Chương 2
... Thấm thoát mà Kim làm ở hãng Keyes gần một năm. Sáng bắt đầu 8 giờ, chiều tan sở 6 giờ. Công việc nhẹ nhàng, dễ dàng đến độ...nhàm chán! Sau này thạo việc, không cần chú ý nhiều nên Kim cũng bắt đàu... lạy ông đi qua, lạy bà đi lại như mọi người, sau giờ ăn trưa. Thỉnh thoảng cả đám đang lơ tơ mơ, chợt giật bắn người vì một tiếng thét hãi hùng của một nạn nhân lơ đễnh. Trong hãng có bốn người điều khiển máy ráp khoen, móc vào những sợi dây chuyền. Đôi khi ngủ gục, thay vì đưa hai đầu dây để máy đóng khoen, lạng quạng làm sao họ lại “thế” bằng chính ngón tay của mình. Cái máy vô tình vẫn làm nhiệm vụ, thế là một tiếng thét đau đớn trỗi lên, khiến mọi người bàng hoàng tỉnh giấc! Cai Guy hốt hoãng chạy tới tắt máy,rồi dẫn nạn nhân lên văn phòng săn sóc vết thương, sau khi đã mắng cho đương sự mấy mắng!
Có lần con bé Hà bị lâm nạn như vậy. Vừa bị đau vừa bị mắng, nhỏ oà lên khóc sướt mướt, khiến tên cai luống cuống không biết làm sao!...
Nghĩ đến còn rùng mình! Mùa đông năm đó lạnh thấu xương, lại bão tuyết liên miên. Có tuần đến ba trận. Con đường Chabanel chỉ có hãng xưởng. Building hai bên cao ngất. Khi có bão, gió luồng giửa các cao ốc này, sức mạnh tăng lên gấp đôi. Những hôm ấy, mấy bác cháu té lên té xuống, cố dắt díu nhau đi trong bão tuyết mịt mùng để đến trạm xe buýt. Tội nghiệp bác Tâm và bác Sang, leo được lên xe, mặt mũi người nào cũng tái xanh, rét run cầm cập! Chao ơi bên Việt Nam có mấy ai ngờ được cái nổi niềm thê thảm này! Kim có chị bạn thân, bảo lãnh đứa cháu từ trại tị nạn sang. Thấy bà cô cực khổ đầu tắt mặt tối, thằng bé kêu lên:
- Cô ơi, trước khi sang đây, cháu cứ tưởng cô sướng như tiên.
Chị bạn Kim cười cay đắng:
- Đúng đấy cháu ơi. Nhưng cô là tiên mắc đọa!!
Công việc nhàn nên muôn đời lãnh lương tối thiểu! Hơn nữa chưa có trường nào dậy cách moi được tiền của mấy ông chủ Do Thái!. Những ngày lễ, như lễ La Reine, chủ tuyên bố một câu xanh rờn:
- Cái bà Vua này ở tận bên Anh Quốc xa lắc,xa lơ, ăn thua gì tới xứ Canada mà phải nghỉ? Ai muốn nghỉ hôm đó thì ở nhà luôn cho được việc! Tất nhiên là chẳng ai dám bày tỏ lòng trung thành của mình với bà Nữ Hoàng, mà theo ông chủ thân mến (!) chẳng ăn nhậu gì tới chúng ta cả...
Nhưng nặng nhất là hôm lễ Quốc Khánh của xứ Québec. Lễ này quan trọng bậc nhất đối với dân “Còi”. Nhưng khổ nỗi, ông Deutch là dân Do Thái chánh cống. Hôm đó trong sở, mặt người nào cũng dài thòong. Khoảng 11 giờ, bỗng từ dưới đường, tiếng còi xe chữa lửa lẫn xe cảnh sát đưa lên điếc cả tai. Vài phút sau, có tiếng la lớn:
- Mọi người xuống đường. Building bị đặt bom!
Không ai bảo ai, chủ tớ tranh nhau theo cầu thang chân, chạy một mạch xuống tám tầng lầu trong một thời gian kỷ lục!
