← Quay lại trang sách

NGƯỜI PHỤ NỮ MẠNH MẼ

Doctor Pawel Obarecki trở về nhà từ cuộc đánh bài trong tình trạng không mấy hài lòng, mà tại đó trong vòng tám tiếng đồng hồ liên tục, hắn đã phải trịnh trọng nói lời chúc mừng cha sở cùng ông chủ cửa hàng dược phẩm, gã nhân viên phòng bưu điện và vị thẩm phán. Hắn về nhà, đóng thật kín cửa ra vào để không người nào, kể cả chị nội trợ hai mươi bốn tuổi, có thể lẻn vào, rồi ngồi xuống cạnh chiếc bàn nhỏ. Trước hết, hắn cứ chăm chú nhìn vào ô cửa sổ mà chẳng vì bất cứ lí do rõ rệt nào cả, còn sau đó, hắn liên tục gõ đầu ngón tay xuống mặt bàn. Hắn cảm thấy rõ ràng là có một thế lực siêu hình nào đó bắt đầu chế ngự mình...

Chuyện thật rõ ràng là một con người có văn hóa bị lực li tâm của sự túng thiếu hất ra khỏi trung tâm đời sống văn minh đến Klvov, Kurozvek hoặc – như doctor Obarecki - đến Obrzydlovek, thì cùng với thời gian, do hậu quả của những cơn mưa mùa thu, do sự thiếu thốn các phương tiện giao thông và hoàn toàn không có khả năng phát ngôn trong nhiều năm liên tiếp - sẽ dần dần thay hình đổi dạng trở thành một cỗ máy chuyên ngốn thịt - rau, hấp thụ một số lượng quá tải các chai bia và bị sự buồn chán tấn công, làm suy yếu dẫn đến trạng thái giáp ranh với khuynh hướng nôn mửa. Hắn đang nuốt một cách vô thức sự buồn chán của một thị trấn nhỏ, giống như con thỏ nuốt một cách vô thức trứng sán xơ mít do lũ chó thải ra nằm rải rác trên nền cỏ. Từ giây phút hắn định hình trong mình thái độ dửng dưng: “Đối với tôi, quả thực, thế nào cũng được” - đúng là bắt đầu quá trình chết dần chết mòn kia.

Doctor Pawel, trong thời anh ta sống, đã bị Obrzydlovek ăn tươi nuốt sống toàn thân cùng với bộ não, trái tim và năng lượng - kể cả động năng cũng như thế năng. Hắn đã trải nghiệm sự ghê tởm không cách gì vượt qua nổi đối với sự đọc, sự viết cũng như sự tính toán. Hắn có thể đi bách bộ trong phòng làm việc hàng giờ liền hoặc nằm dài trên ghế salon, mặc dù không có điếu thuốc lá trên môi, để chờ đợi một cách đau đớn và cồn cào một cái gì đó phải diễn ra, ai đó phải tới, nói điều gì đó; mặc dù có thể bị ngã bổ nhào, sẵn sàng vểnh tai lên nghe những tiếng rì rầm thì thào tuyên cáo cho sự chấm dứt tình trạng câm lặng đang bóp nghẹt và vùi dập người ta xuống đất. Điều đặc biệt làm cho hắn đau khổ thường là mùa thu. Trong khung cảnh tĩnh lặng chiều thu bao trùm Obrzydlovek, từ ngoại ô phía bên này đến ngoại ô phía bên kia, có một cái gì đó đau đớn, cái gì đó khiến người ta phải bật lên tiếng kêu cứu. Bộ não bao bọc bởi những sợi tơ nhện mềm mại thường tạo ra những ý nghĩ đôi khi cực kì dễ hiểu, nhưng nhiều lúc lại hoàn toàn không giống bất cứ điều gì.

Mỗi khi huýt sáo hoặc luận bàn với chị nội trợ, có lần hắn tỏ ra hết sức lịch thiệp (thí dụ về tính vượt trội hiếm thấy của con lợn sữa quay ăn tấm lúa mạch đen, so với cũng con lợn sữa như vậy nhưng ăn các loại chất khác), nhưng cũng có lần, hắn bất nhã một cách khả ố và coi đó là trò vui duy nhất. Có những lúc, trên nửa bầu trời, một đám mây hình bàn chân khổng lồ với những làn khói xám cứ treo lơ lửng bất động, không thể tan ra trong không gian và đe dọa rơi ụp xuống Obrzydlovek và các cánh đồng trống trải phía đằng xa. Từ đám mây kia, một làn sương mù do gió thổi xiên bay đến, đọng trên kính tạo thành những hình thù khác nhau và trong tiếng ầm ù của gió phát ra tiếng sột soạt rất kinh khủng, giống như ở ngay bên cạnh, đâu đó trong góc nhà, có đứa trẻ con đang khóc thút thít. Đằng xa kia, trên bờ ruộng, những cây lê đồng trụi lá đứng chơ vơ, cành lay động phật phờ, mưa quất vào từng đợt... Từ quang cảnh đó, ý nghĩ hắn gom lại một nỗi buồn, trong đó có cái gì như bệnh sổ mũi kinh niên - và u ám, tối tăm, nỗi lo âu lúc nào cũng có thể cảm thấy được một cách vô thức. Tình trạng buồn đau sầu não ấy chiếm ưu thế trong tâm hồn hắn và kéo dài mãi cho đến tận mùa xuân sang mùa hè. Nỗi buồn độc ác kết tủa trong tâm hồn doctor mà không có bất cứ cơ sở nào, kéo theo đó là tính lười nhác không thể miêu tả nổi, tính lười nhác chết người, thậm chí có thể bứt khỏi tay nạn nhân cả các truyện ngắn của Alexis.

“Tình trạng siêu hình” mà doctor Pawel trải qua một lần, đôi lúc là hai lần trong một năm - đó là vài tiếng đồng hồ tự nghiền ngẫm một cách có ý thức những kí ức tràn về với tốc độ mãnh liệt điên cuồng, tập hợp không nản lòng những mảng kiến thức, tự giãy giụa gần như điên dại, vùng vẫy để thoát khỏi tình trạng trì trệ bị đất sét phủ kín, những suy ngẫm, những bùng nổ của nỗi đắng cay, những quyết định không gì lay chuyển nổi, những đám cưới, những dự định... Tất cả những cái đó, có thể hiểu rằng, đã không dẫn đến bất kì sự thay đổi nào theo chiều hướng tốt hơn và chúng đã trôi qua giống như thước đo thời gian của sự chịu đựng ít nhiều đau đớn. Với “tình trạng siêu hình”, hắn có thể ngủ một giấc cũng giống như với cơn đau đầu, để hôm sau thức dậy đầu óc sáng sủa hơn, giàu nghị lực hơn và có khả năng chịu đựng tốt hơn cái ách thống trị của sự buồn chán thông thường cũng như tiêu hao năng lượng của bộ não, để nghĩ ra những món ăn ngon nhất. Tuy nhiên, “tình trạng siêu hình”, căn bệnh hoành hành ở một phạm vi nhất định, đã chỉ ra cho doctor của chúng ta thấy rằng, trong sự tồn tại thực vật, luôn ăn no của hắn, giống như tình trạng ăn no triết học của một lí trí mạnh mẽ sáng suốt, vẫn đang tiềm ẩn một vết thương không thể chữa lành, không thể nhìn thấy được và làm cho ta cực kì khó chịu, không khác gì vết thương trên chỗ xương đang bị mục ruỗng.

Doctor Obarecki đến Obrzydlovek cách đây sáu năm, ngay sau khi tốt nghiệp đại học, với trí tuệ sáng ngời không nhiều người có được, song đi kèm là những ý nghĩ vô cùng thực dụng, đồng thời với vài rúp trong túi. Lúc bấy giờ, người ta luôn nói đến sự cần thiết phải đến sống ở những khu vực rừng núi và đến Obrzydlovek. Hắn đã nghe theo những sứ đồ đó. Hắn là người mạnh dạn, trẻ tuổi, cao thượng và có nghị lực. Ngay tại nơi cư trú đầu tiên, hắn đã gây chiến một cách vô ý thức với gã chủ tiệm dược phẩm và bọn thầy lang địa phương, chữa bệnh bằng các phương tiện thuộc lĩnh vực huyền bí. Ông chủ tiệm thuốc ở Obrzydlovek, “khai thác tình huống” (đến địa phương có hiệu thuốc tân dược gần nhất cũng phải mất năm dặm) - đã bắt những người muốn khỏe mạnh lại nhờ thuốc nước của ông ta chịu thêm tiền cống nạp, hơn nữa còn bắt tay với gã dược sĩ mở các tiệm cạo râu và dựng nhà cửa khang trang, đi lại trong những chiếc áo da gấu, luôn giữ trên gương mặt uy thế của kẻ bất kì lúc nào trong cuộc sống cũng có thể mời cha sở đến đám rước nhân Lễ mình Thánh.

