← Quay lại trang sách

Maggie

Shay đứng lên, tay chống nạnh, trông anh cũng đầy kinh ngạc như chúng tôi vậy. Cả phòng thinh lặng không tin nổi chuyện vừa thấy, rồi ngay lập tức hỗn loạn nổ ra. Những tiếng la hét vang lên từ phía dự khán. Một viên cảnh sát kéo thẩm phán khỏi ghế và hộ tống ông đến văn phòng ngay, còn những người khác thì rút súng, hét lệnh Shay đưa tay lên. Shay đứng yên bất động, để cho cảnh sát tóm lấy và còng lại.

“Thôi ngay!” Cha Michael hét lên. “Anh ấy chẳng biết chuyện gì đang diễn ra!” Khi cảnh sát đẩy Shay chúi đầu xuống sàn gỗ, anh nhìn lên chúng tôi với đôi mắt kinh hãi.

Tôi quay người lại hỏi cha Michael. “Chuyện quái quỷ gì đang xảy ra vậy? Từ Chúa Jesus, anh ấy biến thành ảo thuật gia Houdini?”

“Đây là những việc anh ấy làm,” cha Michael nói. Tôi thấy có sự thỏa mãn trong lời của cha, không biết tôi có nhầm không nữa? “Tôi đã cố bảo cô rồi.”

“Để tôi nói cho cha nghe,” tôi phản pháo. “Shay, bạn của chúng ta, vừa kiếm một vé đi thẳng đến phòng tiêm thuốc độc, trừ phi một trong hai chúng ta thuyết phục được anh ấy nói gì đó với thẩm phán Haig để giải thích những chuyện vừa xảy ra.”

“Cô là luật sư của anh ấy,” cha Michael nói.

“Cha là cố vấn của anh ấy mà.”

“Còn nhớ tôi đã bảo với cô là Shay sẽ không nói chuyện với tôi chứ?”

Tôi chán nản, nhắm mắt lại. “Chúng ta có thể vờ như mình không phải đứa bé lên mười, và lo làm phần việc của mình thôi, được không?”

Cha Michael nhìn lảng đi, và ngay lập tức tôi biết có chuyện gì đó khiến cha không nói được nữa, và chuyện đó chẳng dễ chịu gì đâu.

Đến lúc này, phòng xử đã không còn bóng người. Tôi phải đến gặp

Shay và nhét vào đầu anh một suy nghĩ cố kết duy nhất, một suy nghĩ mà tôi nghĩ là anh có thể giữ được trong đầu đủ lâu đến khi lại bước lên bục nhân chứng. Lúc này, tôi không có thì giờ để nghe cha Michael xưng tội.

“Tôi đã ở trong bồi thẩm đoàn tuyên án Shay,” cha nói.

Từ khi tôi còn bé loắt choắt, mẹ tôi đã có một chiêu là nếu tôi nói gì đó khiến bà muốn hét lên, đánh tôi, hay cả hai, thì trước khi trả lời tôi, bà sẽ đếm đến mười, môi mấp máy không lời. Tôi có thể cảm thấy môi mình cũng đang mấy máy từng chữ số, và tôi hơi chán nản nhận ra, cuối cùng, tôi đã trở nên như mẹ mình. “Đã hết chưa?” Tôi hỏi.

“Vậy chưa đủ nữa sao?”

“Tôi chỉ muốn chắc thôi.” Tôi suy nghĩ hết tốc lực. Tôi có thể gặp rắc rối lớn vì không báo trước chuyện này cho Greenleaf. Nhưng mà, tôi đã không biết được. “Có lý do gì khiến cha chờ đợi quá lâu mới nói chuyện này?”

