← Quay lại trang sách

Chương 2 Nẻo đường chiến tranh

Trên chiến trường đã diễn ra tình huống phức tạp. Kẻ thù chiếm được khá nhiều vùng lãnh thổ phía Tây của đất nước. Cần phải làm cho bọn chúng kiệt sức và chặn đứng sự liều lĩnh của chúng lại. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi chúng tôi được đưa thẳng vào cuộc chiến.

Và rồi nhiệm vụ đầu tiên được giao... Thật biết bao nhiêu là ý định, là dự đoán và những lời đề nghị diễn biến trong đầu! Mệnh lệnh chiến đấu rất ngắn gọn: "Phải oanh kích đoàn quân địch cùng những khí tài của chúng đang di chuyển trên tuyến đường quốc lộ".

Thoạt đầu, tôi ngợp trong niềm vui khôn tả, nhưng rồi sau đó lại nhường chỗ cho sự hồi hộp. Điều đó cũng dễ hiểu thôi: chúng tôi được tin cậy, được giao cho vũ khí để bảo vệ mảnh đất thân yêu, bảo vệ những người đang đi dưới làn bom đạn địch để sơ tán sang phía Đông. Và mặc dù không một ai trong số chúng tôi được nếm mùi chiến trận, được thử lửa, cũng chưa hề có khái niệm cụ thể thế nào là đòn oanh kích - chúng tôi không hề sợ hãi những điều ấy. Khí thế chiến đấu đang hừng hực, không cảm thấy chút gợn nào lo lắng.

Chúng tôi lập hành trình bay, vị trí của đoàn quân địch trên bản đồ được đánh dấu bằng những khoanh tròn màu xanh, rồi xác định thứ tự công kích. Vài phút sau, cả nhóm chúng tôi đã ở trên trời. Bây giờ thì mọi sự chú ý đều tập trung vào việc điều khiển máy bay. Tôi đem hết tinh lực ra quan sát, tìm kiếm những giao thông hào, những ụ súng, những xe tăng, muốn sao bãi chiến trường giống hệt như trí tưởng tượng của mình, nhưng dưới cánh máy bay lại là những cánh đồng, những con đường không còn sự sống, những làng quê ảm đạm, tiêu điều như những hoang mạc, đường phố thì vắng tanh không một bóng người.

Phía trước chừng như có đám cháy lớn. Tôi lấy bản đồ bay ra so sánh. Chúng tôi đang bay qua vùng giáp ranh giữa các cụm quân. Kẻ địch ở đâu nhỉ?, "Sẽ ra sao nếu bầy giờ bọn tiêm kích địch xuất hiện, chúng có ưu thế về độ cao lao vào tấn công chúng tôi? - Tôi thoáng nghĩ - chúng tôi sẽ chiến đấu thế nào đây?".

Những ý nghĩ của tôi bị cắt đứt bởi tín hiệu của số 1: chuẩn bị tấn công. Phía trước phát hiện thấy một dải bụi dài của con đường đầy bụi bốc lên.

Tôi lật chốt bảo hiểm, kiểm tra kính ngắm. Trên dường đã thấy rõ những chiếc xe được tháo bạt, kéo những cỗ súng và cuối đoàn là những xe chở nhiên liệu.

Biên đội đầu tiên lượn vòng vào công kích, theo sau họ là những biên đội còn lại.

Tôi đưa thẳng vào kính ngắm chiếc xe đi đầu, tôi còn thấy rất rõ bọn lính chạy dạt sang hai bên đường. Giữ tâm kính ngắm vào mục tiêu, tôi ấn cò súng. Tôi nghe thấy những tiếng nổ khô giòn của các khẩu súng trên máy bay.

Thoát ly khỏi công kích ở độ cao thấp, tôi thấy rõ mồn một trước mắt mình cả đường viền trắng của chữ thập ngoặc đen trên thành xe. Tôi kéo máy bay lấy độ cao và đến bấy giờ mới nhận thấy chúng tôi không còn giữ đội hình chặt chẽ như trước nữa, các tiêm kích lập hàng tuyến chung rồi tự chọn mục tiêu tấn công.

Chiếc nọ nối tiếp chiếc kia công kích. Chúng tôi dội màn lửa dày đặc từ các họng súng liên thanh xuống đoàn quân địch đang ách tắc trên đường. Những chiếc xe bốc cháy. Tất cả chìm trong biển lửa. Chúng tôi không quan tâm đến dầu liệu và đạn dược trên máy bay mình còn nhiều hay ít, mà đồng loạt vào công kích bọn lính địch đang chạy tán loạn cho tới khi hết đạn mới thôi. Cần phải nhanh chóng quay về sân bay. Đã có tín hiệu tập hợp đội hình của số 1 rồi.

Chúng tôi tập hợp biên đội. Mặt trời đã xuống thấp dưới đường chân trời. Vậy là kết thúc ngày đầu tiên đầy ấn tượng ở ngoài mặt trận.

Chỉ mãi sau này, khi chúng tôi đã có chút ít kinh nghiệm chiến đấu, chúng tôi mới hiểu được cái niềm hạnh phúc thật hiếm hoi đã đến với chúng tôi ở lần xuất kích ấy. Bọn phát xít bị bất ngờ, không kịp đối phó tý nào, vì vậy mà chúng tôi công kích đoàn quân kia không vấp phải một sự kháng cự nào cả. Giả dụ như có một vài tốp tiêm kích địch xuất hiện thì chắc đội hình của chúng tôi cũng không thể trở về nguyên vẹn được.