Khi những lời thuyết phục tế nhị và nảy lửa hướng đến gã dược sĩ và được biểu lộ một cách phô trương từ nhiều “quan điểm” khác nhau chỉ được coi là những lời thơ ca ngợi cuộc sống yên lành của tuổi trẻ và không mang lại bất kì hiệu quả nào thì doctor Obarecki, sau khi đã tích lũy được vài đồng, liền mua một túi thuốc di động và mang nó theo mình khi đến chữa bệnh ở làng quê. Tự hắn chuẩn bị thuốc tại chỗ, trợ giúp cho người bệnh hết sức rẻ mạt, thậm chí không lấy tiền, dạy họ giữ gìn vệ sinh, khám bệnh, làm việc với lòng cuồng tín, tính bướng bỉnh, không ngủ và nghỉ ngơi. Dĩ nhiên là ngay sau khi có tin loan truyền về túi thuốc di động, về sự trợ giúp không công và về những điều giống như thế, người ta đã phá tan tất cả các cửa kính tồn tại trong căn hộ nghèo nàn của hắn. Vì ông Boruch Pokoik, người lắp cửa kính duy nhất ở Obrzydlovek trong thời gian nói trên lại đang nghỉ lễ Kuczek*, do đó phải dán cửa sổ bằng giấy thấm và ban đêm phải thức canh chừng với khẩu súng lục trong bàn tay phải. Cuối cùng, kính cũng được lắp và lại bị phá tiếp lần nữa, từ đó người ta phá theo chu kì cho đến khi lắp gỗ sồi vào các ô cửa sổ. Trong dân chúng của thị trấn tồn tại tin đồn rằng doctor trẻ giao thiệp với hồn ma trong đêm, người ta bôi nhọ hắn trong dư luận giới trí thức địa phương, coi hắn như một kẻ vô học hiếm thấy, người ta dùng vũ lực chặn đường những người bệnh đi về hướng nhà hắn, vào các buổi tối tháng Năm người ta huýt sáo phản đối v.v... Doctor trẻ không để ý gì đến tất cả những chuyện đó, chỉ tin chắc vào chiến thắng của sự thật.

Lễ Kuczek là lễ của người Do Thái (còn gọi là Lễ Lều): Thời thượng cổ, sau khi thu hoạch mùa màng, người ta dựng lều ở ngoài trời và đến ở đó trong vòng 7 ngày để hát thánh ca và làm các nghi lễ lạy tạ trời đất (ND).

Chiến thắng của sự thật đã không diễn ra. Không hiểu tại sao... Một năm sau, doctor cảm thấy nghị lực của hắn đã dần dần trở thành “di sản của lũ sâu bọ”. Việc gần gũi với đám dân đen đã khiến hắn quá ngán ngẩm: những yêu cầu của hắn, sự khuyên nhủ, những bài giảng chân tình của hắn về phạm trù vệ sinh đã trôi tuột như những hạt nước nhỏ giọt xuống nền đá. Hắn làm mọi thứ trong khả năng của mình - tất cả đều vô hiệu! Thực ra với một con người không có giày đi mùa đông, trong tháng Ba lặn lội dưới cánh đồng của người khác để tìm kiếm khoai tây năm ngoái đã thối rữa nhằm làm những chiếc bánh để ăn, những kẻ ngày giáp hạt phải nghiền nát vỏ cây trăn lấy bột, dùng bột đó trộn với ít bột lúa mạch đen, nấu chút tấm từ hạt non lấy lúc bình minh “bằng cách ăn trộm” - thật khó đòi hỏi hắn ta có thể cải thiện sức khỏe vốn không được chăm sóc của mình theo hướng tích cực, cho dù là dưới ảnh hưởng của các quy luật về sức khỏe được trình bày một cách dễ hiểu nhất đi nữa.

Doctor bắt đầu cảm thấy một chút cái gọi là “thế nào cũng được”... Người ta ăn khoai tây thối rữa - biết làm gì đây? - cứ để họ ăn, nếu như họ thấy ngon. Họ thậm chí có thể ăn sống - biết làm thế nào...

Dân Do Thái trong thị trấn chữa bệnh ở thầy đoán mộng, bởi vì họ không sợ hồn ma ban đêm, trong khi sự rẻ tiền hiếm thấy của phương pháp y học ấy lại khích lệ họ.

Một buổi sáng đẹp trời, doctor nhận thấy rằng ngọn lửa trên đầu, thứ dẫn dắt hắn đến đây và chiếu sáng con đường đi của hắn nay đã tắt ngấm. Nó tự tắt vì đã cháy cạn kiệt. Lúc đó, hắn cất túi thuốc di động vào trong tủ rồi khóa lại và chỉ có một mình hắn sử dụng.

Nhưng việc hắn phải khuất phục trước gã dược sĩ và đám thợ cạo, ngừng và kết thúc cuộc chiến ở Obrzydlovek bằng việc đóng túi thuốc di động trong tủ thì thật là một nỗi nhục hình!

Những kẻ chiến thắng có quyền reo hò và thu hoạch chiến lợi phẩm, song không phải họ đánh bại hắn: chính hắn tự thua trận. Hắn đã bóp nghẹt những ý nghĩ đơn giản và cao thượng cùng những hành động của mình, có lẽ do hắn bắt đầu dính vào thức ăn một cách không cần thiết, chỉ biết rằng hắn nghẹt thở. Hắn vẫn còn làm điều gì đó, vẫn chữa trị, đồng thời nghĩ rằng không còn ai trong số những người chịu ảnh hưởng “các hoạt động” của mình lúc bấy giờ có giá trị bằng nửa điếu thuốc lá.

Tại trụ sở của các ông chủ ở vùng lân cận, thật cũng lạ, chỉ toàn thấy xuất hiện những người ăn lông ở lỗ từ thời “ông bà ông vải”, những kẻ nói chung chỉ cư xử với các bác sĩ một cách khá lỗi thời. Doctor Pawel đã đến thăm một trong số những kẻ như vậy. Đây là một quyết định sai lầm, bởi gã ăn lông ở lỗ đó đã tiếp hắn trong phòng làm việc, lúc đó ông ta mặc áo ghi lê và ngồi ăn giăm bông với vẻ bình thản, vừa ăn vừa dùng dao nhíp cắt giăm bông. Doctor cảm thấy trào dâng trong mình một tinh thần dân chủ, đã nói với gã công tước nửa mùa điều chua chát gì đó và sau đấy không đến thăm bệnh thêm lần nào nữa ở trong vùng.

Thế là để trao đổi suy nghĩ chỉ còn lại cha xứ quản hạt và vị thẩm phán. Hắn giao thiệp với cha sở thường xuyên hơn - cũng hơi buồn một chút; còn ông thẩm phán là người nói những điều mà không ai có thể hiểu nổi - và như vậy chỉ còn lại sự cô đơn chế ngự. Để tránh những ảnh hưởng xấu của việc chỉ bó tròn trong quan hệ với chính mình, muốn gắn mình với thiên nhiên, giành lại sự yên bình, cảm giác hài hòa bên trong của tinh thần, cảm giác có sức mạnh và sự dũng cảm, hắn đã tìm các mắt xích vững bền gắn kết con người với thiên nhiên. Nhưng hắn không tìm được bất kì mắt xích sắt nào, mặc dù đã mò mẫm trên các cánh đồng, thậm chí đi đến tận chỗ người ta đẵn gỗ trong rừng và một lần lạc vào đầm lầy trên đồng cỏ.