“Không hỏi, không nói,” cha nói đúng ngay những gì tôi nghĩ. “Lúc đầu tôi nghĩ là tôi chỉ giúp Shay hiểu được sự cứu chuộc, rồi tôi sẽ kể cho cô sự thật. Nhưng Shay lại là người dạy cho tôi về sự cứu chuộc, rồi cô nói rằng lời chứng của tôi là vô cùng hệ trọng, và tôi nghĩ là tốt hơn không nên để cô biết. Tôi nghĩ nó sẽ phá hỏng phiên tòa này…”

Tôi đưa tay lên, ngăn không cho cha nói nữa. “Cha có ủng hộ chuyện đó không?” Tôi hỏi. “Án tử hình?”

Vị linh mục ngập ngừng, rồi nói. “Đã từng.”

Tôi phải nói chuyện này cho Greenleaf. Ngay cả khi lời chứng của cha Michael bị loại khỏi hồ sơ, bạn cũng không thể khiến thẩm phán quên đi những lời đã nghe được, nó đã có giá trị rồi. Tuy nhiên, ngay lúc này, tôi có chuyện quan trọng hơn phải làm. “Tôi phải đi đây.”

Trong buồng giam tạm, Shay vẫn còn quẫn trí, mắt nheo lại. “Shay?” Tôi nói. “Maggie đây. Nhìn tôi này.”

“Tôi không thể,” anh hét lên. “Bớt ồn ào đi.”

Bỗng nhiên gian phòng trở nên thinh lặng, không có tiếng radio, không có một tiếng động nào. Tôi liếc nhìn viên cảnh sát, ông chỉ nhún vai. “Shay,” tôi tiến sát song sắt buồng giam, nói như ra lệnh. “Mở đôi mắt chết tiệt của anh ra.”

Một mắt mở ra, rồi đến mắt kia.

“Cho tôi biết anh làm thế nào vậy.”

“Làm cái gì?”

“Màn ảo thuật nhỏ đó.”

Anh lắc đầu. “Tôi chẳng làm gì cả.”

“Anh đã tìm được cách để thoát khỏi còng,” tôi nói. “Anh đã làm gì, làm một chìa khóa và giấu nó trong chỉ áo?”

“Tôi không có chìa khóa. Tôi không mở khóa.”

Vâng, đúng thật là thế. Những gì tôi nhìn thấy là những chiếc còng vẫn còn khóa chặt, rơi xuống nền nhà, còn tay của Shay không hiểu sao lại được tự do. Chắc chắn anh phải có khả năng mở còng rồi khóa chúng lại, nhưng như thế sẽ gây nhiều tiếng động, và tất cả chúng tôi hẳn phải nghe thấy chứ.

Nhưng chúng tôi đã chẳng nghe gì.

“Tôi chẳng làm gì cả.” Shay lặp lại.

Tôi đã đọc đâu đó, chuyện các ảo thuật gia học cách làm trật khớp vai của mình để thoát khỏi áo trói, và có lẽ đây là bí mật của Shay. Có lẽ anh có thể rút ngón tay cái, hay bẻ xương ngón tay để tuột ra khỏi cái cùm kim loại mà không một ai biết. “Được rồi. Sao cũng được.” Tôi thở dài. “Chuyện là thế này, Shay à. Tôi không biết anh có phải là ảo thuật gia, hay đấng thiên sai. Tôi không biết nhiều về ơn cứu độ, phép lạ, hay bất kỳ chuyện gì mà cha Michael và Ian Fletcher đã nói. Tôi còn không biết mình tin có Chúa hay không? Nhưng tôi biết về luật. Và ngay bây giờ, tất cả mọi người trong phòng xử án nghĩ rằng anh là một tên điên khùng mê sảng. Anh phải xốc lại đi.” Tôi nhìn qua Shay và thấy anh đang nhìn tôi bằng ánh mắt tập trung cao độ, đôi mắt anh thông suốt và sắc sảo. “Anh có một cơ hội,” tôi nói thật chậm. “Một cơ hội để nói với người sẽ quyết định xem anh sẽ chết như thế nào, và liệu Claire Nealon có được sống hay không. Vậy anh sẽ nói với ông ta gì nào?”