Trận chiến thắng đầu tiên này đã khích lệ chúng tôi. Sau khi hạ cánh, các phi công tranh nhau kể lại cảm tưởng của mình về trận đánh đầu tiên.

- Tôi nện vào xe chở dầu mới khiếp nhé, - một phi công nói, - nó bốc lửa ngay lập tức, bản thân mình cũng thấy ghê...

- Còn anh thấy không, bọn Đức ở trên xe thật không khác gì lũ chuột, cứ chạy tán loạn, - người khác chen vào, - lại còn những thập ngoặc trên thành xe nữa chứ...

- Những thập ngoặc tôi cũng nhìn thấy, - Nhexcherencô hưởng ứng, - nhưng mà, nếu chúng ta cứ bay với đội hình mật tập như vậy thì rồi bọn Đức sẽ cho chúng ta bài học đấy.

- Không thể như thế được, - ai đó phản đối một cách tự tin.

- Nhexcherencô nói đúng đấy, - biên đội trưởng Philatôp - người từ nãy tới giờ ngồi im lặng lên tiếng khẳng định. Đội hình của chúng ta vừa rồi bay tựa như đàn ruồi ấy. Ai muốn làm gì thì tuỳ ý. Tự chọn, tự công kích bất kỳ mục tiêu nào tuỳ thích. Cứ nói là hiệp đồng tác chiến, yểm hộ lẫn nhau, nhưng nào có ai quan tâm đến ai đâu. Chẳng có gì gọi là bảo vệ nhau cả!

Phân tích trận xuất kích đầu tiên của mình, chúng tôi rút ra rằng, bay trong đội hình mật tập, các cơ động rất bị hạn chế, hoàn toàn loại bỏ mất khả năng cảnh giới và không thể phản công được nếu bị kẻ địch tấn công.

Thế đấy, chúng tôi, những huấn luyện viên kỳ cựu bắt đầu được học bài học mới với những định luật khắc nghiệt của trường học chiến tranh là thế đấy.

Sáng sớm ngày hôm sau, chúng tôi lại xuất kích tiếp. Lần này chúng tôi đi oanh kích cụm quân địch đang ở khu tập kết. Bay gần đến mục tiêu, tôi chuẩn bị vòng vào công kích. Bất ngờ, tôi phát hiện thấy phía trước có 4 cụm khói đen. Chúng xuất hiện tức thì và treo trên nền trời xanh thẳm, còn từ phía dưới đất là những vệt lửa kéo dài từ các nòng pháo cao xạ. Những điểm nổ nhiều vô cùng, vây chặt quanh máy bay.

Khi tôi đưa máy bay vào bổ nhào, tôi có cảm giác là tất cả các luồng lửa kia đều hướng về phía tôi cảm giác về mối hiểm nguy chết chóc chợt bao trùm. Muốn nhanh chóng thoát ly khỏi công kích, tránh khỏi các luồng lửa đạn. Nhưng máy bay thì vẫn bổ thẳng vào mục tiêu. Tôi ấn cò súng. Những khẩu súng trên máy bay nhả đạn xối xả, cảm giác lo lắng lại ập đến. Tôi kéo máy bay thoát ly, cơ động giữa các làn lửa đạn, sau đó lại tiếp tục chọn mục tiêu vào công kích lần nữa.

Chúng tôi oanh kích, và cũng như ngày hôm trước, đến viên đạn cuối cùng, về đến sân bay, chúng tôi mới thấy thiếu một chiếc máy bay. Vị trí trên sân đỗ trống rỗng, chỉ còn sót lại vành cỏ khô ngụy trang báo hiệu điềm chẳng lành.

Không một ai thấy được sự hy sinh của đồng đội. Chính điều ấy tạo cho một sự bí hiểm nào đó bao trùm toàn nhóm bay. Cần phải phân tích trận đánh, thay đổi lại chiến thuật, nhưng chúng tôi lại tiếp tục nhận nhiệm vụ mới, vội vã nạp nhiên liệu cho máy bay rồi lao vào trận chiến. Lửa đạn của những chiếc máy bay tiêm kích "La" mang hình ngôi sao đỏ trên cánh lại trùm lên bọn phát xít. Chúng tôi trừng trị kẻ thù để trả thù cho những thành phố và làng mạc bị chúng thiêu huỷ, trả thù cho những nỗi đau đớn, khổ hạnh mà người dân Xôviết phải gánh chịu, trả thù cho sự hy sinh của đồng đội...

Những chuyến xuất kích liên tục, hết chuyến nọ đến chuyến kia. Chúng tôi bay từ sáng sớm đến tận tối mịt. Chúng tôi tiến hành những cuộc trinh sát các lực lượng quân địch, oanh kích những nơi địch vượt sông và những đoàn quân cơ giới của địch trên đường hành quân, đồng thời yểm hộ những máy bay ném bom của ta. Chúng tôi học cách tiếp cận kẻ thù từ độ cao cực thấp và bất ngờ công kích chúng bằng tất cả các loại súng có trên máy bay. Đôi khi, nhất là ở tuyến địch vượt sông, chúng tôi bắn vào đội hình dày đặc những tên lính phát xít, những xe cộ, khí tài của chúng cho đến viên đạn cuối cùng mới thôi.