Phong cảnh phẳng lặng bao quanh là dải rừng xanh mờ từ mọi hướng. Gần hơn, trong những cồn cát xám, toàn thấy loài tùng bách cô đơn, còn xung quanh là những luống cày kéo dài không biết thuộc về ai. Những cánh đồng cỏ mọc, toàn loài cỏ chỉ dành cho dê núi, những loài cỏ vàng vọt, đang chết non, cứ như không đủ ánh sáng để mọc thành nhánh tươi xanh từ trên mầm cỏ - đó chính là những thứ trang điểm duy nhất cho Obrzydlovek. Có cảm giác hình như mặt trời chiếu xuống sự hoang vắng đó chỉ để biểu thị sự thiếu sức sống, vẻ trần trụi và nỗi buồn rầu của mình...

Men theo lề đường phủ bên trên là một lớp cát bẩn, đầy rẫy những ổ gà và được rào chắn bằng những mảnh vụn đổ nát, ngày lại ngày, doctor khốn khổ phải cầm chiếc ô lần mò đi qua... Con đường đó hình như không dẫn tới bất kì vùng dân cư nào, bởi vì nó phân ra làm mười mấy nhánh nhỏ ở giữa cánh đồng cỏ và mất hút giữa các hang chuột chũi. Nó lại xuất hiện thêm lần nữa trên đỉnh cồn cát dưới dạng hai lỗ khoét sâu hình tam giác trong cát và dẫn vào khu rừng thông cằn cỗi.

Một nỗi tức giận không kiềm chế được bao trùm lên doctor khi hắn nhìn lên phong cảnh đó và sự sợ hãi không rõ từ đâu tới đã ăn ngấu nghiến cảm giác yên ổn của hắn...

Nhiều tháng năm qua đi. Từ sáng kiến của cha sở, người ta đã đi tới sự đồng thuận giữa ông chủ tiệm dược phẩm và doctor , khi tìm ra “cách thức làm dịu sự nóng nẩy” của hắn. Từ nay, những kẻ đối kháng bắt đầu cùng cày trên chiếu bài, mặc dù doctor luôn nhìn gã dược sĩ với vẻ ghê tởm. Dần dần, sự ghê tởm cũng giảm bớt. Hắn ta bắt đầu đi đến thăm gã chủ tiệm dược phẩm và ve vãn vợ gã. Một lần, hắn hoảng sợ trước kết quả phân tích trái tim của chính mình, qua đó thấy rằng trái tim hắn có thể dành một tình yêu thuần khiết cho vợ chủ tiệm dược phẩm, một phu nhân đầu óc tối tăm như chiếc rìu nhỏ dùng để chặt thỏi đường ăn, sẵn sàng chịu đóng đinh trên cây thánh giá vì lòng tin không có bất cứ cơ sở nào. Phân tích chỉ ra bà ta là người yếu đuối, duyên dáng và nguy hiểm, và với lòng nhiệt tình kì lạ, không lúc nào ngừng kể lể về tội lỗi của cô hầu phòng của mình. Doctor Pawel nghe câu chuyện của bà Aniela hàng tiếng đồng hồ, vừa nghe vừa giữ nụ cười trên mặt, nụ cười có thể nhìn thấy trên miệng của một gã trẻ tuổi đang tán tỉnh những phu nhân xinh đẹp trong giây phút mà anh chàng bị cơn đau răng khốn khổ hành hạ.

Để thực hiện những hành động anh hùng trong phạm vi dân chủ hóa những khái niệm ở Obrzydlovek, kể cả chỉ nhằm làm cho thời gian trôi qua dễ chịu hơn, hắn cũng không có đủ khả năng. Hắn không thể đến thăm hỏi những gã đồ tể như đã từng có ý định làm việc đó một thời bằng bất cứ giá nào; nếu như có thể nói chuyện thì hắn chỉ có thể nói với những người có trình độ văn hóa nhất định.

Lúc bấy giờ, không chỉ có năng lượng bị tiêu hao,cả sự tôn trọng của hắn đối với toàn bộ ý nghĩ rộng lớn hơn cũng đã bị triệt tiêu. Từ những đường chân trời rộng lớn chỉ có thể đo được bằng ánh mắt mộng mơ, chỉ còn lại đường chân trời nhỏ bé đến mức có thể vạch ra được bằng đầu của viên đá nhỏ. Phản ứng trước những bài báo có tiếng vang lớn nhan đề: “Đi tìm sự thật của ngọn lửa sáng ngời và những con đường mới chưa được phát hiện”, hắn coi đó là bước khởi đầu của sự chết chóc với nỗi đắng cay tiếc nuối xen lẫn ghen tị, tiếp đó là với tính thận trọng của một người có vốn kinh nghiệm nhất định, còn về sau là với sự hoài nghi, rồi với cái cười nhếch mép, sau nữa với sự coi thường tuyệt đối, và cuối cùng hoàn toàn không để ý đến nữa, vì đối với hắn thế nào cũng được, mọi thứ đều như nhau cả thôi. Hắn chữa bệnh theo chỉ dẫn của kinh nghiệm, hắn đã trải qua một quá trình thực tế nhất định, đã quen dần với Obrzydlovek, với tình trạng cô đơn, thậm chí buồn chán, quen với những chú lợn sữa quay và ít nhất cũng không còn sốt sắng với ngọn lửa trí tuệ của cuộc sống.

Nguyên tắc, như một mẫu số chung mà các hành động và ý nghĩ của doctor Obarecki hướng đến là: Hãy đưa tiền ra và cút khỏi đây...

Nhưng sau khi trở về từ cuộc gặp nhân ngày lễ Đặt tên của cha xứ quản hạt và trong giây phút ngồi gõ ngón tay xuống mặt bàn, “tình trạng siêu hình” lại chế ngự hắn với sức mạnh tăng cường. Ngay từ giờ thứ sáu của cuộc chơi bài, doctor đã cảm thấy khó chịu, điều đó lại do chính gã chủ tiệm dược phẩm gây ra. Không biết từ lúc nào, ông ta bắt đầu nghiên cứu Lịch sử phổ thông của hoàng đế Cant(bản dịch của Leon Rogalski) và sau khi tạo cho mình một quan điểm vô cùng cấp tiến về hành động của Aleksander VI*, dù chẳng quan tâm đến vấn đề tôn giáo, ông ta liền tuyên bố ủng hộ Giáo hoàng kia.

Aleksander VI: Aleksander VI Borgia, Giáo hoàng trong những năm 1492 - 1503, nổi tiếng về thói sống trụy lạc (TG).

Doctor Obarecki biết quá rõ tại sao những cuộc tranh cãi thiếu ý thức xây dựng của gã dược sĩ đó đã chọc tức cha xứ quản hạt; hắn cảm thấy trước được rằng đó là khúc dạo để tiến tới sự tiếp cận gần hơn, sự kết bạn trên cơ sở thống nhất quan điểm... Hắn cảm thấy trước được rằng gã kia sẽ đến thăm hắn vào một lúc nào đó, gã sẽ đến, từ xa ghé đến và sẽ khôn khéo chỉ ra sự thiếu hụt nguồn vốn, cái gốc của “tình trạng đình đốn”, rồi sau khi hạ thấp đường bay xuống tới các vấn đề của Obrzydlovek, gã kia sẽ chỉ ra rằng hai người họ, khi tay nắm trong tay, sẽ mang lại lợi ích gì cho xã hội: một người bằng việc viết đơn thuốc trên khuỷu tay, người thứ hai khai thác tình hình...Ai biết được - có thể gã kia sẽ đưa ra đề nghị thẳng thừng và thành thực, “gác chân lên mặt bàn”, lập một công ti hối phiếu, với mục đích cùng nhau ngụp lặn trong đống phân nhầy nhụa. Doctor cũng linh cảm thấy rằng hắn sẽ không đủ sức từ chối các đề nghị của chủ tiệm dược phẩm bằng việc tát nhẹ vào má gã, bởi vì không biết tát gã vì cái gì... Thậm chí, hắn còn giả thiết rằng công ti đó sẽ được lập ra - ai biết được... Nỗi đắng cay ngập tràn trái tim hắn. Điều gì sẽ xảy ra? Cho đến nay hắn đã đi vào đó bằng cách nào? Tại sao không thoát ra khỏi vũng bùn ấy? Tại sao hắn lại là kẻ lười biếng, kẻ mơ mộng, kẻ suy tư, con sâu gặm nhấm chính ý nghĩ của mình, bức tranh châm biếm đáng ghê tởm vẽ chính bản thân mình?...

