Maggie
Không một ai muốn Ian Fletcher đứng lên làm chứng, kể cả tôi.
Vài ngày trước, khi tôi yêu cầu được gặp khẩn cấp thẩm phán để xin thêm ông Fletcher vào danh sách nhân chứng với tư cách chuyên gia về lịch sử tôn giáo, tôi đã nghĩ là Gordon Greenleaf sẽ nổ tung cái đầu ngay tại trận.
“Chào,” anh ta nói. “Luật 26(c)?”
Greenleaf đang nói về Luật Liên bang về Thủ tục Dân sự, nói rằng phải đệ trình danh sách các nhân chứng trước phiên tòa ba mươi ngày, trừ khi được tòa chỉ định. Tôi đã đánh bạc vào điểm này. “Thưa thẩm phán,” tôi nói, “chúng ta chỉ có hai tuần để chuẩn bị cho phiên xử này, nên cả hai chúng tôi không thể chuẩn bị danh sách nhân chứng trong phạm vi ba mươi ngày được.”
“Cô không cần phải chêm vào một chuyên gia, chỉ bởi vừa mất đi một người khác,” Greenleaf nói.
Các thẩm phán tòa án liên bang nổi tiếng là luôn cố gắng giữ cho các vụ xử án gọn gàng và đơn giản. Nếu thẩm phán Haig cho phép Fletcher làm chứng, thì nó có thể khơi mào cho cả đống lộn xộn. Greenleaf sẽ phải chuẩn bị phần thẩm vấn chéo, hoặc cũng muốn kiếm một chuyên gia khác để phản biện, và việc này sẽ gây trì hoãn phiên tòa… Mà chúng tôi đều biết việc này là không thể, bởi hạn chót đã được chốt rồi. Nhưng, chuyện điên rồ là, cha Michael đã đúng. Quyển sách của Ian Fletcher quả đúng là cái cần câu tôi cần để kéo vụ án của Shay đến chiến thắng, vậy nên nếu không thử thì thật tệ. Và thậm chí nó còn đem lại một yếu tố mà tôi đang thiếu trong vụ này, một tiền lệ lịch sử.
Tôi hoàn toàn tin chắc thẩm phán Haig sẽ cười vào mặt tôi, nếu tôi cố đưa thêm một nhân chứng mới vào phút chót, vậy mà ông chỉ nhìn chăm chăm cái tên. “Fletcher,” ông nói như thể cái từ này là đá dăm trong miệng. “Ian Fletcher?”
“Vâng, thưa ngài.”
“Có phải là người từng có một show truyền hình không?”
Tôi nín thở. “Tôi tin là vậy.”
“Khổ cho tôi rồi,” thẩm phán nói. Ông nói với một giọng mà tôi không mong muốn chút nào, nhưng lại không thể nào tránh được.
Tin tốt là tôi được phép điền thêm nhân chứng chuyên gia này vào danh sách. Tin xấu là thẩm phán Haig không thích ông ta lắm, trong khi tôi thực sự mong muốn ông xem Fletcher là một sử gia nghiêm túc và có tín nhiệm, thì trong đầu thẩm phán, nhân chứng của tôi lại là hiện thân của một tay vô thần thích lên truyền hình. Greenleaf nổi khùng vì hắn chỉ có vài ngày để tìm ra gã Fletcher này sẽ hót chuyện gì, ngài thẩm phán thì có vẻ khá hiếu kỳ về ông ta, còn tôi chỉ cầu nguyện cho toàn bộ vụ của mình đừng tan tành trong mười phút tiếp theo này.
“Cô Bloom, trước khi bắt đầu,” thẩm phán nói, “tôi có vài câu hỏi cho tiến sĩ Fletcher.”
Ông Fletcher gật đầu. “Xin mời, ngài thẩm phán.”
“Làm sao mà một người vô thần cách đây mười năm, lại thuyết phục được tòa rằng bây giờ ông ta là một chuyên gia về tôn giáo?”
“Thưa ngài,” tôi xen vào. “Tôi đang định tiến hành thể hiện tầm tín nhiệm của tiến sĩ Fletcher…”
“Tôi không hỏi cô, cô Bloom,” thẩm phán nói.
Nhưng Ian Fletcher không chút nao núng. “Ngài biết người ta nói gì không, thưa ngài. Tội nhân làm nên những vị thánh được biến đổi nhất.” Ông nhếch mép, một nụ cười chầm chậm và lười biếng khiến tôi nghĩ đến con mèo đang tắm nắng. “Tôi nghĩ tìm thấy Thiên Chúa giống như thấy ma vậy, ngài có thể vẫn hoài nghi cho đến khi mặt đối mặt với sự mà ngài nói rằng nó không tồn tại.”
“Vậy bây giờ ông là người có đạo?” thẩm phán hỏi.
“Tôi là một người tâm linh,” Fletcher chỉnh lời. “Và tôi nghĩ có sự khác biệt giữa hai chuyện này. Nhưng mang tính tâm linh thì không đủ sống, nên tôi buộc phải có bằng cấp từ Princeton và Harvard, ba quyển sách nghiên cứu bán chạy theo New York Times, bốn mươi hai bài báo đã được đăng viết về nguồn gốc của các tôn giáo trên thế giới, và được mời nói chuyện ở sáu hội đồng liên tôn giáo, bao gồm cả hội đồng cố vấn cho việc hành pháp hiện thời.”
Thẩm phán gật đầu, ghi chú lại vào giấy, và Greenleaf đành chấp nhận danh sách các điểm tín nhiệm của ông Fletcher. “Tôi cũng nên bắt đầu từ điểm mà thẩm phán Haig đã dùng,” tôi nói, và bắt đầu phần thẩm vấn trực tiếp. “Khá là hiếm có một người vô thần quan tâm đến tôn giáo. Có phải một ngày nọ, ông thức dậy và tìm thấy Chúa Jesus hay không?”