Chúng tôi cùng với các đồng chí thợ máy cùng nạp nhiên liệu, bổ sung đạn dược để rút ngắn thời gian chuẩn bị bay. Chúng tôi rất vội. Cần phải bay nhiều hơn nữa, tiêu diệt lũ phát xít nhiều hơn nữa.

Kẻ địch hứng chịu tổn thất nặng nề, nhưng còn lâu chúng mới kiệt sức. Những cụm quân lớn của địch vẫn đẩy lui được quân đội Xôviết.

Nhóm tiêm kích của chúng tôi giảm đi khá nhiều. Lưới lửa phòng không của địch loại khỏi vòng chiến đấu lúc thì phi công này, lúc thì phi công khác. Vào tháng Tám, bạn của tôi - Côlia Nhexcherencô đã không trở về sau chiến đấu. Chúng tôi đi hộ tống toán máy bay ném bom. Máy bay của đồng chí ấy bị một viên đạn pháo cao xạ bắn cháy. Tôi hy vọng dù sẽ mở, nhưng Côlia không nhảy dù. Thật khó mà trả lời được là đồng chí đã hy sinh ngay từ trên không hay là hy sinh khi các thùng nhiên liệu nổ vào thời điểm máy bay đâm xuống đất. Chỉ rõ một điều là - Côlia không còn sống nữa...

Kể từ chiều hôm đó, mãi lâu sau tôi mới vững tâm được. Nỗi đau sắc nhọn và nỗi buồn khôn tả đã đâm, cứa vào tim. Tôi không thể nào chấp nhận được chuyện tôi không bao giờ còn nghe thấy giọng nói đầy tự tin của Côlia nữa. Nhớ lại cảnh chúng tôi cùng ngồi đọc thư nhà với Côlia. Mẹ thông báo về sự hy sinh của người anh cả. Bây giờ bà lại mất tiếp đứa con trai thứ hai. Xót thương đến ứa máu khi nghĩ đến Liuđa - đứa con gái bé bỏng của Nhexcherencô. Nó không bao giờ còn được gặp lại người cha tuyệt vời của mình nữa!

Ngày hôm sau chúng tôi lại để mất người phi công gan dạ Misa Kruglôp. Đồng chí nhận lệnh cất cánh một mình và đã giao chiến với bốn tên "Metxersmit". Sự việc xảy ra thế này, - tất cả số máy bay vừa đi chiến đấu về chưa kịp nạp nhiên liệu, nên không ai có thể cất cánh lên giúp đồng chí ấy được. Các phi công đều nghiến răng, tức giận, nắm chặt nắm đấm khi theo dõi trận chiến đấu không cân sức ấy. Kruglôp chiến đấu ngoan cường. Đồng chí khéo léo tránh những luồng đạn của kẻ thù, lựa thế để tấn công, nhưng rồi cuối cùng máy bay của đồng chí ấy vẫn bị bắn cháy. Tất cả mọi người theo dõi trận đánh đều thở phào nhẹ nhõm khi thấy phi công đã nhảy dù, nhưng vòm dù lại quệt đúng vào luồng lửa của máy bay và bùng cháy.

Chúng tôi chôn cất Misa gần thành phố Zapôrôgie, cạnh làng Ivanôpca.

Đầu mùa Thu, chiến tuyến đã chuyển đến gần Rôxtôp. Nhóm bay của tôi còn lại độc có hai máy bay - của tôi và của Philatôp. Một lần, đồng chí Thiếu tướng cho gọi chúng tôi lên.

- Cám ơn sự phục vụ của các bạn, - đồng chí ấy nói. Các bạn là những chiến binh dũng cảm. Tôi rất hài lòng về các bạn. Nhưng tình thế đã thay đổi. Nhà trường rất cần những giáo viên bay. Các bạn hãy quay về trường Bataixk.

Chống lại mệnh lệnh thì không có lợi chút nào.

- Lại không được chiến đấu nữa, - Philatôp lúng búng, không hài lòng, mình vừa mới rời nhà trường xong. - Thật chẳng gặp may tý nào!

... Trong trường tồn tại hai cuộc sống. Chúng tôi, một mặt phải đào tạo các phi công, mặt khác vì ở gần chiến trường nên phải lo trực chiến. Máy bay địch xuất hiện trên vùng sông Đông thường xuyên hơn. vì vậy, các giáo viên bay phải tổ chức trực ban chiến đấu dưới mặt đất và tiến hành bay tuần tiễu ở trên không. Rồi chúng tôi lại nhận được lệnh cơ động trường đến Zacapcadơ. Tôi cùng Philatôp ở lại bay bảo vệ cho đoàn quân cơ động rời Bataixk.

Một hoặc có khi cả hai chúng tôi cùng cất cánh để xua bọn "Hâyken" và "Junker", không cho chúng vào thành phố. Thường thì các máy bay ném bom của phát xít hay bất ngờ xuất hiện sau các đám mây. Chặn kích và tiêu diệt được chúng chỉ là tình cờ. Trong một lần xuất kích, tôi đã kịp tấn công thằng "Junker", nã một loạt đạn dài. Thằng địch lập tức quẳng hết bom và chui tụt ngay vào mây lẩn trốn.