Và chuyện đã xảy ra, khi hắn nhìn chăm chú vào ô cửa sổ, đặc biệt cần mẫn, nghiên cứu một cách tàn nhẫn và ngắm nghía hết sức tinh tế sự tàn nhẫn của mình. Tuyết rơi những hạt to, che lấp cả khung cảnh buồn rầu bằng lớp sương mù mùa đông và ánh hoàng hôn.

Cuộc rượt đuổi theo các ý nghĩ hão huyền không mang lại kết quả, bỗng nhiên bị tiếng kêu thét của chị nội trợ đang cố thuyết phục ai đó rằng doctor không có mặt ở nhà làm gián đoạn. Nhưng chính doctor lại đi ra bếp để cắt đứt dòng ý nghĩ đang hành hạ hắn.

Một gã đàn ông to lớn trong chiếc áo lông màu vàng, phủi tuyết bằng “chiếc mũ điên khùng” cúi gập người xuống ngay dưới chân hắn, dùng nắm tay hất những sợi tóc khỏi trán, đứng thẳng dậy và chuẩn bị bắt đầu bài diễn thuyết của mình.

- Cái gì thế? - Doctor lên tiếng.

- A ha, doctor quyền quý ơi, ông trưởng thôn phái tôi đến đây...

- Để làm gì?

- À, để đón ngài doctor quyền quý.

- Ai ốm hả?

- Cô giáo ở trong làng chúng tôi bị sốt, có cái gì đó đổ ụp xuống cô ta. Ông trưởng thôn đến... “Đi ngay đi, Ignacy ơi, tuyết đang rơi, đến ngay Obrzydlovek tìm doctor quyền quý. Cũng có thể ông ta đến, tuyết đang rơi...”

- Tôi sẽ đến. Ngựa khỏe không?

- Ôi, ngựa chỉ là ngựa thôi, loài bò sát chết tiệt ấy mà.

Doctor cảm thấy thích thú vì chuyến đi, vì sự mệt nhọc, thậm chí vì cả sự nguy hiểm. Hắn hồ hởi xỏ chân vào đôi giày dày dặn, mặc lên mình chiếc áo khoác ngắn cùng chiếc áo lông da thú có thể bao bọc kín mình khi có gió, thắt chiếc thắt lưng quanh bụng và đi ra khỏi nhà. “Lũ bò sát” của người nông dân không lớn lắm, nhưng tròn trịa, được ăn no; chỗ ngồi cực lớn trên xe trượt tuyết được trải đầy rơm bên trên và phủ một tấm thảm. Hắn lọt thỏm vào lớp rơm phủ kín mình, người nông dân ngồi ké bên cạnh trên ghế trước, tháo dây cương làm bằng vải bố khỏi chiếc cọc cho lũ ngựa khởi hành.

- Có xa không? - Doctor hỏi.

- Có lẽ khoảng chừng ba dặm, có thể ít hơn...

- Ông không đi lạc đấy chứ?

Người nông dân nhìn lại với nụ cười mỉa mai.

- Ai... tôi ấy à?

Gió thổi trên cánh đồng rất mạnh. Chiếc xe trượt tuyết mới thắng vào ngựa còn đang lệch, vừa mới được đẽo gọt bằng rìu, nhảy chồm chồm trên đường mới bị tuyết dày bao phủ, hất tung sang bên cạnh những tảng đất trắng phau. Đoạn đường dài ra.

Người nông dân lật “chiếc mũ điên khùng” sang một bên và bắt đầu thúc lũ ngựa. Doctor cảm thấy dễ chịu. Sau khi vượt qua khu rừng nhỏ ngập chìm trong tuyết, họ đi đến một khoảng rộng trống trải không người ở, bao quanh là cánh rừng chạy dài xa tít đến tận cuối đường chân trời. Ánh hoàng hôn hạ xuống bao phủ khung cảnh trơ trụi và khắc nghiệt của sự hoang vắng bằng màu xanh nhạt và đang tối thẫm lại phía trên cánh rừng. Những cục tuyết bắn ra từ móng ngựa bay ngang qua tai doctor , Không hiểu sao hắn muốn đứng thẳng lên trên xe trượt tuyết và gào to theo kiểu người nông dân, bằng cả sức lực của mình, gào vào khoảng không câm lặng bất tận, mê hoặc bởi sự bao la rộng lớn giống như vực thẳm. Đêm hoang dại và buồn thảm nhanh chóng tràn về, đêm của những cánh đồng không người ở.

Gió mạnh lên, thổi đơn điệu với tiếng rít đôi lúc vang lên như khúc nhạc nặng nề; tuyết phả vào người từ bên cạnh.

- Hãy coi chừng đường đi, ông chủ ơi, nếu không có thể rất tồi tệ đấy. - Doctor giấu mũi trong chiếc áo lông thú lên tiếng.

- Ôi, bọn nhóc! - Người nông dân hét lên với lũ ngựa thay cho câu trả lời.

Giọng ấy chỉ vừa đủ nghe thấy trong tiếng gió lốc. Lũ ngựa phóng nước đại.

Một cơn bão tuyết bỗng nổi lên điên cuồng. Gió lốc bắt đầu kéo theo những đống tuyết khổng lồ, đập mạnh vào cỗ xe trượt tuyết, rít lên điên cuồng, khiến người ta nghẹt thở. Nghe thấy tiếng ngựa thở phì phò, song doctor không thể nhìn thấy cả lũ ngựa lẫn người đánh xe. Những đám tuyết bị gió thổi bốc lên từ mặt đất bay lượn như đàn ngựa và giống như tiếng vó ngựa ào ào phóng qua; đôi lúc từ mặt đất vang lên tiếng rít rùng rợn và với sức mạnh khủng khiếp,giai điệu ấy đập thẳng vào các đám mây, bẻ vỡ chúng thành từng mảnh và bỗng nhiên rơi xuống với tiếng gầm rít cực lớn. Lúc bấy giờ, tuyết tan thành từng mảnh và bao phủ khách lữ hành của chúng ta bằng những cột tuyết xoáy tròn. Có cảm tưởng rằng những con quỷ đang bao quanh trong điệu nhảy điên loạn của các bánh xe khổng lồ, rằng chúng đuổi theo ta từ phía sau, cản đường ta phía trước, phía bên cạnh và hất từng vốc tuyết vào đầy xe. Ở đâu đó phía trên cùng, trên đỉnh đầu, vang lên một tiếng chuông rất lớn, vọng xuống liên hồi, xa xăm đều đặn.

Doctor cảm thấy như họ không còn đi trên đường nữa; cỗ xe trượt tuyết đang di chuyển từ từ và vừa đi vừa đập bánh vào những luống đất trên đồng.

- Ông chủ ơi! - Hắn lo lắng lên tiếng - Chúng ta đang ở đâu vậy?

- Tôi đang đi trên cánh đồng dẫn đến rừng. - Người nông dân đáp - Ở trong rừng sẽ bớt gió hơn... chúng ta sẽ vào ngay đầu làng bằng đường rừng...

Quả là không lâu sau, gió bớt hẳn đi và chỉ còn nghe thấy tiếng rít từ phía gầm trời và tiếng cành cây gãy răng rắc. Trên nền đêm đen lấp ló chập chờn những hàng cây tuyết phủ. Không thể đi nhanh hơn được, vì đây là đường rừng, đầy rẫy những ụ đống, len lỏi cắt ngang bởi những thân cây và cành lá. Sau chừng một tiếng đồng hồ, khoảng thời gian mà doctor tỏ ra lo lắng và sợ hãi, cuối cùng cũng nghe thấy những âm thanh từ xa vẳng đến lặp đi lặp lại - tiếng chó sủa.

- Làng chúng tôi đấy, ngài quyền quý ạ...

Những đốm sáng lập lòe ở đằng xa, trông giống như những chấm nhỏ ngả nghiêng về nhiều phía, mùi khói dâng lên.

- Dừng lại, lũ nhóc! - Người đánh xe kêu lên vui vẻ, đấm thùm thụp vào sườn mình để làm nóng người lên.

Vượt qua hàng loạt căn nhà, họ đi đến một mái tranh phủ kín tuyết. Từ các lớp kính của ô cửa sổ đóng băng hắt ra đường vệt sáng và vẳng ra những tiếng nói yếu ớt.

- Người ta đang ăn tối... - Người nông dân nói ra một cách không cần thiết, khiến doctor nhớ đến thời gian ăn bữa tối, thứ mà ngày hôm đó hắn không hi vọng được hưởng.

