hình dung nổi, nếu không có họ thì sống làm sao đấy!
Xintxốp cảm thấy lòng mình ấm lên trước lời khen ngợi gián tiếp đó, và anh phát biểu với Klimôvíts điều mà trong lúc vượt vòng vây anh đã nghĩ đến nhiều lần: anh sẽ không xin trở về tòa báo nữa mà sẽ ở lại sư đoàn.
— Miễn sao người ta giữ sư đoàn lại, không phân tán các cậu đi. Việc này đã có cả trên tập đoàn quân và cả trên mặt trận cử người xuống nghiên cứu với các cậu, tớ chẳng biết ý định trên ấy ra sao...
— Còn nghiên cứu gì với chúng tớ nữa nhỉ? Chúng tớ đã ra khỏi vòng vây với tư cách là một đơn vị: có quân phục chỉnh tề. có vũ khí, có cả quân kỳ.
— Nếu không thế thì người ta đã nói chuyện với các cậu một cách khác rồi.
Người ta đã đưa cái bầy nô lệ của Chúa trời ấy đi để thẩm tra theo như luật lệ đã quy định và người ta sẽ quần cho bã người ra: anh là ai, người ở đâu, sao lại sa vào vòng vây, sao lại vượt vòng vây? — Khi nói đến câu cuối cùng, Klimôvíts mỉm cười vẻ không vui.
— Thế mà còn cười được à! — Xintxốp bỗng phát khùng lên.—Thế là cái quái gi, tốt lắm hả?
— Nào có tốt đẹp gì cho cam! Nếu tốt đẹp thì bây giờ chúng ta đã không phải đánh nhau ở Ennha mả đánh nhau ở Kênicxbéc(1) kia, còn bọn Đức thì phải bị chúng ta vây và vượt vòng vây thay chúng ta kia chứ! Nhưng nói chung, rất có thể ông Xerpilin nhà cậu sẽ chứng minh được rằng phải giữ số hiệu cho sư đoàn và bổ sung thêm quân số, chứ không nên đem những phần còn lại của sư đoàn xé lẻ lung tung ra. Rất có thể là như thế, — Klimôvíts nhắc lại. Anh muốn an ủi Xintxốp khi thấy rõ ràng anh chàng đã sa sầm mặt xuống.— Vả lại, các cậu đã mang được cả quân kỳ ra khỏi vòng vây. Cách đây ít lâu, báo chí có nói tới một số anh em thoát khỏi vòng vây, ngoài một lá cờ ra chẳng đem theo được gì nữa cả, ấy thế mả người ta cũng làm ỏm tỏi lên rồi đây.
— Thế thì có gì là xấu?—Xintxốp phật ý hỏi.
— Mà cũng có gì đặc biệt tốt không?— Đến lượt Klimôvíts hỏi lại. — Ngoài lá cờ ra còn phải cố gắng mang được cả xe tăng, cả pháo, cả những người còn tiếp tục chiến đấu được nữa! Cờ thì lúc nào anh cũng có bổn phận phải mang ra, nếu anh còn có lương tâm. Cánh tớ cũng đã mang được cờ ra khỏi Xlônim đấy, nhưng chẳng coi đó là công trạng gì, bời vì có làm thế nào khác được đâu? Mà cũng bởi vì trong số một trăm bốn mươi chiếc xe tăng cánh tớ chỉ đưa ra được có bảy chiếc, thì còn có gì đáng để khoe khoang nữa cơ chứ!
Nhưng cái thằng cha nhà báo nào cứ viết nhặng xị lên: «Lá cờ! lá cờ!», lẽ ra cùng phải viết một chữ nào đó nói rằng ngoài lá cờ họ còn mang ra được bao nhiêu con người nữa chứ! Làm như cái đó là hoàn toàn không quan trọng gì ấy! Một thằng vua tán phét nào trong khi vui miệng đã ba hoa với gã này rằng hắn vừa thoát chết, thế là anh chàng bèn phết luôn một bài...
(1) Một thành phố trên bờ biển Bantích, thuộc nước Lítva bị Đức chiếm đóng trái phép, đặt tên là Kênicxbéc. Sau nước này giành được độc lập gia nhập Liên bang Xô viết, thành phố mang tên Kaliningrát.
— Tớ hiểu, cậu khỏi phải than phiền về các nhả báo,— Xintxốp nói.
— Than phiền về họ làm quái gì? Nếu thằng cha ấy đã được nếm mùi, biết được tâm trạng của những ai tuy mang được cờ nhưng không mang được xe tăng ra thì có lẽ hắn đã viết theo kiểu khác,
— Như tớ chẳng hạn, tớ đã được nếm mùi rồi đó,— Xintxốp nói.