Có một lần, sau khi hạ cánh, lăn vào sân đỗ xong, tôi tháo dù, chuẩn bị vào nhà nghỉ thì thấy trên đường chân trời xuất hiện thằng "Hâyken-111". Nó nhanh chóng tiếp cận, lập hàng tuyến và chuẩn bị ném bom.

Tôi xác định điểm rơi. Nó sẽ ở đấy đấy... Trong nháy mắt, các quả bom nối tiếp nhau chui ra khỏi bụng chiếc máy bay sơn màu vàng.

- Chạy lại đây mau! - Tôi hét Philatôp và nhào sang một phía. Đồng chí ấy lao theo tôi. Chúng tôi lăn xuống đất, mặt áp sát cỏ. Vang lên những tiếng nổ. Một quả bom rơi trúng "con kền kền" của tôi làm nó tan ra từng mảnh.

- Thôi rồi! Xênhia ạ, bây giờ chỉ còn lại anh, tham mưu trưởng và trung đoàn trưởng thôi, tôi đành về đơn vị bộ binh vậy, - tôi nói với Philatôp, chẳng giấu giếm gì sự hờn giận của mình. Đào đâu ra máy bay bây giờ. Các nhà máy thì đều đặt trên những bánh xe rồi.

Như để khẳng định cho những lời nói của tôi, thời điểm ấy, theo các tuyến đường sắt, các nhà máy chế tạo máy bay đều đi sơ tán cả. Trên các sân ga, xếp đầy những thân, những cánh, những bánh lái của máy bay.

Còn đang đánh giá tình thế của mình, tôi không để ý thấy một chiếc ô tô loại nhẹ đã phóng đến. Trợ lý của Hiệu trưởng trường từ trên xe nhảy xuống. Tin chắc rằng mình đã tìm đúng người cần tìm, đồng chí chuyển cho tôi lệnh gặp tham mưu trường.

- Vào xe đi, tôi chở cho nhanh.

Bộ tham mưu đang chuẩn bị đi sơ tán. Gió lùa qua những ô kính vỡ trên cửa sổ làm giấy tờ bay tứ tung. Để chặn chúng, thư ký phải nằm đè lên đống giấy cao như núi ấy.

Trung tá Tham mưu trưởng là người đã luống tuổi với mái đầu bạc, bứt ra khỏi công việc của mình trong phút chốc, cau có nhìn tôi và nói ngắn gọn:

- Hãy bay cùng đoàn quân sơ tán của trường. Những sân bay phải hạ cánh và điểm chót sẽ được đánh dấu trên bản đồ bay. Có hổi gì nữa không?

- Thưa trung tá, xin được phép báo cáo, - tôi rụt rè - tôi không có máy bay ạ...

- Sẽ được nhận, - trung tá cắt ngang - máy bay đang sửa chữa, sắp xong đến nơi rồi.

Tham mưu trưởng nghiêng đầu trên bản đồ, cho biết rằng cuộc nói chuyện đã kết thúc.

Về đến đơn vị, tôi nhận được mệnh lệnh của chỉ huy, bản đồ bay và kế hoạch bay.

- Bây giờ thì đâu lại vào đấy rồi, - Philatôp nói, - chỉ còn chờ máy bay của anh thôi.

Với sự giúp đỡ của chủ nhiệm kỹ thuật, tôi nhanh chóng nhận được máy bay. Đấy là loại máy bay dành cho huấn luyện, khá cũ kỹ, - loại "I-16". Nó bị thương trong đợt oanh kích. Phải đợi đến sáng thì mới sửa xong. Philatôp không thể chờ tôi được. Đồng chí đã cất cánh bay đi cùng phi đội đầu tiên.

- Hãy đuổi theo nhé, - đồng chí nói khi chia tay. Hẹn gặp nhau!

Từ sáng sớm, tôi cùng với thiếu úy Xôcôlôp cất cánh bay qua Armavir đến Grôznưi. Sau đó mấy tiếng đồng hồ, chúng tôi đến hạ cánh ở sân bay của Makhachcan. Nghỉ ngơi một chút, nạp nhiên liệu xong xuôi thì đã quá muộn, chúng tôi không được phép cất cánh nữa.

Thời tiết về ban đêm xấu đi nhiều. Gió lạnh từ ngoài biển thổi vào và những bông tuyết ẩm phủ lên những con đường của thành phố gây nên sự bẩn thỉu. Cả ngày hôm sau chúng tôi phải ngồi chờ trong ký túc.

Chúng tôi ăn tối trong khách sạn. Các quân nhân gần như chiếm kín chỗ - nào các phi công, các lính tăng, lính bộ binh... đều đến đấy cả. Chúng tôi nghe thấy họ kể về những trận không chiến, những trận tấn công bằng xe tăng, những hy sinh của đồng đội...

