← Quay lại trang sách

Chương 2

Đồng hồ báo thức gọi Jo thức dậy lúc bốn giờ, giờ bình thường vào những ngày cô phải di chuyển một quãng đường xa để đến khu thực địa. Dưới ánh sáng của ngọn đèn nhỏ, cô mặc áo thun rồi khoác một chiếc sơ mi ra bên ngoài, mang quần túi hộp và đôi bốt. Đến tận lúc bật ngọn đèn huỳnh quang ở bếp lên, cô mới nhớ ra bé gái kia. Thật khó tin bởi lúc mới đi nằm, cô trằn trọc suốt nửa tiếng và chẳng thể nghĩ gì khác ngoài cô bé đó. Cô nhìn ra cửa sau, chỗ mấy cái ghế xếp quanh bếp lò. Cô bật đèn ngoài hiên trước và bước ra phần hiên được ngăn cách với bên ngoài bằng cửa sổ. Không thấy con bé đâu. Chắc nó về nhà rồi.

Trong lúc đợi yến mạch chín, Jo làm bánh mì kẹp cá ngừ, đoạn bỏ vào hộp cùng ngũ cốc hỗn hợp để ăn vặt và một chai nước. Chừng hai mươi phút sau, cô ra khỏi nhà và đến khu thực địa lúc bình minh. Tranh thủ lúc khí trời tinh mơ còn mát mẻ, cô tìm tổ chim sẻ đất màu chàm dọc Đường Nhà Thờ, khu vực ít bóng râm nhất trong chín khu thực địa. Sau vài tiếng, cô chuyển sang khu Nông Trại Jory rồi tiếp đến là Đường Cave Hollow.

Chừng năm giờ thì cô xong việc, sớm hơn bình thường. Hai năm nay, kể từ lúc mẹ cô bị chẩn đoán ung thư và qua đời, mất ngủ đã trở thành một phần trong cuộc sống thường nhật của cô, nhưng chẳng hiểu vì lý do gì mà suốt ba đêm liên tục, cô trằn trọc hơn hẳn bình thường. Hôm nay cô muốn lên giường trước chín giờ để ngủ bù. Trước khi về nhà, cô tạt qua một sạp hàng nông phẩm, rồi mới rẽ đến Đường Turkey Creek. Lúc đó, Anh Bán Trứng, một chàng trai trẻ râu ria xồm xoàm, vẫn còn ngồi dưới cây dù xanh ở ngã tư giao với cao tốc của hạt [6] . Thỉnh thoảng, vào những ngày không làm việc do thời tiết mưa gió, Jo để ý rằng anh chàng này duy trì rất đều, cứ tối thứ Hai và sáng thứ Năm là anh lại đến đây bán trứng.

Anh Bán Trứng gật đầu chào khi Jo vòng qua khúc quanh. Cô vẫy tay lại và thầm ước giá mà mình cần trứng để giúp anh bán thêm được chút hàng, nhưng cô vẫn còn ít nhất bốn quả trong tủ lạnh.

Đường Turkey Creek là một con đường cụt trải sỏi dài năm dặm, kết thúc ở con suối và khu đất Nhà Kinney. Để chạy hết con đường này cũng tốn kha khá thời gian, nhất là khi chạy bằng xe SUV. Đi được chừng một dặm thì con đường hẹp lại, quanh co, đầy ổ gà, hằn theo vết xe chạy về phía cuối đường, ở một số vị trí bị suối xói mòn trong mưa lớn, dốc rất cao. Chạy về nhà trên con đường này là khoảng thời gian ưa thích trong ngày của Jo. Cô chẳng bao giờ ngờ được thứ gì sẽ xuất hiện ở khúc quanh tiếp theo: một con gà tây, một đám chim cút hay thậm chí là một con linh miêu đuôi cộc. Đoạn cuối con đường sẽ mở ra một khung cảnh nên thơ của nhánh sông, nước trong vắt và mấp mô đá. Và chỉ cần rẽ trái, Jo sẽ được trở về căn nhà gỗ xưa cũ trên ngọn đồi.