Đội cảnh sát đặc biệt nai nịt cẩn thận, đem máy dò bom lên rà khắp nơi. Độ nửa tiếng sau, các ông bạn dân trở xuống báo cáo:
- Tin đặt bom chỉ là tin vịt. Quí vị cứ yên chí tiếp tục lên làm.
Nhưng mấy người da trắng chả yên chí tí nào. Có cái cớ bằng vàng này, họ đã rút lui về nhà từ khuya! Lục tục trở lên hãng chỉ có đám da vàng và da đen. Ông Deutch lắc đầu càu nhàu:
- Tao không hiểu họ sợ cái gì? Khi Chúa gọi thì dẫu tụi bây đang nằm trên giường cũng sẽ chết ngay đơ!
Kim thấy đúng quá. Mấy mươi năm chiến tranh ở quê nhà, hàng ngày bom bay đạn nổ tùm lum chung quanh, mà còn chẳng làm sao. Sá gì cái chuyện đặt bom “dỏm” này mà phải sợ há? Tối về nhà kể lại Tín cười:
- Đúng là bị mấy tên “Còi” hù cho bỏ ghét đó mà...
Tội nghiệp cho đám công nhân thấp cổ bé miệng, đôi khi tức muốn bể phổi mà vẫn phải ngậm tăm! Chẳng hạn những ngày lễ Do Thái, cũng chả dây mơ rễ má gì tới xứ Canada, lão chủ độc tài này lại bắt mọi người nghỉ tuốt. Trong khi người khác đi làm, mình lại tà tà ở nhà, thật chẳng giống ai! Có lần nhỏ Mimose ghé tai Kim thì thầm:
- Bây giờ tao mới hiểu tại sao trên thế giới ai cũng ghét dân Do Thái!
... Giao tình giữa Mai và Kim càng ngày càng khắng khít. Mai điềm đạm, hay giúp đỡ kẻ khác. Không đẹp lắm nhưng có duyên ngầm. Mai và bà mẹ được người chị bảo lãnh. Thủ tục kéo dài khá lâu, nàng không dám lập gia đình vì ngại giấy tờ sẽ gặp rắc rối. Nhưng mà, ngày tháng có chịu chờ ai, đợi ai bao giờ?! Cho nên vào cái tuổi 28, Mai tự cho mình đã quá xuân thì. Biết Kim lớn hơn nàng có bốn tuổi mà đã là mẹ của ba tí nhau, Mai nói:
- Chị Kim thật có phước. Biết chừng nào em mới có được một gia đình như chị!
Kim đùa: - Coi vậy mà hổng phải vậy đâu nghen. Nhiều khi điên đàu vì tụi nhóc, hoặc tức mình ông Tín, chị lại thấy ganh tị với những người còn độc thân. Nhưng kẹt nổi "cá cắn câu biết đâu mà gỡ. Chim vào lồng biết thuở nào ra?"
Mai bật cười, nhưng sau đó lại buông tiếng thở dài:
- Tại chị Kim không biết, chớ một mình đôi khi... chán đời lắm!
Chợt nhớ lại lúc sau này, Mai có những cử chỉ, ánh mắt hơi... đặc biệt đối với Tuấn, Kim nheo mắt:
-Nhưng không sao, cứ yên chí đi. Theo giác quan thứ sáu của chị thì cái được gọi là "hạnh phúc" của Mai chắc cũng chỉ ở gần sát đâu đây thôi! - vừa nói Kim vừa đưa mắt nhìn vào phòng mài- quan trọng là em có mưốn chụp bắt nó hay không mà thôi.
Chắc Mai hiểu ý của Kim nên mặt chợt đỏ bừng, cấu cho Kim một cái đau điếng:
- Trêu em hoài. “Người ta” nghe chắc em độn thổ!
Kim giả vờ ngây thơ:
- Uả, người ta nào vậy cà?
Mai càng mắc cở, không biết nói sao, chỉ hứ hứ mấy tiếng. Kim cười ngất, nhưng trong lòng cảm thấy tội nghiệp cho Mai. Từng ấy tuổi đàu mà trong chuyện trai gái vẫn còn khá ngây ngô!