Thật khó tìm được chỗ trống. Lập tức, có một người còn trẻ, không quen biết, dịch chỗ cho chúng tôi ngồi. Anh ta tự giới thiệu là phi công, đã từng bị bắn rơi trong thời gian đi oanh kích. Anh ta khoác chiếc áo bành tô bằng da dài lạ thường ngoài chiếc áo lông. Hình dạng anh ta không giống phi công và tôi thoáng nghi ngờ vẻ ngoài của anh ta với những gì anh ta nói.

- Anh bay trên loại máy bay nào? - Tôi quan tâm.

- Trên loại mới, IL-2, - anh ta trả lời nhanh. Máy bay cường kích. Các anh có biết loại ấy không?

Anh ta nhấn mạnh vào những từ "mới" và "cường kích". Tôi không thích sự khoe khoang, khoác lác ấy.

Tôi và Xôcôlôp trao đổi với nhau qua cái nhìn mang nhiều ý nghĩa. Còn anh bạn thì bắt đầu thận trọng dẫn dắt câu chuyện về hành trình bay của chúng tôi. Chúng tôi cứ tảng lờ như không biết gì. Khi anh ta hỏi chúng tôi có biết những trung đoàn cường kích đóng quân ở đâu không, chúng tôi lập tức khuyến cáo rằng những chuyện ấy không nên nói ở đây.

- Ôi, sao thế - các bạn trẻ, sao lại cảnh giác ghê gớm thế? - Anh ta lộ vẻ ngạc nhiên trên nét mặt. - Tất cả ở đây đều là người của mình mà, đều là những chiến hữu cả, làm gì có người lạ. Còn tôi hỏi, là bởi vì tôi cần tìm về trung đoàn của tôi mà. Anh ta rót rượu nho vào các cốc. - Nào, thôi tốt nhất là ta uống. Tôi mời các anh về thăm căn hộ của tôi. Tôi cùng với một người bạn ở cách đây không xa. Phải cần có căn hộ chứ - anh ta mỉm cười ranh mãnh.

Xôcôlôp không kìm nén được. Đồng chí đẩy ghế, đứng dậy nắm lấy ngực áo cậu thanh niên không quen biết kia.

- Xuất trình giấy tờ! - Đồng chí ra lệnh.

Tôi nhanh chóng lật nắp bao súng ngắn. Sự hãnh diện biến mất trên khuôn mặt "phi công".

- Gì thế, các bạn trẻ? Chẳng lẽ lại không tin người của mình à? Những người cùng ngành với nhau ai lại xử sự thế! - Đây, giấy tờ của tôi đây - và anh ta lôi trong túi ra cả một tập giấy tờ.

Một người đàn ông ước chừng khoảng 40 - 50 tuổi nhanh chóng đến chỗ chúng tôi. Ông ta cười vang:

- Pêchia! - Ông ta thốt lên, nắm lấy tay "chàng phi công cường kích" - Con đấy ư? Thật hạnh phúc làm sao! Thưa các đồng chí, tôi đã gặp được con trai mình! Các đồng chí thấy không! Bao nhiêu năm tháng không thấy nhau, không thư từ, - bỗng dưng thế đấy. Tôi xúc động vô cùng...

Nhưng những lời diễn "của người cha" không gây ấn tượng chút nào cho chúng tôi, chúng tôi không đếm xỉa gì đến lời ấy. Tôi đã để ý đến con người này rồi, mặc dù người ấy ngồi ở một phía khác. Tôi để ý bởi vì người ấy kín đáo quan sát chúng tôi, và nhất là lại làm những dấu hiệu gì đó cho "người con" đang nói chuyện với chúng tôi nữa.

- Diễn thế đủ rồi! - Tôi ngắt lời và hướng nòng súng ngắn vào hắn. Chúng tôi hiểu các người ruột thịt với nhau kiểu gì rồi...

Mọi người vây quanh chúng tôi. Ai đó đề nghị khám xét lũ gián điệp. Từ trong túi của bọn chúng đã lôi ra được những khẩu súng ngắn "Vante" mới toanh, rồi dao găm cũng cùng chủng loại và đương nhiên, tất cả giấy tờ đều là giả mạo.

- Kết liễu lũ đê tiện này đi! - Xôcôlôp tuyên bố dứt khoát.

Khó khăn lắm mới thuyết phục nổi đồng chí ấy từ bỏ ý định tự xét xử. Những "vị khách không mời" đã được đưa đến ban quân quản.

Một đêm qua đi với những ấn tượng khó quên trong khách sạn.

- Cần phải xem xét đủ mọi góc cạnh, kẻo không sẽ lâm vào tình thế khó xử, - chúng tôi nói với nhau, - trong chiến tranh - có những đạo luật rất khắt khe. Một trong số ấy - là phải thường xuyên cảnh giác.

Sáng sớm, chúng tôi cất cánh, lấy hướng bay về Bacu. Chúng tôi bay ở độ cao cực thấp trong suốt cả hành trình bay. Trên tuyến đường sắt - là các đoàn tàu chở bộ đội, trên sân ga là súng đạn. Các chiến sĩ nhô người ra ngoài các cửa sổ vẫy tay. Cuộc sống hậu phương của miền duyên hải Caxpiên là thế! Chúng tôi bay khá lâu. Cuối cùng, rồi cũng thấy xuất hiện vùng bán đảo nằm thẳng hướng với đường bay. Sau khi kéo lên lấy độ cao, chúng tôi quan sát được thành phố Bacu - đấy là điểm cuối của hành trình bay.