Nhưng lúc rẽ vào con đường trong khu đất Nhà Kinney, thứ cô nhìn thấy từ lối đi bộ quanh nhà không phải thiên nhiên hoang dã mà là cô bé ngoài hành tinh đến từ chòm Đại Hùng và chú chó Tiểu Hùng của nó. Đứa bé vẫn mặc cùng một bộ đồ ngủ từ đêm qua, và vẫn đi chân trần. Jo dừng lại, nhảy ra khỏi xe mà không buồn về số. “Sao con lại ở đây?”

“Con đã kể với cô,” cô bé giải thích, “con đến từ…”

“Con phải về nhà đi chứ!”

“Thì con sẽ về mà! Con hứa con sẽ về sau khi được thấy năm điều kỳ diệu.”

Jo lôi điện thoại từ trong túi quần ra. “Cô xin lỗi… Cô phải gọi cảnh sát thôi.”

“Cô mà gọi là con sẽ chạy đi ngay đấy. Con sẽ đi tìm nhà khác.”

“Con không được làm vậy! Ngoài kia có rất nhiều người kỳ cục. Và cả người xấu nữa…”

Đứa bé khoanh tay trước ngực. “Vậy thì cô đừng gọi cảnh sát!”

Lời khuyên bổ ích đấy. Được rồi, mình sẽ không gọi trước mặt nó. Jo cất điện thoại đi. “Con có đói không?”

“Cũng hơi hơi ạ,” đứa bé thành thật.

Có lẽ, nó chưa được ăn thêm chút gì từ sau bữa tối bên bếp lửa nhà cô. “Con có thích trứng không?”

“Con nghe đồn món trứng bác ngon lắm.”

“Có một người bán trứng ở đường dưới. Để cô đi mua vài quả.”

Cô bé nhìn Jo tiến về phía chiếc xe. “Nếu cô nói dối và đem cảnh sát tới, con sẽ chạy đi ngay lập tức.”

Ánh nhìn tuyệt vọng trong đôi mắt đứa bé khiến Jo cảm thấy bất an. Cô đánh xe vòng lên Đường Turkey Creek. Chạy khỏi nhà được chừng một dặm, cô dừng lại ở ngọn đồi có thể bắt được sóng và gọi tổng đài để xin số điện thoại cảnh sát trưởng báo trường hợp không khẩn cấp. Sau ba cuộc gọi bất thành, cô cất điện thoại vào hộp đựng vật dụng trên xe ô tô. Cô nảy ra một ý tưởng hay hơn.

Cô đến con đường ngoài vừa kịp lúc. Anh Bán Trứng vừa dẹp cây dù với tấm biển TRỨNG SẠCH của mình, nhưng chưa cất bàn và ba thùng trứng chưa bán hết vẫn đang để trên ghế. Jo dừng xe ở bãi cỏ bên vệ đường và chộp lấy ví tiền rồi bước khỏi xe. Cô chưa bao giờ thấy cả người anh, bởi những lần mua trứng trước giờ, anh luôn ngồi sau bàn. Anh cao chừng một mét tám, cơ thể vạm vỡ do công việc nặng nhọc hằng ngày, cô thích kiểu người có sức mạnh cân đối này hơn so với việc vai u thịt bắp nhờ nâng tạ.

Anh quay đầu lại, mỉm cười với cô và giao tiếp bằng mắt nhiều hơn bình thường. “Bỗng dưng cô muốn ăn ốp lết à?” Anh hỏi, để ý thấy cô cầm ví trên tay.

“Cũng mong là vậy,” cô đáp, “nhưng tiếc là tôi không có phô mai. Nên đành phải ăn trứng bác thôi.”

“Đúng, không có phô mai thì không phải ốp lết thực thụ.”

Cô đã đến đây được năm tuần, mua trứng từ chỗ anh ba lần, nhưng chưa bao giờ thấy anh nói chuyện với cô nhiều như vậy. Cách anh bán hàng thường là một cái gật đầu, rồi chìa bàn tay chai sần của mình ra nhận tiền của cô, nói Cảm ơn quý khách khi cô bảo anh cứ giữ tiền thối. Anh Bán Trứng là một điều bí ẩn với cô. Cô cứ ngỡ một anh chàng bán trứng bên vệ đường sẽ hơi chậm chạp, nhưng đôi mắt anh, đặc điểm duy nhất nổi bật trên khuôn mặt râu ria xồm xoàm kia, lại sắc như mảnh thủy tinh xanh bị vỡ. Anh còn trẻ, chắc tầm tuổi của cô, thế nên cô chẳng hiểu tại sao một thanh niên sức dài vai rộng như anh lại ngồi bán trứng bên vệ đường giữa vùng đồng không mông quạnh này.