Có lần, khi học lớp sáu, tôi đã để cho cô gái nổi tiếng nhất trường quay trộm bài kiểm tra toán của mình. Sau đó, cô ta nói, “Mày biết không, mày cũng không hoàn toàn đáng chán.” Cô ta cho tôi ngồi chung bàn ăn trưa, và vào một ngày thứ bảy huy hoàng, tôi được mời đến trung tâm mua sắm cùng với hội bạn của cô ta. Cả bọn xịt nước hoa trong quầy lên cổ tay, và thử những chiếc quần jeans ôm mắc tiền mà tôi chẳng bao giờ chui vào nổi. (Tôi đã viện cớ là đang trong kỳ kinh, và không đi mua quần jeans khi tôi đang phù lên, hoàn toàn là nói dối, vậy mà một đứa trong bọn còn chỉ cho tôi phải tắm thế nào để giảm được năm cân.) Và khi đi vào quầy mỹ phẩm Clinique dù không có ý định mua đồ trang điểm nào, tôi nhìn vào gương và nhận ra rằng tôi không giống như cô gái thuở nào. Để trở thành con người mà họ muốn, tôi đã đánh mất chính mình.

Nhìn Shay bước lên bục làm chứng, tôi lại nghĩ đến câu chuyện hồi lớp sáu đó, lúc mà tôi, dù trong phút chốc, đã hòa vào trong đám đông, trở nên thông thường. Phía những người dự khán, không khí thật im lặng. Họ đang chờ một vụ nổ nữa đây, nhưng Shay rất nhẹ nhàng, điềm tĩnh, và im lặng. Anh bị còng đủ bộ, và phải tập tễnh đi về phía bục nhân chứng. Anh đứng đó, không nhìn ai hết, chỉ đợi tôi đặt ra cho anh những câu hỏi mà chúng tôi đã tập trước. Tôi tự hỏi liệu tạo cho Shay hình ảnh của một nguyên đơn sẽ thắng kiện, là để thể hiện cho anh, hay là cho tôi đây.

“Shay,” tôi nói. “Anh muốn nói gì với tòa?”

Shay nhìn lên trần, như thể đang đợi từng chữ rơi xuống vậy. “Thần Khí Thiên Chúa ngự trên tôi, bởi Ngài đã xức dầu cho tôi để tôi đi loan báo Tin mừng cho người nghèo,” anh nói nhẹ nhàng.

“Amen,” một bà bên phía dự khán đáp ngay.

Thành thật mà nói, đây không phải là điều tôi nghĩ đến khi bảo Shay phải có một nỗ lực cuối cùng để chinh phục phiên tòa này. Với tôi, các đoạn kinh thánh nghe thật khùng khùng máu lửa, hệt như lời chỉ trích kịch liệt của Shay đối với bản chất của tôn giáo có tổ chức. Nhưng có lẽ Shay thông minh hơn tôi, bởi câu trích của anh đã khiến thẩm phán mở lời. “Anh Bourne, câu đó từ Kinh thánh sao?”

“Tôi không biết,” Shay trả lời. “Tôi không nhớ là ở đâu nữa.”

Một máy bay giấy nhỏ xíu lượn qua vai rồi đậu xuống chân tôi. Tôi mở ra và đọc thấy lời nhắn viết vội của cha Michael. “Đúng vậy, thưa thẩm phán,” tôi nói nhanh. “Đúng là thế.”

“Đưa cho tôi quyển Kinh thánh,” thẩm phán Haig bảo. Ông bắt đầu đưa ngón tay qua những trang giấy mỏng tanh. “Cô có biết đoạn đó ở đâu không, cô Bloom?”

Lâu nay tôi chẳng biết, và lúc Shay Bourne nói, tôi cũng chưa biết. Theo tôi, câu này chắc là của một linh mục, cũng có thể là của Chúa, hay có thể là một câu trong Cựu Ước. Nhưng, Shay đã khiến thẩm phán Haig phải tò mò. Ông không còn thẳng thừng làm ngơ thân chủ của tôi, thay vào đó lại đang lần dò từng trang Kinh thánh như thể đó là quyển sách ký tự nổi vậy.