Lũ ngựa dừng lại trước một căn nhà, người nông dân dẫn doctor Pawel vào hiên nhà, sau đó mất hút. Sau khi đưa tay vặn nắm đấm cửa, doctor bước vào căn phòng nhỏ nghèo nàn được chiếc đèn dầu hỏa chiếu sáng. Một người đàn bà già yếu, lưng gù trông như tay cầm của chiếc ô, sau khi nhìn thấy hắn liền từ trên giường nhỏm dậy, sửa lại chiếc khăn trùm đầu và bắt đầu nhấp nháy mi mắt, rồi giương đôi mắt đỏ lòm với sự hoảng sợ được che đậy rất tồi tệ.

- Người ốm ở đâu? - Hắn hỏi - Các người có ấm đun nước không?

Bà già trong cơn sợ hãi không thể nói được gì...

- Có ấm đun nước chè không, các người có thể pha cho tôi cốc nước chè không?

- Có ấm đun nước đấy... chỉ có điều không có đường...

- Lại còn thế nữa! Không có đường à?

- Không có... có lẽ Walkowa có, bởi cô ấy...

- Cô gái trẻ của các người ở đâu?

- Cô gái khốn khổ ấy nằm ở phòng bên.

- Bị ốm lâu chưa?

- Cô ấy đã nằm đến hai tuần nay rồi, còn bây giờ thì cả tay và chân đều không cử động. Im thin thít.

Hắn hé cánh cửa căn phòng bên cạnh.

- Chút nữa! Tôi phải sưởi ấm đã. - Doctor lên tiếng với vẻ giận dữ và cởi áo lông thú khỏi người.

Việc sưởi ấm trong cái hang này không khó: từ bếp lò đưa đến một luồng khí nóng đến nỗi doctor phải vội vàng lẩn người vào phòng “cô gái trẻ”. Căn phòng nhỏ hết sức nghèo nàn này được chiếu sáng với chiếc đèn vặn nhỏ bấc đặt trên mặt bàn, ngay bên cạnh đầu người bệnh. Không thể nhìn rõ được nét mặt của cô giáo, do có một vệt tối của quyển sách rất lớn phủ trùm lên. Doctor thận trọng tiến lại gần, vặn to ngọn đèn, chuyển quyển sách đi chỗ khác và bắt đầu quan sát người bệnh. Đó là một cô gái trẻ, đang chìm vào giấc ngủ do sốt cao. Mặt, cổ, hai tay cô bao phủ màu đỏ chói - trên nền ấy có thể nhìn thấy những mụn nhỏ nổi lên chi chít. Mái tóc màu tro nhạt vô cùng rậm rạp chảy dài trên gối, uốn lượn trên mặt. Đôi tay vô thức và nôn nóng giằng xé tấm chăn bông.

Doctor Pawel cúi xuống sát mặt người bệnh và bỗng nhiên nói bằng giọng như bị sự sợ hãi chặn ngang và bóp nghẹt:

- Cô Stanislawa ơi, cô Stanislawa ơi, cô Stanislawa ơi...

Người bệnh lười nhác và cố sức hé mở cặp mi mắt, nhưng ngay lập tức nhắm nghiền lại. Cô gái dịch đầu từ góc này sang góc kia của gối và từ sự im lặng đau đớn bật lên tiếng rên nặng nề. Thỉnh thoảng, cô lại mở miệng, như con cá chép cố đớp đớp chút không khí.

Doctor ngước mắt lên nhìn những bức tường vôi trắng trần trụi của căn phòng, phát hiện thấy ô cửa sổ ẩm ướt không được bọc kín và đôi giày đi trong nhà khô khốc của người bệnh. Những đống sách nằm ở mọi nơi mọi chỗ: trên nền đất, trên mặt bàn, trên tủ...

- Ôi, em thật điên rồ, thật ngu ngốc! - Hắn thầm thì, vặn tay tỏ ý thất vọng.

Cảm thấy lo lắng và buồn rầu, hắn vội vã khám bệnh cho cô, đôi tay run rẩy đo nhiệt độ.

- Thương hàn... - Hắn lẩm bẩm.

Với nỗi tức giận, hắn ghìm nén cổ họng mình, trong đó giống như có những cuộn xơ đay đang bóp nghẹt, những giọt nước mắt bất lực muốn trào dâng. Hắn biết rằng không có cách gì giúp được cô, không cái gì có thể giúp được. Bỗng nhiên, hắn bật cười sau khi nhớ lại rằng muốn có thuốc kháng sinh hoặc thuốc đặc trị phải cử người đi... ba dặm đường đến Obrzydlovek. Cô Stanislawa thỉnh thoảng lại mở to đôi mắt trong veo vô hồn, giống như thứ chất nhờn đã nguội lạnh dưới mi mắt ra và nhìn, nhìn mà không thấy gì qua cặp lông mi cong dài của mình. Hắn gọi cô bằng những từ âu yếm nhất, nâng chiếc đầu gắn yếu ớt vào cổ của cô lên cao nhưng vô ích.

Hắn ngồi bất động trên ghế và nhìn chăm chú vào ngọn lửa đèn dầu. Nỗi bất hạnh như một tử thần nện đòn chí mạng vào hắn và bây giờ đang đưa con người bất lực đến hang động tối tăm, đến một khe hở không có lối thoát...

- Làm gì đây? - Hắn run rẩy thầm thì.

Qua lỗ hở của cửa sổ, một luồng hơi lạnh của cơn bão mùa đông luồn vào căn phòng nhỏ giống như bóng ma báo điềm dữ. Doctor cảm thấy như có ai đó động vào người mình, ngoài hắn và người bệnh ở trong phòng còn có kẻ thứ ba nữa...

Hắn đi ra phòng bếp và hét người hầu bảo gọi ngay trưởng thôn đến.

Bà già chỉ kịp xỏ chân vào đôi giày lớn, đội tấm khăn quàng lên đầu và vừa nhảy tưng tưng trông thật buồn cười vừa biến mất. Không lâu sau, trưởng thôn xuất hiện.

- Ông nghe đây, ông có thể tìm cho tôi một người đi đến Obrzydlovek ngay bây giờ hay không?

- Bây giờ ư? Ông doctor , không đi được... bão tuyết. Đi để chết à? Khó có thể xua chó dẫn đường.

- Tôi sẽ trả công, sẽ có thưởng.

- Tôi không biết... Để tôi hỏi đã.

Ông ta bước ra khỏi nhà. Doctor Pawel lấy tay di di vào thái dương, hình như chỗ đó đang tụ máu. Hắn ngồi xuống nắp một chiếc hòm và nghĩ về chuyện đã xảy ra lâu lắm rồi, ở một nơi xa xăm.

Sau đó, hắn nghe thấy tiếng chân bước đến gần: trưởng thôn dẫn một gã đầy tớ đến trong chiếc áo lông rách mướp, dài chưa đến đầu gối, quần may bằng vải thô, giày tồi tàn, quàng chiếc khăn màu đỏ trên cổ.

- Hắn ta đi ư? - Doctor hỏi.

- Hắn nói hắn sẽ đi... Can đảm đấy chứ. Tôi có thể cho ngựa, nhưng giờ này thì đi đâu?

- Này, nếu như anh về đây trong vòng sáu tiếng đồng hồ, anh sẽ nhận được từ tay tôi hai mươi nhăm, ba mươi rúp... bao nhiêu cũng được... anh có nghe thấy không?

Cậu bé nhìn lên doctor định nói gì đó nhưng nén lại. Rồi cậu dùng ngón tay lau mũi, quay lưng lại và chờ. Doctor đi đến bàn của cô giáo và bắt đầu viết. Tay hắn run rẩy và chốc chốc lại đặt lên thái dương. Hắn suy nghĩ, viết, gạch xóa, vò nát tấm giấy. Hắn viết thư cho chủ tiệm dược phẩm bảo ngay lập tức đưa ngựa tới thành phố huyện lị, đến gặp bác sĩ ở đó, đề nghị gửi cho hắn thuốc kháng sinh. Hắn cúi xuống người bệnh, khám lại cho cô một lần nữa. Cuối cùng, hắn đi ra bếp và trao bức thư cho cậu bé.

- Người anh em của tôi ơi, - hắn nói bằng giọng rất lạ, không phải giọng của mình, vừa nói vừa để tay lên vai chàng trai và lắc mạnh cậu ta - miễn là ngựa còn nhảy được, còn một chút hơi sức... Cậu có nghe thấy không, người anh em của tôi!...