Anh Bán Trứng để bàn gấp xuống cỏ và đứng đối diện cô. “Cô mua một tá hay nửa tá?”

Jo không nghe thấy chút lè nhè đặc trưng nào của người miền Nam Illinois trong giọng nói của anh. “Một tá,” cô trả lời, đưa anh tờ năm đô trong ví.

Anh đưa cho cô một vỉ trứng rồi nhận tiền.

“Tiền thừa anh cứ giữ lấy,” cô nói.

“Cảm ơn quý khách,” anh đáp lại, nhét tờ tiền vào túi. Rồi anh mang chiếc bàn ra chiếc xe tải trắng đã cũ.

Jo đi theo. “Tôi hỏi anh điều này được không?”

Anh đặt bàn lên thùng xe đang mở rồi quay về phía cô. “Cô cứ hỏi.”

“Tôi có chút vấn đề…”

Mắt anh ánh lên, ẩn chứa sự hiếu kỳ nhiều hơn là lo lắng.

“Anh sống trên đường này phải không?”

“Phải,” anh đáp. “Thực ra, tôi sống trên khu đất ngay bên cạnh khu đất của Nhà Kinney.”

“Ô, thế mà tôi không biết đấy.”

“Thế cô hàng xóm gặp chuyện gì vậy?”

“Tôi đoán có lẽ anh sẽ biết hết những người sống trên đường này, chắc anh cũng bán trứng cho họ đúng không?”

Anh gật đầu.

“Đêm qua, có một cô bé xuất hiện trên khu đất của tôi. Anh có nghe tin con cái nhà ai bỏ nhà đi không?”

“Tôi không.”

“Cô bé đó tầm chín tuổi, thanh mảnh, mái tóc dài màu vàng sậm, đôi mắt to màu nâu… Khuôn mặt trái xoan xinh xắn, ưa nhìn, khi cười sẽ thấy một má có lúm đồng tiền. Anh có thấy quen không?”

“Không.”

“Tôi dám chắc con bé sống đâu đó gần đây. Nó đi chân đất và mặc quần ngủ.”

“Vậy cô bảo nó về nhà đi.”

“Tôi bảo rồi nhưng con bé nhất quyết không chịu. Tôi nghĩ hình như nó sợ nên mới không dám về. Cả ngày trời nó không có gì bỏ bụng.”

“Thế thì cô gọi cảnh sát sẽ tốt hơn.”

“Con bé dọa sẽ chạy trốn ngay lập tức nếu tôi làm vậy. Nó kể tôi nghe câu chuyện hoang đường về việc nó đến từ một hành tinh khác và đang mượn xác của một đứa bé đã qua đời.”

Anh Bán Trứng nhướn mày.

“Ừ, nghe điên nhỉ? Nhưng tôi không nghĩ con bé bị điên đâu. Nó thông minh lắm…”

“Có rất nhiều kẻ điên thông minh đấy.”

“Nhưng con bé hành động theo kiểu nó biết rõ mình đang làm gì.”

Đôi mắt xanh như ngọc của anh sắc lên. “Chứ phàm là người mắc bệnh thần kinh thì không biết rõ mình đang làm gì hay sao?”

“Điều tôi muốn nói đại loại là thế đấy.”

“Là gì cơ?”

“Nếu con bé đủ thông minh để biết mình đang làm gì thì sao?”

“Ý cô là?”

“Nó biết nếu về nhà bản thân sẽ không được an toàn.”

“Con bé mới có chín tuổi thôi. Nó phải về nhà.” Anh mở cửa bên ghế khách và đặt hai thùng trứng còn dư lên sàn xe.

“Nhỡ tôi gọi cảnh sát xong, con bé thấy họ ập đến bèn bỏ chạy thì ai biết điều gì sẽ xảy ra với nó?”