Tôi đứng lên, nói lại lời nhắc của cha Michael. “Là trong sách Isaiah, thưa ngài,” tôi nói.

Trong giờ tạm nghỉ ăn trưa, tôi lái xe về văn phòng. Dù cho đúng là tôi còn đến mười sáu vụ nữa cần tiến hành, nhưng sếp đã cho phép tôi xếp chúng vào một góc. Nên tôi ghé qua đây, không phải bởi đạo đức nghề nghiệp tuyệt đối của mình đâu, mà là bởi tôi cần phải tạm thời rũ bỏ hoàn toàn phiên tòa ra khỏi đầu. Thư ký ở văn phòng Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ chớp mắt khi tôi bước qua cánh cửa. “Chẳng phải cô ở…”

“Đúng,” tôi nói nhanh, và đi qua đống ma trận tủ hồ sơ về phía bàn làm việc của mình.

Tôi không biết những lời buột miệng của Shay sẽ tác động thế nào đến ngài thẩm phán. Tôi cũng không biết mình đã xem như thua vụ này hay chưa, bởi bên bị đơn vẫn chưa đưa ra nhân chứng của họ. Tôi biết là ba tuần này, tôi đã không ngủ cho đủ, hết sạch đồ ăn cho Oliver, và tóc tai thật quá tệ. Tôi lấy tay vuốt mặt, rồi nhận ra mình vừa làm hỏng mất lớp mascara.

Tôi thở dài nhìn núi giấy tờ trên bàn mình vốn đang ngày một dày lên khi vắng đi cô quét dọn là tôi đây.

Có một đơn kháng án được các luật sư nộp lên Tòa án tối cao thay cho một gã đầu trọc đã viết những lời lẽ phân biệt chủng tộc lên tấm bảng ở lối vào nhà của ông chủ cũ, một chủ tiệm người Pakistan đã sa thải hắn vì uống rượu trong giờ làm việc. Một vài nghiên cứu về lý do vì sao những từ như “dưới quyền Chúa” được đưa vào Lời Tuyên thệ Trung thành năm 1954 dưới thời McCarthy. Một đống thư của những con người tuyệt vọng muốn tôi chiến đấu cho họ, và cũng một lượng như thế là thư của những người bảo thủ cánh hữu mắng nhiếc Liên hiệp Tự do Dân sự Mỹ vì đã biến Kitô hữu da trắng đi nhà thờ trở nên như những tội phạm.

Một lá thư tuột khỏi tay tôi, rơi xuống đùi. Một lá thư đơn giản in địa chỉ của Nhà tù Tiểu bang New Hampshire, Văn phòng Giám đốc Nhà tù. Tôi mở ra và thấy bên trong một tấm giấy hoa.

Đây là lời mời đến dự buổi hành hình Isaiah Bourne. Danh sách người được mời, bao gồm tổng chưởng lý, thống đốc, luật sư công tố vụ án của Shay, tôi, cha Michael và vài cái tên khác mà tôi không biết. Theo luật, phải có một con số nhất định người hiện diện trong buổi hành hình, cả về phía phạm nhân lẫn nạn nhân. Như thế, có vẻ giống như tổ chức đám cưới ấy. Và cũng như thiệp cưới, trên giấy mời này cũng có số điện thoại để phúc đáp.

Còn mười lăm ngày nữa là đến ngày chết đã được lên lịch của Shay.

Rõ ràng, tôi là người duy nhất thấy thật tức cười khi bên bị đơn chỉ gọi một nhân chứng duy nhất, là ủy viên cải huấn, tên Joe Lynch. Người đàn ông này cao gầy, và có vẻ óc hài hước cũng nối gót đi theo đám tóc trên đầu rồi. Tôi khá chắc là khi nhận công việc này, ông ta chẳng bao giờ mơ thấy một ngày mình phải đối diện với vụ hành hình đầu tiên của New Hampshire trong nửa thế kỷ.