“Không phải kiểu như anh chị cứ nằm không dưới lớp nệm êm ái của ghế bành, và đùng một cái, Ngài ở đó. Tôi ngày càng chú tâm hơn về tôn giáo dưới góc nhìn lịch sử, bởi thời nay, người ta hành động như thể đức tin phát xuất từ hư không vậy. Nếu phân nhỏ tôn giáo ra, và nhìn tôn giáo thời mới được khai sinh, theo cái nhìn chính trị, kinh tế và xã hội, thì anh chị sẽ phải thay đổi cách suy nghĩ.”
“Tiến sĩ Fletcher, ông có tham dự một nhóm hay một tôn giáo nào không?”
“Tôn giáo không chỉ là có thể mang tính cá nhân, mà trong quá khứ đã là như thế rồi. Năm 1945, ở Ai Cập, người ta đã khám phá ra năm mươi hai bản văn có thể gọi là phúc âm, và chúng lại không nằm trong Kinh thánh. Một số bản văn này ghi lại những lời lẽ mà bất kỳ ai từng đi học giáo lý đều quen thuộc… và một số, thành thật mà nói, lại thực sự kỳ quái. Theo các nhà khoa học, chúng có từ thế kỷ II, sớm hơn các phúc âm trong Tân Ước khoảng từ ba mươi đến tám mươi năm. Và chúng thuộc về một nhóm gọi là Kitô hữu Ngộ đạo, một nhóm tách ra từ Kitô giáo Chính thống. Đây là những người tin rằng các khai sáng tôn giáo đích thực phải được thực hiện một cách riêng tư, là cuộc truy tìm riêng để biết mình, không phải bằng địa vị hay chuyên ngành kinh tế xã hội, mà là bằng một cốt lõi thâm sâu hơn.”
“Đợi đã,” tôi nói. “Sau khi Chúa Jesus chết, có hơn một dạng Kitô giáo hay sao?”
“Ồ, có cả tá ấy chứ.”
“Và họ có Kinh thánh riêng của mình?”
“Họ có phúc âm riêng của mình,” ông Fletcher chỉnh lại. “Tân Ước, hay nói cụ thể là các phúc âm theo Matthew, Marcos, Luca và Gioan, là những phúc âm đã được những người chính thống chọn. Còn Kitô hữu Ngộ đạo thì lại chọn các bản văn khác, chẳng hạn như Phúc âm theo Thomas, Phúc âm Sự thật, và Phúc âm của Maria Magdalena.”
“Những phúc âm này cũng nói về Chúa Jesus ư?”
“Vâng, ngoại trừ một điểm là, Chúa Jesus mà các phúc âm này mô tả không giống với Kinh thánh mà anh chị đọc. Cụ thể là, Chúa Jesus trong các phúc âm này rất khác với nhân loại mà Ngài đến để cứu độ. Nhưng Phúc âm theo Thomas, quyển yêu thích của tôi từ tập sách Nag Hammadi này, nói rằng Chúa Jesus là hướng dẫn để giúp anh chị tìm được tất cả những điểm chung giữa mình với Thiên Chúa. Vậy nên, nếu anh chị là Kitô hữu Ngộ đạo, thì anh chị sẽ kỳ vọng một con đường cứu độ khác hẳn với tất cả mọi người.”
“Như hiến tặng trái tim cho ai đó đang cần…?” “Chính xác,” Fletcher nói.
“Ồ,” tôi nói, vờ như ngơ ngác. “Làm sao những chuyện thế này không có trong các lớp giáo lý?”
“Bởi Giáo hội Kitô giáo Chính thống cảm thấy phái Ngộ đạo là mối đe dọa. Nên đã xem các phúc âm Ngộ đạo là dị giáo, và các bản văn Nag
Hammadi bị chôn kín suốt hai ngàn năm qua.”
“Cha Wright đã nói rằng Shay Bourne trích dẫn Phúc âm theo Thomas, ông có nghĩ là anh ta từng đọc các bản văn này không?”
“Có lẽ anh ta đọc quyển sách của tôi,” Fletcher nói, cười hết cỡ, và mọi người trong phòng xử cũng bật cười.
“Vậy theo ý ngài tiến sĩ, liệu một tôn giáo có thể chỉ có một tín hữu mà vẫn có giá trị hay không?”
“Một cá nhân có thể có một tôn giáo,” ông nói. “Người đó không thể có một thể chế tôn giáo. Nhưng với tôi, có vẻ như Shay Bourne đang theo một truyền thống tương tự như của các Kitô hữu Ngộ đạo từng làm cách đây gần hai ngàn năm. Anh ta không phải là người đầu tiên nói rằng mình không thể định danh cho đức tin của mình. Anh ta không phải người đầu tiên tìm thấy một con đường cứu độ khác với những con đường khác mà anh chị từng nghe. Và chắc chắn anh ta không phải là người đầu tiên không tin thân xác mình, cụ thể là muốn cho nó đi, như một cách để tìm được sự thần thiêng trong bản thân mình. Nhưng nếu như anh ta không có một nhà thờ với tháp chuông trắng trên đầu, hay một đền thờ với ngôi sao sáu cánh quanh mình, thì không có nghĩa rằng niềm tin của anh bớt giá trị.”
Tôi quá rạng rỡ vì ông ta. Fletcher nói rất dễ nghe, lại hấp dẫn, và không có vẻ gì là một gã cứng đầu khuynh tả. Tôi vui sướng nghĩ thế, cho đến khi nghe thấy thẩm phán Haig thở dài nặng nề, và nói phiên tòa tạm ngừng cho đến ngày mai.