Chúng tôi chú ý quan sát thành phố vàng đen này. Tôi đã được nghe quá nhiều về nó từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vậy mà hôm nay đây, nó ở ngay phía trước chúng tôi, cạnh sân bay. Xôcôlôp lập hàng tuyến và xuống hạ cánh trước tiên.

Trường ở Bacu đã đi sơ tán. Chúng tôi lưu lại đây vài ngày cốt để xác định rõ địa điểm sơ tán của nó. Thời gian trôi đi thật buồn tẻ, chán ngẳt. Xôcôlôp sốt ruột, nôn nóng muốn được biên chế vào ngay một phi đội nào đấy để được ra chiến trường.

- Cứ ngồi mãi ở bờ biển và đợi thời tiết thế này a!- đồng chí cau có.

Rồi chúng tôi cũng được trực ban tác chiến gặp. Đồng chí thông báo vị trí đóng quân của trường và chúc chúng tôi lên đường may mắn.

Chúng tôi giở bản đồ, tính toán cho đường bay.

- Nào, ta bay qua núi chứ, - tôi đề nghị, - tôi muốn được ngắm dãy Capcadơ từ trên cao xuống.

Xôcôlôp đành phải đồng ý. Và trên bản đồ bay- một đường thẳng băng bằng chì đỏ dược kẻ nối hai điểm của hành trình.

Ngày thật là u ám. Mây 10 phần tạo thành một lớp màn che trên Bacu và biển (trong không quân và hàng không, người ta tính lượng mây che bầu trời bằng "phần". Nếu mây 10 phần là bầu trời bị mây che kín hết). Không có kinh nghiệm bay trên núi, chúng tôi không thể lường trước được những hiểm nguy có thể xảy ra trên đường bay của chúng tôi.

Lần đầu tiên tôi được thấy dãy Capcadơ. Với sự thích thú tột độ, tôi quan sát những bờ dốc dựng đứng, những khe đá sâu thẳm, những bản làng nằm trên những sườn núi quanh co - tất cả những gì trước kia tôi chỉ biết qua sách vở.

Chúng tôi tiếp tục bay vào vùng núi cao với cuộc hành trình qua giữa các đỉnh núi của chúng. Lẽ ra thì chúng tôi phải quay về mới đúng, nhưng chúng tôi đã không làm điều ấy. Chẳng mấy chốc chúng tôi bay lọt vào trong khe núi hẹp. Trên đầu thì mây giăng đầy, phía dưới thì tứ phía thấy toàn những mỏm đá sắc nhọn dựng đứng.

Bất ngờ, Xôcôlôp chui vào mây với độ nghiêng lớn. Chắc là, đồng chí ấy quyết định bay trở lại Bacu. Còn tôi, tôi quyết định xuyên thẳng lên trên mây, giữ đúng hướng đang bay. Tôi ổn định tốc độ, kéo máy bay ngóc lên, tập trung vào quan sát bảng đồng hồ. Cuối cùng, thấy đồng hồ độ cao chỉ con số 4000m - độ cao an toàn rồi, có thể yên tâm không sợ máy bay va vào đỉnh núi nào cả.

Đến độ cao 5500m, máy bay chui ra khỏi màn mây xám ẩm ướt. Dưới cánh máy bay trải dài cánh đồng mây trắng như tuyết, trên cao là vòm trời xanh thăm thẳm. Đã đến thời gian phải xuyên xuống để tìm đến thung lũng. Việc này không được phép sai sót, dù chỉ là một phút, vì nếu khác đi là sẽ đâm vào sườn núi ngay. Để cho chắc ăn, tôi bay thêm hai phút nữa ở trên mây, sau đó mới thu cửa dầu, từ từ đặt góc lao cần thiết và chui vào mây.

Thời gian cảm thấy như dài vô tận. Cái gì sẽ chờ đón tôi ở phía trước nhỉ - núi hay thung lũng? Tôi không còn tính bằng phút nữa mà là tính từng giây một. Tôi nhìn đồng hồ chỉ độ cao. 1600m... Không thấy mặt đất đâu cả. Làm gì bây giờ? Không lao xuống nữa chăng? Cuối cùng, đến độ cao 400m thì mây chuyển sang màu tối sẫm - đấy là dấu hiệu đầu tiên của sự sắp ra khỏi mây, sắp thấy đất. Thoắt cái- mặt đất đã hiện ra. Tôi thở phào nhẹ nhõm!

Dưới cánh máy bay là đồng cỏ bằng phẳng. Tôi đang ở đâu nhỉ? Dầu liệu chỉ còn đủ bay được vài phút nữa thôi. Cứ như trêu ngươi, bấy giờ lại không có lấy một vật chuẩn nào đặc trưng để có thể xác định được hướng về sân bay. Không thể nào hiểu nổi vị trí khi tôi chui ra khỏi mây. Tôi quyết định vòng về hướng bên trái, bởi thấy gió thổi từ phía bên phải lại. Tôi lấy hướng bay về phía Nam và thoát ra chỗ cắt ngang giữa sông Curn với đường sắt. Chắc chắn mấy phút nữa thôi là phải thấy sân bay. Thế chứ, nó đây rồi!