“Ủy viên Lynch,” phó chưởng lý Greenleaf bắt đầu mở lời, “việc chuẩn bị cho buổi hành hình Shay Bourne như thế nào rồi?”

“Như ông biết,” Lynch nói, “Tiểu bang New Hampshire không được trang bị sẵn cho việc thi hành án tử hình đối với phạm nhân Bourne. Chúng tôi hi vọng là có thể làm việc này ở Terre Haute, nhưng hóa ra lại không thể được. Do đó, chúng tôi đã xây một phòng tiêm thuốc độc, ở một góc hợp

lý vốn từng là sân tập thể dục của nhà tù tiểu bang.”

“Ông có thể cho chúng tôi biết chi phí của việc này được không?”

Ông ủy viên bắt đầu lấy giấy ra đọc. “Phí thiết kế và xây dựng cho dự án là $39.100. Một súng tiêm thuốc độc tiêu tốn $830. Các dụng cụ liên quan đến việc tiêm thuốc độc tiêu tốn $684. Hơn nữa, chi phí nhân sự bao gồm gặp gỡ với nhân viên, đào tạo nhân viên, và dự phiên tòa, tổng cộng là $48.846. Các chi phí căn bản là $1.361, và hóa chất tiêu tốn $426. Hơn nữa, đã có một sửa đổi lớn cho phạm vi không gian nơi diễn ra việc hành hình, bao gồm màn dựng đứng ở khu vực người làm chứng, một công tắc đèn mờ trong phòng xử tử, tấm gương một chiều có màu như gạch, điều hòa và thang máy khẩn cấp, một micro không dây và một bộ âm thanh, một tai nghe. Những khoản này tiêu tốn $14.669.”

“Ủy viên, anh đã ghi ra bài toán rồi đấy. Theo tính toán của anh, ước tính đến nay, anh đã chi bao nhiêu cho việc hành hình Shay Bourne?”

“$105.916.”

“Ủy viên,” Greenleaf hỏi, “liệu tiểu bang New Hampshire có một giá treo cổ có thể dùng được nếu như tòa án ra phán quyết là Bourne sẽ được treo cổ?”

“Không có,” Lynch trả lời.

“Giả sử cần phải xây dựng một giá treo cổ mới, thì sẽ cần chi tiêu thêm từ tiền thuế của người dân New Hampshire, như thế có đúng không?”

“Đúng là thế.”

“Cụ thể cần gì để xây một giá treo cổ?”

Ông ủy viên gật đầu. “Một tầng cao ít nhất là chín bước, một dầm ngang chín bước, với một khe hở ba bước trên đầu phạm nhân bị hành hình. Khoảng mở của cửa sập phải rộng ít nhất ba bước để bảo đảm độ thông thoáng, cần có dụng cụ để mở cửa sập và ngăn không để nó lắc ra sau khi đã mở, và một bộ móc sợi dây thòng lọng.”

Trong vài câu ngắn gọn, Gordon Greenleaf đã hướng trọng tâm phiên tòa từ những chuyện tự do tôn giáo rối bòng bong, đến cái chết không thể tránh khỏi sắp xảy đến của Shay. Tôi liếc về phía Shay. Anh trắng bệch như tờ giấy.

“Cần không dưới $750 cho chi phí xây dựng và vật liệu,” ông ủy viên nói tiếp. Hơn nữa, phải có chi phí cho ngăn giữ thân thể.” “Chính xác là gì vậy?” Greenleaf hỏi.

“Một áo thắt ngang hông kèm tay áo trói được làm bằng nhựa PT-3000, và một cái giữ cẳng chân cũng làm bằng vật liệu như vậy. Chúng tôi cần một cái khung, về căn bản là một cái giàn để cho các quản giáo có thể chuyển phạm nhân lên giá treo cổ trong điều kiện phạm nhân suy sụp sức khỏe. Còn cần một mũ trùm đầu, và nút thắt treo cổ cơ học nữa.”