Tuy thích Tuấn, Mai chỉ dám thỉnh thoảng mời chàng ta chiếc bánh ngọt, hay quả cam, quả táo. Nhưng qua ánh mắt, nụ cười của nàng, Kim không thể nào nhầm lẫn được.
Trăm phần trăm là Mai đã trao trọn quả tim chân thật cuả mình cho Tuấn rồi. Nhưng khổ nổi, theo nhận xét của Kim, thì hình như anh chàng này vẫn thản nhiên xem Mai như một cô em gái.!
Theo lời Mai kể, Tuấn năm nay ba mươi. Vượt biên sang đây một mình. Chỉ còn một bà mẹ bên Việt Nam. Năm 75, cộng sản chiếm miền Nam, Tuấn hãy còn ít tuổi. Bố là sĩ quan nên cả nhà kẹt lại ở Cần Thơ. Chỉ là Đại uý thôi, nhưng cái chức trưởng chi an ninh đã khiến ông phải ra học tập tận Hoàng Liên Sơn. Những lá thư hiếm hoi ông gửi về, đã làm mẹ Tuấn khóc hết nước mắt. Thèm đủ thứ. Những ao ước rất ư là tầm thường như củ khoai, miếng đường...khiến cho những người thân đứt từng đoạn ruột!
...Vài năm sau, khi nhận được tờ giấy phép thăm nuôi, bà chạy đôn chạy đáo, chuẩn bị đủ thứ. Những thứ mà bà biết khi xưa ông rất thích. Hai mẹ con bôn ba lên tận miền rừng thiên nước độc, để được biết rằng bố Tuấn đã vĩnh viễn ra đi trước đó mười ngày vì bệnh kiết lỵ... Nổi đau khổ tột cùng làm mắt mẹ Tuấn ráo hoảnh. Bà không nhỏ được một giọt lệ cho người chồng xấu số. Nổi căm hận đã khiến bà mất hết cảm giác!...
Về lại Sàigòn, bà kiếm đường cho Tuấn đi, nhưng cậu bé nhất định không chịu xa mẹ. Đành vậy!.. Mãi đến năm 85, người chú ruột đóng thuyền vượt biên. Lần này mẹ Tuấn cố thuyết phục con đi theo. Thương mẹ, nhưng tháy tương lai quá mịt mùng, cuối cùng Tuấn cũng xiu lòng theo chú thiếm ra đi. Nhờ bố Tuấn phù hộ chăng? Thuyền đi có ba hôm là đến Mã lai...
Khổ nỗi chẳng vào cái diện nào cả, nên chàng cũng phải mốc meo trên đảo hết ba năm. Một hôm, sau giờ học Anh ngữ, trên đường về đi ngang nhà thờ, Tuấn đột nhiên có ý tưởng vào cầu xin Chúa một phen. Buổi trưa nhà thờ vắng lặng, Tuấn quì trước bàn thờ, miên man cầu nguyện. Rồi vừa thương thân phận, vừa nhớ mẹ một mình vò võ bên quê nhà, hai má đầm đìa nước mắt lúc nào không hay! Chàng cứ thổn thức...thổn thức...Bỗng giật mình, vì có bàn tay ai đó đặt nhẹ lên vai. Tuấn ngước nhìn lên, nhận ra là một vị linh mục người ngoại quốc. Cha tự giới thiệu là người Canada, tên Pierre, trong hội đoàn Phát Triển Hòa Bình Thế Giới. Hội đoàn chuyên bảo lãnh trẻ mồ côi, những người độc thân không thân nhân và thiếu điều kiện để được vào Canada. Rất may là phần lớn các cha trong Hội đoàn đều nói được tiếng Việt. Cha hỏi và Tuấn kể rõ hoàn cảnh cho người nghe...Cha tỏ ra xúc động trước hoàn cảnh của Tuấn, nên hứa sẽ cố gắng giúp đỡ. Tuấn về kể cho chú thiếm nghe, lòng tràn trề hy vọng...