Tôi vào hạ cánh trực tiếp. Cuối đường xả đà, cánh quạt bỗng ngừng quay - dầu không còn lấy một giọt.

Tôi trèo ra khỏi buồng lái, tháo dù. Một cảm giác mệt mỏi ập đến, tới mức tôi có cảm tưởng như không thể nhấc chân lên nổi. Đến bây giờ tôi vẫn khiếp khi nghĩ lại cái chuyến bay đầy khó khăn ấy. Không phải vì các điều kiện phức tạp, mà vì tôi hoàn toàn không chuẩn bị gì cho chuyến bay ấy cả.

- Xôcôlôp đến chưa? - Tôi hỏi các phi công khi họ đến chỗ tôi.

- Chưa, - mấy giọng nói lập tức trả lời.

Đồng chí ấy ở đâu nhỉ? Dầu liệu của máy bay đồng chí ấy chắc cũng cạn. Đồng chí có quay về được chỗ cũ không? Lo lắng cho đồng đội, tôi kể hết cho các phi công nghe những gì đã xảy ra với chuyến bay của chúng tôi, nhưng họ cũng chẳng giúp được gì. Đành phải chịu đựng và chờ đợi, không được để mất hy vọng về việc đồng chí ấy sẽ về hạ cánh ở Bacu.

Chiều đến, chúng tôi nhận được bức điện báo với nội dung như sau: "Thiếu úy phi công Mikhain Xôcôlôp đã hy sinh ở phía Bắc thành phố Sêmakh". Thông báo ấy đã giáng cho tôi một đòn nặng nề. Tôi nhận thấy tôi mắc sai lầm không thể tha thứ được vì tôi đã đề nghị bay qua núi. Đấy là sự liều mạng vô nghĩa.

Nhớ lại những phút trước chuyến bay, Misa đi đến chỗ tôi, đầu không đội mũ bay. Một tay đồng chí sửa lại những mớ tóc quăn màu vàng bướng bỉnh, còn tay kia cầm lọ nước hoa.

- Anh cầm lấy, tôi có thể làm vỡ mất, - đồng chí ấy bối rối nói, nhìn tôi với cặp mắt xanh u buồn. - Chúng ta còn cần đến nó đấy.

Suốt đời tôi, tôi không bao giờ quên được chàng trai khiêm tốn, dũng cảm ấy.

... Trường đóng ở một thành phố nhỏ của Azecbaigiăng. Các gia đình của các phi công và thợ máy được bố trí ở trong phòng câu lạc bộ địa phương. Nhà ăn của phi công bố trí trong kho khí tài hàng không. Mọi người nghỉ ở đâu tuỳ ý: trong lều bạt, trên trần nhà..., nhưng không một ai than phiền về việc ấy.

Sân bay trung tâm rất chật hẹp, chỉ có thể bố trí được một phi đội huấn luyện mà thôi. Cần phải thành lập mạng lưới sân bay cho nhà trường. Bắt đầu tiến hành sự tìm kiếm các bãi hạ cánh.

Phi đội chúng tôi được bố trí ở một vị trí thuận lợi gần thành phố Nukha. Từ sáng sớm, chúng tôi đã phải vác rìu, xẻng lên ô tô. Đoàn ô tô bò theo con đường núi, chậm chạp tiến về phía trước, lúc thì leo ngược dốc, lúc thì xuống khe sâu. Các lái xe đã dày dạn kinh nghiệm đi đường núi, thận trọng lái trên những đoạn đường nguy hiểm. Phải qua 6 giờ đồng hồ chúng tôi mới tới được thung lũng xanh. Phía trước là thành phố Nukha xinh đẹp.

Sau mấy ngày lao động, chúng tôi đã xây dựng được nơi ăn ở và dọn sạch bãi hạ cánh tạm. Chúng tôi huy động toàn bộ lực lượng - từ các giáo viên bay đến các học viên, thợ máy. Chúng tôi lao động từ sáng sớm đến tận chiều tối cốt để dọn sạch những cây cối, những dây leo có gai, những bụi mâm xôi... Tiếp đến là đánh bật những gốc cây còn lại, chọn hướng cất hạ cánh, nghiên cứu việc tiếp cận đến bãi hạ cánh. Công việc hoàn tất. Ngày chủ nhật, chúng tôi quay về trường. Tất cả đều hân hoan đón chúng tôi. Thợ máy của máy bay tôi - đồng chí Vôpchencô - một người đứng tuổi nhưng năng động, từ lâu đã gắn bó với chiếc "UTI-4", bây giờ như không tìm được chỗ đứng cho mình, trở nên buồn bã.

Khi được phép bay, Vôpchencô báo cáo việc chuẩn bị máy bay, giúp tôi mọi việc sau đó khoác dù và hài lòng ngồi vào máy bay.

Lựa thời điểm thích hợp, đồng chí nói với tôi, giọng lịch thiệp:

- Thưa đồng chí chỉ huy, đồng chí có thể biểu diễn động tác khoan được không ạ?

Tôi hiểu rằng, đấy không phải là sự nghịch ngợm. Trong các động tác nhào lộn phức tạp, máy móc được thử thách tốt nhất, và tương tự như vậy, chất lượng công việc sẽ thử thách thợ máy.