“Vậy thì cô hãy lén đừng để nó biết.”

“Bằng cách nào chứ? Có khi họ còn chưa kịp ra khỏi xe thì con bé đã chạy biến vào rừng rồi.”

Anh Bán Trứng không biết khuyên gì thêm.

“Khốn thật, tôi chẳng muốn dính dáng vào chuyện này chút nào!”

Anh chăm chú nhìn cô đầy thông cảm, cánh tay để hờ trên cánh cửa xe đang mở. “Nhìn cô thì biết chắc hôm nay cô đã có một ngày dài phải không?”

Cô nhìn xuống bộ quần áo và đôi bốt lấm lem bùn đất của mình. “Phải, và nó càng ngày càng dài hơn mức tôi có thể chấp nhận được.”

“Hay để tôi qua nhà cô xem tôi có biết cô bé ấy không nhé?”

“Thế có được không?”

“Tôi không dám chắc có ăn thua gì không.”

Jo đưa cho anh vỉ trứng mà nãy anh đưa cho cô. “Lúc qua, anh mang chúng tới nhé. Tôi sẽ nói anh đã bán hết trứng nên phải về nhà lấy thêm. Nếu không, anh sẽ làm con bé hoảng sợ đấy.”

“Cô nhóc này cũng hành cô lên bờ xuống ruộng đấy nhỉ?”

Nghĩ lại thì quả đúng là thế. Rốt cuộc thì cô bé ấy đang gặp chuyện gì đây?

Anh đặt vỉ trứng lên sàn xe cạnh hai thùng ban nãy. “Cô nghiên cứu gì thế?”

Không nghĩ Anh Bán Trứng lại hỏi han gì về bản thân mình, nên cô ngẩn tò te mất vài giây.

“Mùa hè năm ngoái có một nhóm sinh viên đến nghiên cứu cá ở khu đất Nhà Kinney,” anh kể. “Mùa hè trước nữa là chuồn chuồn và cây cối.”

“Tôi nghiên cứu các loài chim,” Jo giới thiệu.

“Loại gì?”

“Tôi đang tìm tổ chim sẻ đất màu chàm đã nở.”

“Ở đây thì đầy ra ấy mà.”

Cô rất bất ngờ khi anh biết đến loài chim này. Rất nhiều người không phân biệt được sẻ đất với loài chim hồng y giáo chủ, thậm chí lắm lúc còn gọi nhầm chúng là chào mào lửa.

“Tôi thấy cô đi quanh khu này vài lần,” anh nói tiếp. “Cô là người đã dán những miếng băng dán quan trắc màu cam đúng không?”

“Đúng rồi. Đường Turkey Creek là một trong những khu thực địa của tôi.” Cô không kể với anh về những tổ chim được cắm cờ. Nếu đám con nít địa phương phát hiện, chúng có thể phá phách và làm hỏng kết quả nghiên cứu của cô. Cô nhìn anh gấp ghế lại. “Anh có tình cờ mất con chó nào không?” Cô hỏi.

“Tôi không nuôi chó, chỉ có vài con mèo trong nông trại thôi. Sao thế?”

“Tôi còn vướng vào một con cún sắp chết đói nữa.”

“Đúng là họa vô đơn chí.”

“Chắc vậy,” Jo đáp và quay lại xe của mình. Lúc chạy vào con đường dẫn về nhà, cô không thấy đứa trẻ hay con chó đâu. Cô dỡ bộ dụng cụ thực địa, trái cây và bánh muffin mới mua ở quầy nông trại khỏi xe. Cô bé đã lẩn đi đâu đó, hoặc có khi nó đánh hơi thấy rắc rối và biến mất rồi cũng nên.

Lúc Jo cất xong những thứ vừa mua, có ba tiếng gõ khe khẽ vang lên ngay cửa bếp. Cô mở cửa và nhìn thấy đứa bé qua tấm chắn tả tơi.

“Giờ cô làm trứng ạ?” Con bé hỏi.

“Anh bán trứng bán hết hàng rồi,” Jo đáp. “Lát nữa anh ấy mang qua cho mình.”

“Sao chú ấy mang qua được nếu hết hàng ạ?”