“Các ông không thể dùng dây thừng được à?”

“Không được, nếu như muốn đây là một việc hành hình có nhân văn,” ông ủy viên nói. “Nút thắt này được làm từ một xi-lanh Delran, với hai lỗ theo chiều dọc, và một ngàm thép hình chữ U để thắt chặt sợi dây, cũng như thòng lọng ngoài, một sợi thừng dài ba mươi bộ, với nút thắt được bôi trơn…”

Ngay cả tôi cũng phải ấn tượng về thời gian và suy nghĩ người ta đã dành cho cái chết của Shay Bourne. “Ông đã cho chúng tôi một bài nghiên cứu thật hữu ích,” Greenleaf nói.

Ông Lynch nhún vai. “Chẳng ai muốn hành hình một con người. Công việc của tôi là làm chuyện này sao cho có phẩm giá nhất có thể.”

“Ủy viên Lynch, chi phí cho việc xây dựng và mua tất cả các trang thiết bị này là bao nhiêu?”

“Gần $10.000.”

“Và ông đã nói rằng Tiểu bang New Hampshire đã đầu tư hơn $100.000 cho việc hành hình Shay Bourne.”

“Đúng là thế.”

“Có phải sẽ là gánh nặng cho hệ thống cải huấn, nếu như ông buộc phải xây một giá treo cổ vào lúc này, để đáp ứng cái gọi là sở thích tôn giáo của anh Bourne?”

Ông ủy viên thở dài nặng nề. “Còn hơn là gánh nặng. Với ngày hành hình đã định, điều này gần như là không thể.”

“Tại sao?”

“Luật nói rằng chúng tôi phải hành hình anh Bourne bằng cách tiêm thuốc độc, và sau nhiều công tác chuẩn bị, chúng tôi đã sẵn sàng và có thể làm được việc đó. Cả về mặt cá nhân lẫn nghiệp vụ, tôi không thể nào thấy thoải mái khi phải chụp giật xây một giá treo cổ ngay phút chót.”

“Maggie,” Shay thì thầm, “tôi nghĩ là mình sắp nôn rồi.”

Tôi lắc đầu. “Nuốt nó xuống đi.”

Anh gục mặt trên bàn. Và nếu may mắn, một vài người biết đồng cảm sẽ cho là anh đang khóc.

“Nếu như tòa lệnh cho ông phải xây một giá treo cổ,” Greenleaf hỏi, “thì việc hành hình Bourne sẽ phải trì hoãn bao lâu?”

“Tôi cho là sáu tháng đến một năm.”

“Trọn một năm phạm nhân Bourne sẽ sống quá ngày hành hình đã định ư?”

“Đúng.”

“Tại sao lại lâu như vậy?”

“Chúng ta đang nói đến một công trình bên trong một hệ thống cải huấn đang hoạt động, ông Greenleaf à. Cần phải kiểm tra nhân thân trước khi cho nhân công vào làm việc trong nhà tù. Họ đem dụng cụ từ bên ngoài vào, những thứ có thể là mối đe dọa cho an ninh, nên chúng tôi phải có các quản giáo đứng gác để bảo đảm họ không đi lang thang vào những khu vực không an toàn, chúng tôi phải bảo đảm họ không cố tuồn hàng lậu cho các phạm nhân. Sẽ là một gánh nặng thật sự cho hệ thống cải huấn, nếu như

chúng ta phải làm thế, vâng, đúng là bắt đầu từ con số không.”

“Cảm ơn, ông ủy viên,” Greenleaf nói. “Tôi không cần gì thêm.”

Đến lượt mình, tôi đứng dậy và bước đến ông ủy viên. “Theo ông, ước tính chi phí để xây giá treo cổ là khoảng $10.000?”

“Đúng.”

“Vậy thật sự là, chi phí để treo cổ Shay Bourne chỉ là một phần mười chi phí hành hình bằng tiêm thuốc độc.”