— Đối với cậu thì khỏi phải nói nữa, bây giờ cậu đã là lính rồi, — Klimôvíts cắt đứt câu chuyện và lôi ở dưới gầm bàn ra một đôi ủng mới tinh còn nguyên mùi hắc ín, buộc bằng một sợi dây nhỏ, rồi ném xuống dưới chân Xintxốp: — Này, ướm thử xem!
Đôi ủng chặt quá khiến Klimôvíts bực mình, vì anh không còn đôi nào khác nữa cả.
— Cậu có hai cái bánh xe khá thật! — Anh đưa mắt nhìn đôi bàn chân không giày của Xintxốp. — Cứ vào bộ binh mà cuốc là tốt.
— Có sao đâu, thì tớ đã cuốc rồi...
— Thế cậu tưởng là tớ không cuốc à? Khi không còn xe tăng nữa thì xin mời anh cứ cuốc bộ cho. Tóm lại. Tổ quốc ta vĩ đại tươi sáng biết bao này(1)...
Giá năm ba mươi chín, sau chiến sự Khankhingôn có ai bảo tớ rằng sẽ phải cuốc bộ như vậy thì tớ đã coi là chế giễu và sẽ trần cho một mẻ ngay.
Nhưng không sao. — Anh rảy nước hoa vào khăn mặt, lau mặt lau đầu sau khi cạo xong, rồi ra đứng trước mặt Xintxốp, giạng hai chân tựa hồ như thách ai đến đánh nhau với mình, mặc dù thân hình anh nhỏ bé nhưng vai anh rộng, những bắp thịt rắn chắc nổi lên cuồn cuộn dưới tấm áo sơ mi lót.
—Đừng lo, cứ đợi đây, tớ sẽ còn cưỡi chiếc xe tăng ba mươi tư của tớ tiến vào nước Đức cho mà xem. Và tớ sẽ cho cậu ngồi trên thành xe, cố nhiên là nếu đến lúc ấy chúng mình chưa «yên giấc ngàn thu» và nằm trong «bốn dài hai ngắn». Thế nào Khautxốp đã mang bữa sáng đến đấy hả? nghe tiếng cửa mở ken két sau lưng mình, Klimôvíts hỏi.
— Thưa đúng thế! — Anh cần vụ vừa nói vừa đặt lên bàn chiếc ấm trà và mấy cái đĩa phủ khăn mặt.
— Thế phòng tắm có chỗ không?
— Tôi chưa dám báo cáo là có chỗ đâu ạ, thưa đồng chí trung tả...
— Bao giờ cánh tớ uống trà xong, anh đưa chính trị viên đi tắm nhé. Anh đã lấy cho đồng chí ấy bộ quần áo lót rồi chứ?
— Thưa đúng thế! Tôi chỉ sợ rằng... —anh cần vụ liếc nhìn cái tầm vóc dài nghêu của Xintxốp.
— Ta hẵng ăn sáng cái đã. — Klimôvíts vừa nói vừa kéo cho phẳng vạt áo quân phục.— Kẻo tớ lại bận mà cậu còn phải cạo râu nữa. Đúng mười một giờ cấp trên sẽ triệu tập sĩ quan đơn vị cậu. Thế mà cậu thì râu ria xồm xoàm như ông cố đạo ấy, chỉ thiếu có cây thánh giá trước ngực.
Trong khi ăn sáng. Klimôvíts không quay lại câu chuyện nghiêm trang nữa và nói chung có vẻ vội vàng.
Anh khuyên Xintxốp sau trận đói nên ăn chậm và nhai kỹ, rồi uống vội hai cốc trà và đứng dậy.
— Xin lỗi nhé, hết giờ rồi. Nếu cậu muốn viết thư báo cho người nhà biết là đã được Chúa Kitô phục sinh cho, thì cứ viết, rồi đưa ngay cho Khauxtốp, tức là cậu cần vụ ấy, cậu ta sẽ gửi đi cùng với bưu phẩm mặt trận ngay hôm nay.
— À mà gia đình cậu thế nào, ở đâu nhỉ? — Tựu hồ như bị ngứa miệng, Xintxốp bỗng hỏi.
— Tớ không có gia đình. — Klimôvíts trả lời rất nhanh, giọng lạnh lùng nghe đến là kỳ cục, rồi ra thẳng, không một lời từ biệt.
Xintxốp nín lặng nhìn cánh cửa đã đóng sập lại sau lưng Klimôvíts.