“Chú ấy về nhà lấy thêm. Chú này sống ở khu đất ngay sát bên mà. Đằng kia kìa.”

Cô bé nhìn về phía hướng tây mà Jo chỉ.

“Con ăn bánh muffin việt quất không?”

“Có ạ!”

Jo để một cái bánh lên bàn tay đầy cáu bẩn của con bé.

“Con cảm ơn cô ạ,” nó nói trước khi nhồm nhoàm ăn lấy ăn để.

Ngửi thấy mùi đồ ăn, con chó dè dặt tiến lại từ góc nhà, nhưng cô bé quá đói nên không chia cho nó miếng nào. Đứa bé ăn xong chiếc bánh muffin chừng nửa phút thì xe bán tải màu trắng của Anh Bán Trứng ầm ì chạy xuống con đường trải sỏi. Jo lấy miếng giấy lót bánh từ tay cô bé và ném vào phần tro lạnh ngắt trong bếp lò. “Đi lấy trứng thôi,” cô nói, ra hiệu cho đứa bé vòng ra mé căn nhà.

“Ôi không!” Cô bé thốt lên.

“Sao thế?”

“Gấu Nhỏ ăn miếng giấy muffin kìa cô.”

“Cô dám cá nó từng ăn những thứ tệ hơn nhiều. Đi thôi!”

Hai người bọn họ gặp Anh Bán Trứng ở ngoài xe. Lúc đưa vỉ trứng cho Jo, anh quan sát đứa bé nhem nhuốc, từ đôi chân trần bẩn thỉu đến mái tóc bết dính. Nhìn con bé xác xơ hơn nhiều so với đêm qua. “Con sống ở gần đây à?” Anh Bán Trứng hỏi con bé.

“Cô bảo chú hỏi con câu đó đúng không?” Đứa bé vạch trần. “Đó mới là lý do thật sự khiến chú đem trứng đến đây. Chứ chú đâu có hết hàng.”

“Đứa bé này mồm mép quá nhỉ?” Anh Bán Trứng nhận xét.

“Là sao ạ?” Cô bé thắc mắc.

“Nghĩa là con còn nhỏ mà đầu đội trời, chân đạp đất quá chứ sao! Mà nói về chân đạp đất, sao con lại mặc đồ ngủ đi lung tung thế kia?”

Đứa bé lang thang nhìn xuống chiếc quần lấp lánh hình ngôi sao màu hoa oải hương của mình. “Bạn nhỏ đó mặc bộ đồ này lúc chết.”

“Bạn nhỏ nào?”

“Bạn nhỏ loài người mà con chiếm xác. Cô Jo không kể với chú ạ?”

“Cô Jo là ai?”

“Là tôi,” Jo lên tiếng.

Anh Bán Trứng chìa tay ra. “Rất vui được gặp cô, Jo. Tôi là Gabriel Nash.”

“Joanna Teale.” Cô siết chặt bàn tay thô ráp nhưng ấm áp của anh, giật mình nhận ra hai năm vừa qua, mình chưa từng chạm vào bất cứ người đàn ông nào. Cô giữ tay anh lâu hơn bình thường, hoặc có khi, anh mới là người giữ chặt lấy.

“Thế con tên là gì, hả cô bé xác sống?” Anh hỏi, chìa tay ra với đứa bé gái.

Nó lùi lại, sợ anh đang tìm cách chộp lấy nó. “Con không phải xác sống. Con từ Hetrayeh đến đây thăm thú.”

“Đó là ở đâu?” Anh thắc mắc.

“Là một hành tinh trong Thiên Hà Chong Chóng.”

“Thiên Hà Chong Chóng? Thật sao?”

“Chú từng nghe về nó rồi ạ?”

“Chú còn từng thấy rồi cơ.”

Con bé bán tín bán nghi nhìn anh. “Chú nói dối.”

“Chú không hề nói dối. Chú nhìn bằng kính viễn vọng.”

Trong lời anh nói ẩn chứa điều gì đó khiến khuôn mặt cô bé sáng rỡ hẳn lên. “Nó đẹp chú nhỉ?”

“Một trong những thiên hà mà chú thích nhất.”