Cậu bé cúi xuống tận chân hắn để chào và đi ra ngoài cùng trưởng thôn.

- Cô giáo này đến làng các ngươi lâu chưa?... - Doctor Pawel ướm hỏi bà già đang ép sát người vào lò sưởi.

- Ba mùa đông rồi!... Hình như thế.

- Ba mùa đông. Không ai sống cùng cô ta hay sao?

- Còn ai nữa... chỉ có tôi. Cô gái khốn khổ cho tôi ở... “Không tìm được người phục vụ,” cô ta nói, “bà ơi, còn ở với cháu công việc không nhiều... chỉ cần... chỉ cần...”. Còn bây giờ thì thế đấy: cô ta hứa với tôi rằng sẽ lo cỗ quan tài cho tôi, thế mà... hãy cầu Chúa tha tội cho chúng con.

Bỗng nhiên, bà già bắt đầu lầm rầm cầu kinh, câu được câu mất và đôi môi đánh vào nhau lập cập như con lạc đà. Đầu bà ta rung chuyển, nước mắt lăn theo các vết nhăn chảy vào cái miệng móm không còn răng.

- Cô ấy tốt lắm...

“Người bà” bắt đầu khóc sụt sịt trông thật buồn cười và phẩy tay như muốn đuổi doctor khỏi chỗ mình. Hắn đi vào phòng và rón rén bước xung quanh phòng theo kiểu của mình, cứ bước và bước... Thỉnh thoảng, hắn dừng lại bên cạnh giường và nhe cả hàm răng ra nói với người bệnh trong sự tức giận khiến đôi môi trở nên trắng nhợt:

- Cô đã hành động thật ngu ngốc! Không những không thể sống như vậy được, mà còn không đáng. Không thể dùng cuộc sống phục vụ cho một trách nhiệm nào đó; bọn ngu ngốc sẽ ăn thịt cô, sẽ lấy dây thừng kéo cô đến với bầy đàn, còn nếu cô chống cự lại vì những ảo tưởng ngu ngốc của mình thì chúng sẽ giết chết cô đầu tiên, bởi cô quá xinh đẹp, quá đáng yêu...

Như ngọn lửa bén củi khô, tình cảm xưa đã trôi qua, bị quên lãng bỗng trở về bao bọc hắn; nó xuất hiện, làm say đắm như thuở nào và cực kì ngọt ngào. Hắn tự thuyết phục mình rằng chưa bao giờ quên cô, rằng cho đến tận giờ phút này hắn vẫn yêu mến và luôn nhớ tới cô. Hắn nhìn ngắm khuôn mặt quen thuộc ấy với thái độ tò mò không bao giờ thỏa mãn và một nỗi đau câm lặng xuyên thẳng vào tim hắn. Ba năm trời cô sống ở đây, bên cạnh hắn - hắn chỉ biết điều đó khi cô sắp chết...

Tất cả mọi thứ mà ngày hôm nay hắn gặp, đối với hắn hình như đó là sự nối tiếp nỗi đau khổ của sự tồn tại bắt buộc, đồng thời cũng hé mở một chân trời bí hiểm, một đại dương chìm trong sương mù. Những cơn rùng mình cứ chảy tràn đến tận các ngóc ngách xa nhất trên đường dây thần kinh của hắn. Hắn có vùng vẫy như cục chất nhầy trên đáy bùn lầy của khe nước, khi người ta nhấn chìm hắn xuống nước biển...

Cho nên, bằng toàn bộ sức lực của tính nôn nóng và cảm giác vô vọng, hắn nắm lấy những hồi tưởng, chạy trốn thực tại không tài nào chịu đựng nổi, chìm vào đó như chìm vào đám sương mù dày đặc trước buổi bình minh tháng Sáu.

Bằng giá nào cũng được, hắn muốn được ở một mình để nghĩ và nghĩ, dù chỉ trong giây lát...

Từ phòng cô giáo, qua chiếc cửa nhỏ hắn đi vào căn phòng lớn có kê bàn và những chiếc ghế dài. Hắn ngồi xuống trong bóng tối và như tập trung tinh thần, suy tính các phương cách cứu chữa, hắn bắt đầu nhớ lại. Và đây là điều hắn đã nhớ lại được.

Hắn là sinh viên nghèo đang học năm thứ tư. Buổi sáng mùa đông, trên đường đến bệnh viện, hắn phải đặt bước chân hết sức khéo léo sao cho không phải tất cả mọi người đều nhìn thấy những lỗ thủng trong đế giày làm bằng bìa cát tông đã được che đậy một cách tài tình. Chiếc áo bành tô nhỏ của hắn chật không khác gì chiếc áo nẹp của một gã điên, xơ xác đến mức tên Do Thái không thèm trả để mua nó với giá tám zloty vào mùa hè. Cái nghèo làm cho hắn rất bi quan, kéo hắn vào tình trạng buồn phiền dai dẳng, một cái gì đó còn lớn hơn nỗi buồn chán khó chịu, song cũng còn xa mới đến sự đau đớn. Hắn có thể thức tỉnh ngay lập tức từ tình trạng đó: chỉ cần uống vài cốc nước chè, ăn một suất bít tết - nhưng hắn không uống nước chè, có lẽ không ăn cả bữa trưa nữa cũng nên. Hắn chạy gần như dọc bãi lầy ở phố Dluga để đến cổng vườn Saski vào chín giờ kém mười lăm. Ở đó, hắn gặp một cô gái, đi bên cạnh cô, ngắm nhìn bím tóc nặng dài màu tro sáng của cô... Cô không ngước mắt lên, cau cặp lông mày trông giống như

cặp cánh thẳng và hẹp của một con chim. Mỗi ngày, hắn đều gặp cô tại đúng địa điểm ấy. Cô bước nhanh trên phố Krakowskie Przedmiescie, đi lên tàu điện và đến Praga. Cô chỉ khoảng mười bảy tuổi, nhưng trông như một nhân vật quan trọng đứng tuổi, đội mảnh vải trùm đầu có dải dài vắt chéo một cách cẩu thả lên mũ lông, đi đôi ủng hơi quá cỡ so với đôi chân nhỏ nhắn, mặc chiếc áo choàng may vụng về không hợp mốt. Cô luôn cắp dưới nách cuốn tập viết, những tờ giấy đầy chữ, các cuốn sách, tập bản đồ. Có lần, biết trong túi mình có mấy chục xu dành cho bữa trưa, hắn quyết định đi theo để xem cô đi đâu. Hắn đuổi sau cô, cùng lên toa tàu giá vé mười xu, song ngay sau khi ngồi vào chỗ, hắn liền mất hết lòng can đảm. Người con gái không quen ấy đã nhìn hắn với ánh mắt khinh bỉ khủng khiếp đến mức hắn lập tức nhảy khỏi tàu điện, thế là hắn mất một suất xúp gà mà không đạt được bất cứ điều gì.

Nhưng hắn không oán ghét cô - qua chuyện đó, cô lại càng được đánh giá cao hơn. Mặc dù không muốn, hắn vẫn nghĩ đến cô, nghĩ một cách vô thức, liên tục. Hàng giờ liền hắn cố nhớ lại, cố hình dung lại mái tóc, đôi mắt, cái miệng màu vỏ quả hồng dại - và cố gắng nhớ một cách vô ích.

Chỉ cần cô không xuất hiện trước mắt hắn, những đường nét của cô lập tức biến mất khỏi trí nhớ - ngược lại, chi còn tồn tại bóng ma ghê tởm, giống như một đám mây trắng với những đường nét không rõ ràng bay lượn đâu đó trên cao trước mặt hắn. Đám mây ấy đuổi theo ý nghĩ của hắn với niềm thương nhớ và sự sợ hãi nhún nhường, với một chút tiếc nuối không thể nắm bắt được, với nỗi buồn đau và mối thiện cảm không thể tách rời. Mỗi buổi sáng, hắn đều đi để so sánh cô gái sống động ấy với bóng ma của mình. Và hắn cảm thấy rằng cô gái sống động kia xinh đẹp hơn, đôi mắt thông minh của cô gây cho hắn sự sợ hãi khó tả...