“Thực ra,” ông ủy viên nói, “sẽ là toàn bộ chi phí cộng thêm 10% đó. Anh không thể đặt hàng phòng tiêm thuốc độc kiểu online kèm theo điều kiện hoàn trả lại tiền nếu không dùng. Cô Bloom à, tôi không thể trả lại những gì chúng tôi đã xây.”

“Vâng, dù gì ông cũng phải xây cái phòng đó phải không nào?”

“Không, nếu như phạm nhân Bourne không được chỉ định hành hình theo cách đó.”

“Tuy nhiên, Bộ Cải huấn không có phòng tiêm thuốc độc sẵn dùng cho bất kỳ phạm nhân chịu án tử hình nào.”

“Cô Bloom,” ông ủy viên nói, “New Hampshire không có bất kỳ tử tù nào khác.”

Tôi không thể nào lập luận rằng trong tương lai có thể sẽ có một vài tử tù nữa. Chẳng ai lại vui vẻ với ý nghĩ này. “Vậy hành hình Shay Bourne bằng cách treo cổ có ảnh hưởng đến sự an toàn của các phạm nhân khác trong tù hay không?”

“Không. Trong tiến trình thực tế là không.”

“Nó có ảnh hưởng đến sự an toàn của các quản giáo ở đó hay không?” “Không.”

“Và về mặt nhân sự, treo cổ một người thực sự sẽ cần ít nhân lực hơn là hành hình bằng cách tiêm thuốc độc, có phải không?” “Đúng,” ông ủy viên nói.

“Vậy thì không có vấn đề gì về an ninh khi thay đổi phương thức hành hình Shay. Không ảnh hưởng đến nhân viên, cũng như phạm nhân. Như ông đã chỉ ra, gánh nặng duy nhất đối với Bộ cải huấn, là chi phí dưới $10.000 để xây một giá treo cổ. Mười ngàn đô đau đầu nhức óc đấy. Có phải không, ông ủy viên?”

Thẩm phán nhìn thẳng vào mắt của ông ủy viên. “Bên các anh có ngân sách cho chừng này không?”

“Tôi không biết,” Lynch nói. “Ngân sách luôn sít sao.”

“Thưa ngài, tôi có ở đây bản sao thống kê ngân sách của Bộ Cải huấn, và muốn đưa vào làm bằng chứng.” Tôi đưa một bản cho Greenleaf, thẩm phán Haig, và cuối là ủy viên Lynch, “ủy viên, trông có quen không vậy?”

“Có.”

“Ông có thể đọc cho tôi nghe dòng chữ được bôi màu nổi không?”

Lynch chỉnh lại gọng kính trên mũi. “Dự trữ cho án tử hình,” ông đọc. “Chín ngàn tám trăm tám mươi đô.”

“Dự trữ nghĩa là gì?”

“Cho hóa chất,” ông ủy viên nói. “Và cho bất kỳ chuyện phát sinh nào.”

Tôi chắc chắn ý ông ta là những khoản chi quấy quá từ ngân sách đấy.

“Theo lời chứng của ông, hóa chất chỉ tốn $426.”

“Chúng tôi không biết sẽ còn xảy ra chuyện gì nữa,” ông Lynch nói. “Chốt chặn cảnh sát, chỉ dẫn giao thông, hỗ trợ y tế, tăng cường nhân sự… đây là cuộc hành hình đầu tiên của chúng ta trong gần bảy mươi năm. Chúng tôi lên ngân sách rất kỹ lưỡng, để không bị thiếu hụt khi có việc xảy đến.”

“Nếu số tiền này dù gì cùng dùng cho việc hành hình Shay Bourne, thì có thực sự thành vấn đề, nếu dùng nó để mua Sodium Pentothal… hay để xây một giá treo cổ?”

“À,” Lynch lắp bắp. “Nó vẫn chưa đủ mười ngàn đô.”

“Không đủ.” Tôi nhìn nhận, “ông còn thiếu một trăm hai mươi đô nữa.

Nói tôi nghe… Chừng đó đáng giá một linh hồn con người hay sao?”