Tôi đồng ý, không hề nghĩ rằng hành động bất hợp pháp ấy có thể gây ra những hậu quả khó chịu.

Khi phi đội cất cánh, lấy độ cao và tập hợp đội hình theo hình bàn tay xoè với từng biên đội một, tôi đã tự ý làm động tác khoan lần thứ nhất, rồi lại tiếp lần hai. Khi đến gần thành phố Nukha, tôi tách khỏi đội hình, bay ở độ cao cực thấp, dùng tốc độ lớn lướt trên thành phố từ đầu này tới đầu kia. Rồi tôi kéo vọt lên lấy độ cao, làm động tác khoan chậm hai lần, sau đó mới về hạ cánh.

Hành động ấy không đem lại cho tôi điều gì hay ho cả. Vì sự tách đội khi đi làm nhiệm vụ, tôi đã bị kỷ luật nghiêm khắc.

- Cũng còn may, không phải vào nhà giam là được rồi, - thợ máy Vôpchencô an ủi tôi. - Không sao đâu, qua lần ấy dầu sao máy bay cũng được thử nghiệm. Có thể mạnh dạn hơn khi bay trên nó đấy.

Chẳng bao lâu sau, các chuyến bay bắt đầu được tổ chức. Những ngày ấy thật vất vả, tất cả đều muốn chất thêm nhiều nữa, căng thẳng hơn nữa vốn cuộc sống nhà trường ở thời chiến đã quá căng thẳng rồi. Tôi còn nhớ, phi công nào đã được chuẩn bị cho chiến đấu thì tất cả tâm hồn đều hướng ra chiến trường.

Tôi liên tục gửi đơn xin về đơn vị chiến đấu, nhưng không có hồi âm. Tôi viết thẳng về Tổng cục Chính trị quân đội Xôviết. Tiếp đến là những ngày chờ đợi đến khổ sở.

- Đồng chí chỉ huy, có vấn đề gì mà thời gian này thấy đồng chí không mấy vui vẻ? - Có lần Vôpchencô hỏi tôi vậy. Đã có chuyện gì xảy ra hay sao?

- Tôi nóng lòng đề nghị ra mặt trận mà chẳng nhận được câu trả lời. Bực thật đấy! - Tôi thú nhận.

- Còn tôi thì chắc là sẽ bị lãng quên chứ gì? Tôi sẽ cùng đồng chí ra mặt trận, - Vôpchencô nóng nảy nói. Gia đình tôi ở cả Ucraina, cần phải cứu giúp họ chứ.

Ôi "ông già" thân yêu của tôi! Tôi yêu quý ông quá! - Vôpchencô lớn gấp đôi tuổi tôi, tôi luôn lắng nghe những lời khuyên bảo của đồng chí ấy. Đồng chí chuẩn bị máy bay rất kỹ càng, chỉ rời khỏi máy bay khi hoàn toàn tin tưởng nó không còn gì phải để ý đến nữa.

Mấy ngày đã trôi qua. Cuối cùng, qua điện thoại, tôi được thông báo rằng đề nghị của tôi đã được chấp nhận. Cần phải đến Ban tham mưu của trường nhận lệnh.

Khi biết được tin ấy, thợ máy Vôpchencô giận dỗi:

- Chẳng lẽ lại không có tên tôi sao? - Tôi cầu xin anh đấy...

Tôi lại phải giải thích là không phải tại tôi gây ra chuyện ấy.

- Thôi được rồi, - đồng chí trả lời ngoan ngoãn. Đành phải chấp nhận thế vậy. Tôi- lão già đành ở lại đây làm việc, còn anh - thì ra chiến trường. Thật tiếc, khi phải chia tay nhau, vì chúng ta đã quá gắn bó với nhau rồi. Nào, theo đúng phong tục của người Nga, chúng ta hãy ngồi với nhau mấy phút trước lúc lên đường...

Tháo mũ bay, đồng chí ngồi xuống cạnh máy bay. Tôi làm theo đồng chí ấy. Tôi không hề muốn chia tay với người thợ máy giàu kinh nghiệm và hiền hậu ấy. Nếu được cùng đồng chí ấy ra chiến trường thì mọi chuyện sẽ nhẹ nhõm hơn biết bao...

Nhưng mà làm thế nào được bây giờ!

Vôpchencô đứng dậy trước tiên. Chúng tôi ôm hôn nhau như cha và con, rồi chia tay.

Tôi theo chiếc xe thuận đường đi suốt đêm để đến Ban tham mưu. Lại những đèo dốc, những khe lạch, những góc khuất và những cua vòng nguy hiểm suốt chặng đường. Cuối cùng rồi cũng đến được Evlac.

Tôi gặp Xênhia Philatôp ở Ban tham mưu. Đồng chí hoan hỉ giơ các giấy tờ lên:

- Đây, nó đây rồi! Được đi thẳng ra mặt trận nhé! Cậu cũng có tên trong danh sách đấy...

- Có nghĩa là, chúng ta lại được ở cùng với nhau!- Tôi mừng rỡ ôm lấy đồng chí ấy.

Buổi sáng hôm sau, chúng tôi rời khỏi trường.

Và lần này là mãi mãi.