Lúc bấy giờ, một trong những người bạn hắn, có tên gọi là “Chuyển động trong không gian”, một “nhà hoạt động xã hội” lớn, người luôn bắt đầu viết phần mở đầu, nhưng không bao giờ kết thúc một cuốn sách nào vì luôn thiếu thời gian, bất ngờ lại kết hôn với một người phụ nữ đòi quyền bình đẳng nghèo như chuột trong nhà thờ.

Của hồi môn cô vợ mang đến cho “Chuyển động” là một tấm thảm cũ, hai cái xoong, một pho tượng Mickiewicz bằng thạch cao và hơn chục tấm bằng khen của trường phổ thông trung học cơ sở. Đôi vợ chồng trẻ sinh sống tại tầng tư và ngay sau đám cưới, họ bắt đầu chết dần chết mòn vì đói. Cả hai người đều hăng say dạy thêm đến mức sau khi chia tay nhau buổi sáng, mãi đến buổi tối họ mới gặp nhau. Căn nhà của họ trở thành điểm mà buổi tối, mỗi “nhà hoạt động xã hội” nào trong đôi dép dính bùn cũng đến để ngồi trên ghế bành, hút thuốc lá của người khác, nói chuyện phiếm đến khản giọng và góp những đồng xu lẻ cuối cùng đưa ra để bà chủ nhà lịch thiệp mua về cho họ những chiếc bánh mì tròn và khúc giồi nhân thịt, bày một cách nghệ thuật lên chiếc đĩa và thết đãi mọi người. Ở đó, lúc nào cũng có thể gặp được ai đó, làm quen được với những con người vĩ đại mà xưa nay chưa từng gặp, làm quen với các bạn gái của chủ nhà, và thậm chí còn có thể vay của ai đó 40 xu không chỉ một lần.

Obarecki đã run lên vì sung sướng như thế nào khi buổi tối nọ, bước vào căn phòng gọi là phòng khách và nhìn thấy cô gái mình thầm yêu trong đám các bạn gái đó! Hắn nói chuyện với cô và đã mất tỉnh táo đến mức không giữ được nhã nhặn nữa... Tối đó, về đến nhà, hắn muốn ở một mình - không mơ tưởng và không nghĩ ngợi gì, chỉ muốn ở bên cô bằng cả tấm lòng mình, muốn có cô toàn vẹn trong mắt mình, có tiếng nói của cô trong tai mình, suy nghĩ giống như cô, nhắm mi mắt lại và để những hình ảnh thoát ra từ trái tim mình đi dưới mi mắt ấy. Hắn nhớ đôi mắt kì lạ của cô, đôi mắt buồn rầu và nhân từ, dịu dàng mà kín đáo, trong đó có một vực sâu dễ làm người ta hoảng sợ. Hắn được nếm trải cảm giác vui sướng và yên bình, giống như sau chuyến đi nóng nực và mệt mỏi đến được một dòng suối trong lành ẩn mình dưới bóng râm của những cây thông trên cao nguyên đá.

Người ta dành cho cô sự tôn trọng, quan tâm đặc biệt đến những lời nói của cô. “Chuyển động” khi giới thiệu Obarecki với cô gái không quen đã trịnh trọng tuyên bố:

- Đây là Obarecki, nhà tư tưởng, người mơ ước, một người lười biếng vĩ đại, còn đây là nhân vật lừng danh tương lai, cô Stanislawa Bozowska, người theo chủ nghĩa Darwin của chúng ta...

“Người lười biếng vĩ đại” biết được về “người theo chủ nghĩa Darwin” không nhiều lắm: cô tốt nghiệp trung học cơ sở, đi dạy thêm, có ý định đến Zurich hoặc Paris để học y khoa, không có đồng xu nào dính túi...

Từ đó, họ thường xuyên gặp nhau ở “phòng khách”. Cô Stanislawa mang đến một thỏi đường cắp trong áo choàng, miếng thịt nướng nguội bọc trong tờ giấy, vài chiếc bánh mì tròn; Obarecki không mang gì đến vì hắn chẳng có gì, vì thế hắn chỉ gặm bánh mì và ăn tươi nuốt sống “người theo chủ nghĩa Darwin”. Thậm chí có lần, khi tiễn người yêu quý về nhà, hắn đã ngỏ lời cầu hôn với cô. Cô nhoẻn miệng cười thân thiết và tiễn hắn bằng một cái bắt tay thân tình. Không lâu sau, cô biến mất; cô đã đi đến tỉnh Podolska làm gia sư tại một “nhà” quý tộc.

Còn bây giờ, hắn gặp lại cô trong góc tối tăm này, tại làng quê hẻo lánh nằm sâu trong rừng, nơi sinh sống của toàn những người nông dân, nơi không có một lâu đài nào, nơi không có một linh hồn sống nào... Một mình cô sống tại nơi hoang mạc này. Bây giờ cô đang chết... đang bị lãng quên...

Tất cả niềm say đắm xưa kia, những giấc mơ không thực hiện được và những ước muốn bỗng nhiên cùng trỗi dậy, đổ lên người hắn như cơn gió xoáy ập đến. Trái tim dồn ép hắn đến nhói đau và độc tố say mê đã thẩm thấu chút ít vào dòng máu nổi loạn.

Hắn rón rén đi lại giường người bệnh, dựa người vào thành giường và say sưa nhìn ngắm bờ vai trần, những đường nét tuyệt vời kia khiến hắn liên tưởng đến bộ ngực và cái cổ. Cô gái đang ngủ. Trên thái dương cô nổi lên những mạch máu, ở khóe môi phía dưới dải nước bọt chảy xuống, hơi nóng từ người cô toát ra, luồng không khí bị hút vào miệng tạo thành tiếng huýt nghe rõ ràng. Doctor Pawel ngồi xuống bên cạnh cô trên mép giường, dùng hai tay vuốt ve mớ tóc mềm mại của cô, vuốt nhẹ khắp khuôn mặt cô, áp đôi môi vào mặt cô và nghe tiếng nức nở phát ra từ ngực cô.

- Stasia, Stachna... em yêu ơi...- Hắn thầm thì nho nhỏ vì không muốn đánh thức cô - Em không chạy trốn anh nữa... phải không? Không bao giờ nữa... em sẽ mãi mãi là của anh... em có nghe thấy không... mãi mãi...

Sau đó, hắn ngồi cạnh đầu giường người bệnh, trên một chiếc ghế nhỏ và lại chìm vào mơ ước. Thời thanh xuân đầy sôi nổi lại thức dậy trong hắn như từ cơn mê. Tất cả mọi thứ giờ đây sẽ khác. Hắn cảm thấy trong mình sức mạnh của một lực sĩ đang thực hiện những hành động mà trái tim mách bảo. Sự đau đớn và niềm hi vọng đang trộn lẫn vào nhau thành một ngọn lửa và chính ngọn lửa đó đang liếm vào bộ óc, thiêu trụi hắn, không cho hắn nghỉ ngơi.

Một đêm đã trôi qua. Thời gian lười nhác trôi, song đã hơn sáu tiếng đồng hồ qua đi kể từ lúc gã người hầu lên đường. Đã 4 giờ sáng. Doctor bắt đầu dỏng tai lên nghe ngóng, mỗi lần có tiếng sột soạt lại đứng ngay dậy. Thỉnh thoảng, hắn lại có cảm giác như ai đó đang đi, cánh cửa được mở ra, có người gõ vào cửa sổ... Hầu như mọi cơ quan trong người hắn đều căng ra nghe ngóng. Gió đang thổi điên rồ, chốt điều chỉnh không khí trong bếp lò hú lên - rồi lại im lặng. Và mỗi phút đang diễn ra như kéo dài cả trăm năm, trong đó, sự sốt ruột đã làm dây thần kinh hắn căng ra và đưa hắn vào tình trạng run rẩy toàn thân.

Khi đo nhiệt độ lần thứ sáu, người bệnh từ từ mở to đôi mắt. Dưới bóng tối của cặp lông mi, đôi mắt ấy trông gần như đen tuyền, cô nhìn thẳng vào hắn và thốt ra với giọng rít lên vì sợ hãi:

- Ai thế này?

Nhưng ngay sau đó, cô rơi vào tình trạng không còn cảm giác gì như trước đây. Hắn vui như bắt được báu vật vì giây phút tỉnh táo đó của cô. Ôi, giá như giờ đây có thuốc kháng sinh làm cô giảm đau đầu, đưa cô tỉnh trở lại...