«Sao cậu ta lại trả lời bằng cái giọng lạnh lùng thế nhỉ? Hay gia đinh cậu ta có chuyện gi: lục đục, ngoại tình, ly dị chăng?» Xintxốp băn khoăn tự hỏi mình, và mãi khi bắt gặp cái nhìn cau có với vẻ trách móc của người cần vụ, anh mới sực hiểu ra câu chuyện của Klimôvíts không phải là về tình hình lục đục, ly dị hay ngoại tình, mà là cánh chết chóc của gia đình...
(1) Một câu trong bài hát «Ca ngợi Tổ quốc» của Liên Xô đã được dịch ra tiếng Việt, chủng tôi để nguyên như bài hát đã dịch.
Ba chục cán bộ quân sự và chính trị vừa thoát khỏi vòng vây cùng với Xerpilin đã tập trung trong nhà bạt của phòng chính trị lữ đoàn. Qua một đêm, ai nấy đều đã cạo râu, tắm rửa. thay giặt quần áo, đánh giày sạch sẽ.
Một số người đêm trước hình dạng trông thật tả tơi, bây giờ đã mặc quân phục bộ đội xe tăng màu xám: trái tim đâu phải là gỗ đá — theo lệnh của Klimôvíts, người trợ lý hậu cần của anh đã hào phóng phát ra cho họ tới mười bộ.
Khi bước vào nhà bạt, mọi người vui mừng chào hỏi anh em mà đều không nhận ra nhau. Khó lòng tưởng tượng được rằng vẻn vẹn chỉ có một đêm sống trong những điều kiện bình thường của con người, việc tắm rửa và cạo râu lại có thể thay đổi người ta đến mức ấy.
Chính ủy tiểu đoàn Smakốp giới thiệu anh em đã cùng mình chiến đấu trong vòng vây với các vị thủ trưởng mới đến, rồi đặt lên bàn bản danh sách gồm ba trăm mười hai ngươi đã đột phá được ra khỏi vòng vây quân Đức.
Ba vị thủ trưởng mới đến gồm: một chính ủy trung đoàn thuộc phòng chính trị tập đoàn quân, một người đàn ông tóc đen, dịu dàng, hiền lành, do thiếu ngủ nên hay ngáp vặt, một trung tá thuộc phòng phiên chế các đơn vị của mặt trận — một người đứng tuổi, ngồi thẳng đờ như một cái gậy («Đúng là mặt sắt đen sì», — vừa trông thấy lần đầu, Xintxốp đã nghĩ thầm về ông ta như vậy), và một thiếu tá nhỏ bé thuộc phòng đặc biệt, không hiểu sao lại mặc quân phục biên phòng, với bộ mặt lầm lỳ và hai môi mím chặt một cách nghiêm nghị
Cuộc trò chuyện sáng nay với Klimôvíts đã khiến cho Xintxốp phải lưu tâm.
Theo sự mong ước của anh, lẽ ra trước hết nên cho tất cả những người đã thoát khỏi vòng vây tập hợp lại một cách long trọng với quân kì và với vũ khí trong tay, rồi biểu dương về tinh thần chiến đấu của họ thì đằng này không hiểu sao người ta lại tập trung các cán bộ vào một túp lều, tách rời với các chiến sĩ... Và bỗng nhiên Xintxốp thấy hình nlư mọi việc nhất định sẽ diễn ra không đúng như ý anh muốn thậm chí ở một mức độ đáng bực nữa là khác.
Song trái lại, câu chuyện mở đầu có vẻ không đáng bực chút nào.
Người chính ủy trung đoàn dịu dàng kia của phòng chính trị tập đoàn quân đã phát biểu ý kiến đầu tiên và nói rằng việc tập hợp anh em một cách long trọng ở đây, nơi gần hỏa tuyến, là không hợp lý. Sau khi đến địa điểm mới ở huyện Iukhơnốp là nơi tất cả anh em sẽ được di chuyển tới ngay trong ngày hôm nay, ta sẽ làm việc đó cũng vẫn chưa muộn. Thay mặt bộ tư lệnh, ông chúc mừng các cán bộ quân chính, nhân dịp thoát khỏi vòng vây, và nói là các đồng chí cán bộ phải hiểu rằng việc giải quyết vấn đề có giữ số hiệu cho sư đoàn hay không, có để nguyên sư đoàn và boor sung cho nó hay không— vấn đề mà đồng chí Smakốp đã nêu ra với ông—sẽ được giải quyết không phải trong vòng một hôm, hơn nữa không phải do ông mà thậm chí cũng không phải do bộ tư lệnh tập đoàn quân nữa. Còn trong lúc vấn đề đang được cấp trên giải quyết thì không thế coi tất cả những người đã vượt vòng vây là một đơn vị chiến đấu được, mà phải coi là một cánh quân tạm thời được thành lập trong điều kiện bị bao vây, cánh quân đó đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. Mà nếu như vậy thì giờ đây nó không còn tổn tại như một đoàn quân nữa, những ai có nhiệm vụ quan tâm đến việc này, từ nay trở đi sẽ xem xét vấn đề của từng anh em ở đây một cách riêng biệt, có chú ý đến quân hàm, chức vụ và tinh thần của từng người biểu hiện trong khi bị bao vây.