Cậu bé được cử đi vẫn chưa trở lại, chưa thấy đâu.

Trước bình minh, doctor Obarecki đi men theo đường làng, dọc các cồn tuyết sâu hun hút, với niềm hi vọng cuối cùng là sẽ nhìn thấy cậu bé. Một linh cảm xấu giống như mũi nhọn của chiếc kim cứ xoáy vào tim hắn. Giữa những cành lá trống trải của hàng dương ven đường, gió vẫn hú lên điên cuồng, mặc dù bão đã lặng. Từ các căn nhà, những người đàn bà đi ra đường lấy nước và ì ạch xách những chiếc thùng, oằn mình đến đầu gối. Những người cố nông “kết bạn” với đàn bò, khói từ các ống khói dâng cao. Đây đó, từ các cánh cửa mở chớp nhoáng lại thấy tuôn ra làn hơi nước.

Doctor tìm thấy nhà trưởng thôn và ra lệnh lập tức thắng ngựa vào xe. Người ta thắng hai con ngựa và một cố nông đánh xe đi đến trước cổng trường học. Doctor tiễn đưa người bệnh bằng cặp mắt mở to vì mệt mỏi và cũng vì thất vọng, ngồi lên xe trượt tuyết và đi về Obrzydlovek. Mười hai giờ trưa, hắn quay trở lại, mang theo túi thuốc, chai rượu vang và toàn bộ số thực phẩm dự trữ của mình. Thinh thoảng, hắn đứng lên trên xe trượt tuyết, cứ như muốn nhảy ra ngoài và kéo ngựa chạy nước đại. Cuối cùng, hắn cũng đến được cửa trường học, nhưng hắn không bước xuống... Hắn nghẹt thở. Một tiếng kêu ngắn hình như phát ra từ miệng những kẻ đang cúi thấp, hắn nhìn thấy các cửa sổ căn nhà mở rộng và đám đông trẻ con đứng túm tụm ở hiên nhà. Mặt trắng nhợt như tấm vải đay, hắn đi về phía cửa sổ, nhìn khắp lượt và đứng lại đó, dựa khuỷu tay lên khung cửa sổ.

Trong căn phòng rộng của trường học, thi thể cô giáo trẻ nằm trên chiếc ghế dài; hai bà già đang tắm rửa cho cô... Những hạt tuyết nhỏ bay vào qua cửa sổ và đọng lại trên đôi vai, trên mớ tóc ướt và trên đôi mắt còn hé mở của người quá cố.

Doctor đi đến căn phòng nhỏ của người quá cố, cúi gù hẳn lưng xuống, giống như trên vai đang đeo cả một trái núi. Hắn ngồi xuống, không cởi áo khoác, ngồi trên một chiếc ghế tựa nhỏ và nhắc đi nhắc lại một câu, trong đó biểu thị toàn bộ nỗi đau đớn của mình:

- Thật vậy sao? Đúng vậy sao?

Hắn cảm thấy lạnh cóng, phiền muộn như máu trong người đã đông lại. Hắn không đau đớn, không biết cái gì đang xảy ra với mình, chỉ thấy trong đầu hình như có những chiếc bánh xe không bôi dầu mỡ đang lăn qua với tiếng kêu khủng khiếp.

Chiếc giường của Stasia bị xô lệch: chăn nằm dưới đất, vải trải giường treo trên nền nhà, chiếc gối đầy mồ hôi nằm ở giữa giường. Những chiếc móc dây thép của cửa sổ cứ đập tí tách đều đều vào khung kính; những chiếc lá cây bị ướt trong các chậu trồng cây treo lơ lửng và quặn lại vì băng giá.

Qua cánh cửa hé mở, hắn nhìn thấy những cậu bé đang quỳ xung quanh thi thể đã được mặc quần áo, trẻ con đang cầu kinh “trên sách”, gã thợ mộc đang đo đạc để làm quan tài...

Hắn bước đến và bằng giọng khàn khàn, hắn ra lệnh đóng cỗ quan tài bằng bốn mảnh ván không bào, phoi bào ở dưới đầu phải được dọn sạch.

- Không thêm cái gì cả... nghe chưa! - Hắn nói với gã thợ mộc với thái độ cố giấu sự phẫn nộ - Chỉ bốn tấm ván, không thêm cái gì cả...

Hắn chợt nhớ ra là phải báo tin cho ai đó... trong gia đình. Gia đình đó ở đâu nhỉ?...

Với vẻ đần độn và ngu ngốc, hắn bắt đầu sắp xếp cẩn thận các quyển sách, sổ danh mục của nhà trường, các vở ghi chép, những tờ giấy viết tay lại thành một chồng... Hắn bắt gặp giữa đống giấy tờ đoạn mở đầu của một bức thư.

“Chị Helenka yêu thương!

Từ mấy ngày nay, tôi cảm thấy khó chịu đến mức có lẽ tôi sẽ đến với các đấng Minos và Radamantes, Eakos và Tryptolemos cùng rất nhiều những vị thần linh khác. Trong trường hợp “di cư từ nơi này đến nơi khác” như vậy, chị hãy yêu cầu ông xã trưởng của xã tôi chuyển toàn bộ số di sản sách của tôi cho chị. Cuối cùng, tôi cũng đã hoàn thành cuốn Vật lí dành cho dân chúng, cuốn sách chúng ta đã tốn biết bao nhiêu trí tuệ của những bộ óc con gái trinh nguyên suy nghĩ về nó - tôi mới hoàn thành bản viết tay - thật tiếc! Nếu chị có đủ thời gian - trong trường hợp tôi di chuyển đến chỗ khác, thì bằng mọi giá - chị hãy cho in nó và bắt Antos chép lại; anh ta sẽ làm điều đó vì tôi. Ôi chao, sao lại buồn như vậy!... Đúng không?... Tôi còn nợ người bán sách của chúng ta mười một rúp sáu mươi lăm kopek... chị hãy trả anh ta... Hãy cầm bức hình Spencer* của tôi làm kỉ niệm, vì trong tráp tôi chẳng còn cái gì cả...”

Spencer: Herbert Spencer (1820 -1903), nhà triết học và xã hội học người Anh, nhà sáng lập lí thuyết về sự phát triển tiến hóa của xã hội. Ở Ba Lan đã xuất bản các cuốn sách sau đây của ông: Phác thảo triết học (1883), Luân lí học (1884), Cá nhân đứng trước Nhà nước (1886) v.v... Ở đây nói về một trong các sách dịch của ông đã nêu trên (TG).

Những chữ cuối cùng hắn không đọc được vì được viết bằng phấn. Không có địa chỉ, vì thế không thể gửi bức thư ấy đi được. Trong ngăn kéo bàn, doctor tìm thấy bản viết tay cuốn sách Vật lí mà hắn đã đọc trong thư, các cuốn vở ghi chép và vài mẩu giấy, trong tủ - một ít quần áo lót, chiếc áo choàng in hình các chú mèo, một cái váy cũ màu đen...

Khi dọn dẹp căn phòng học, hắn đã phát hiện thấy cậu bé nhận đi lấy thuốc; nó đứng co rúm bên cạnh bếp lò ở góc phòng, chân nọ đá chân kia. Một nỗi căm giận thú tính dâng lên trong lòng doctor .

- Tại sao mày không về đúng giờ? - Hắn hét lên và nhảy đến gần cậu bé.

- Tôi bị lạc trên cánh đồng, ngựa không chịu chạy... Tôi đã đi bộ về đây buổi sáng... Cô giáo lúc bấy giờ đã...

- Mày nói láo!

Cậu bé không đáp lại. Doctor nhìn thẳng vào mắt nó và nhận thấy một cảm giác kì lạ: đôi mắt đó tỏ ra mệt mỏi và sợ hãi, một nỗi tuyệt vọng kiểu nông dân, ngu ngốc man rợ, giống như một bí mật không thể khám phá đang hiện lên trong đó như hiện lên từ một hang động dưới lòng đất.

- Tôi mang đến đây, thưa ngài, những quyển sách mà cô giáo đã cho tôi mượn. - Nó nói rồi lôi từ dưới nách ra vài quyển sách đã xạm màu và bẩn thỉu.

- Mày để cho tao yên... Cút khỏi đây ngay!- Doctor hét lên, quay lưng lại và chạy vào căn phòng nhỏ.

Tại đó, hắn