— Vả lại,—chính ủy trung đoàn nói thêm, — theo tài liệu sơ bộ thì trong đoàn quân này chỉ có một trăm linh bảy người là thuộc sư đoàn 176, còn số hai phần ba còn lại là những người đã sát nhập vào trong những thời gian khác nhau.
Trong lúc chính ủy trung đoàn nói tất cả những điều kể trên thì Smakốp vừa dùng góc khăn mùi soa luồn dưới cặp kính mà lau đôi mắt toét nhoèn vì mất ngủ vừa luôn luôn chăm chú nhìn ông ta. Trước khi có cuộc nói chuyện chung này, hai ngươi đã từng hội ý sơ bộ với nhau một lần, và Smakốp luôn lo lắng chờ xem bây giờ chính ủy trung đoàn sẽ nói ra sao—nói đúng hay không đúng những điều mà theo ý Smakốp cần phải nói tới.
Sau đó, chính ủy trung đoàn quay sang ông trung tá của phòng phiên chế các đơn vị và, với giọng the thé, cứng đờ như que củi, ông trung tá này bảo rằng khi anh em đến địa điểm thuộc quyền ông chỉ huy, người ta sẽ tiếp tục nói chuyện thêm với họ, còn bây giờ các đồng chí cán bộ phải tập hợp anh em lại, chỉ huy việc đưa họ ra xe — xe đỗ trong một khu rừng nhỏ cách đây một cây số — và xếp cho họ lên xe, mỗi xe là hai chục chiến sĩ với hai sĩ quan. Địa điểm quy định phải đến — làng Liútcôvô ở gần Iukhơnốp, đường dài — một trăm bốn chục cây số, đường hành quân — hướng đông-nam theo đường Ennha — Xpaxơ-Đêmenxk, sau đó theo đường ôtô ở Iukhơnốp mà đi về phía đông. Cự ly hành quân giữa các xe là ba chục mét, trong trường hợp bị máy bay đánh phá thì phải phân tán anh em ra cách xa trục đường. Bản thân ông sẽ đi trên chiếc xe con ở đầu đoàn. Nói lia lịa như gõ mõ một hồi về tất cả những điều ấy xong, ông trung tá lặng im, và hình như ông ta không buồn nói thêm gì nữa.
Khi ông trung tá đã kết thúc bài phát biểu của mình, chính ủy trung đoàn quay sang hỏi thiếu tá biên phòng thuộc phòng đặc biệt.
— Thế nào, đồng chí Đanilốp, đồng chí có thêm bớt gì nữa không, hay chúng ta bắt đầu lên đường?
Ông thiếu tá có cặp môi mím chặt một cách nghiêm nghị ấy rõ ràng là chưa vội trả lời ngay, nhưng rồi cuối cùng ông ta cũng đã chịu mở mồm ra, và bằng một giọng trầm đanh, ông nói là không thêm bớt gì, nhưng có vấn đề muốn hỏi người cao cấp nhất trong đoàn. Nói đến đó, ông quay sang phía Smakốp.
— Đã nộp vũ khí chưa?
— Vũ khi nào?—Smakốp hỏi lại.
— Vũ khí chiến lợi phẩm mà anh em trong đoàn vẫn đang giữ.
— Nhưng tai sao chúng tôi lại phải nộp nhỉ?—Smakốp ngạc nhiên.—Chiến lợi phẩm hay không, đó là vũ khí của chúng tôi, chúng tôi đã mang từ trong vòng vây ra, cớ sao chúng tôi phải nộp?
Mọi người ai nấy đều xao xuyến, bàn tán xôn xao cả lên
Thiếu tá biên phòng đợi cho lắng tiếng ồn, và không hề cất cao giọng, ông nói rằng trong quân đội không có vũ khí của các anh hay vũ khí của chúng tôi, mà chỉ có vũ khí được phát theo biên chế và chỉ trao cho cầm tay khi đã quy định được phép cầm vũ khí trong tay. Theo quy định thì những quân nhân đang được đưa đến chỗ phân loại và phiên chế nói chung đều không được cầm vũ khí, huống hồ đây lại là vũ khí chiến lợi phẩm. Phải nộp vũ khí chứ không được mang theo về hậu phương. Ở đây không có gì phải bàn nữa.
— Chưa biết là có hay không có gì phải bàn! — Smakốp gay gắt nói. &mdas