Hóa ra thiên hà ấy có thật. Ít nhất, đứa bé đó không bịa tất tần tật mọi thứ.

Anh Bán Trứng tựa người vào đầu xe bán tải, hai tay thọc vào túi quần. “Thế con đến Trái Đất làm gì?”

“Đây là trường học của bọn con. Giống như cô Jo làm nghiên cứu sinh vậy đó.”

“Nghe thú vị nhỉ? Vậy con tính ở lại đây bao lâu?”

“Đến khi nào con thấy đủ thì thôi.”

“Đủ cái gì mới được?”

“Đủ để hiểu về con người. Sau khi thấy được năm điều kỳ diệu, con sẽ quay về hành tinh của mình.”

“Năm điều kỳ diệu?” Anh e ngại. “Thế thì có mà mãn kiếp.”

“Điều kỳ diệu mà con muốn nói ở đây chính là những thứ làm con cảm thấy kinh ngạc. Sau khi thấy đủ năm điều, con sẽ trở về và kể cho mọi người ở hành tinh của con nghe. Nó cũng giống như có bằng tiến sĩ và trở thành giáo sư vậy đó.”

“Con sẽ trở thành chuyên gia về con người à?”

“Chỉ về những gì con được chứng kiến ở thế giới này thôi. Giống như cô Jo sẽ trở thành chuyên gia về sinh thái các loài chim chứ không phải các mảng khoa học khác.”

“Ôi chà,” anh cảm thán, quay sang nhìn Jo.

“Đứa bé ngoài hành tinh này thông minh phết, đúng không?” Jo đưa vỉ trứng cho cô bé. “Con xếp nó vào tủ lạnh giúp cô nhé?”

“Cô sẽ cho con vào nhà ạ?”

“Ừ.”

“Chỉ vì cô muốn bàn riêng với chú này về con thì có.”

“Đi cất trứng đi.”

“Cô chú đừng nói xấu con đấy nhé.”

“Con đi đi.” Đứa bé chạy nhanh về phía cửa chính. “Đi từ từ thôi,” Jo gọi với theo, “nếu không món trứng bác của con sẽ đáp lên hè đấy.” Đoạn cô quay lại với Anh Bán Trứng. “Anh nghĩ sao?”

“Tôi chưa thấy cô bé này bao giờ. Tôi khá chắc nó không sống ở con đường này.”

“Con bé chỉ có thể sống ở đâu đó gần đây thôi. Nếu phải đi xa, chân nó đã te tua rồi.”

“Có thể trong lúc đến đây thì con bé đánh mất giày chẳng hạn… Hay nó vọc chân xuống suối rồi quên mất mình đã để giày ở đâu.” Anh đứng dậy khỏi xe tải và đưa tay lên chà bộ râu. “Giọng con bé nghe giống như dân sống ở vùng này, nhưng mấy kiến thức về nghiên cứu sinh và giáo sư tiến sĩ…”

“Con bé học từ tôi.”

“Rõ ràng là thế, nhưng con bé vẫn còn quá nhỏ tuổi để có thể chắp nối tất cả mọi thứ lại với nhau tốt đến như vậy.”

“Thì vậy, đó là điều mà tôi đang tìm cách giải thích…”

Cô bé hộc tốc nhào ra khỏi cánh cửa ở ngoài hiên, đôi chân trần lạch bạch trên nền sàn xi măng nứt nẻ. “Cô chú đang bàn tán gì vậy ạ?” Con bé hỏi, giọng hết hơi.

“Cô chú bảo rằng đã đến lúc con phải trở về nhà mình rồi,” anh trả lời. “Con có muốn quá giang không? Chú sẽ chở con về bằng xe tải của chú.”

“Chú tính chở con băng qua trăng sao để con trở về với hành tinh của con hả?”

“Một đứa bé thông minh như con hẳn đã biết thừa cô chú không tin con là người ngoài hành tinh,” anh ôn tồn, “và con nên hiểu một bé gái tuổi con không thể cứ lang thang một mình ở ngoài được. Nói cho cô chú sự thật đi.”

“Con nói thật mà!”

“Vậy cô Jo không còn cách nào khác ngoài gọi cảnh sát cả.”

“Toh-id ina eroo-oy!” Đứa bé đột nhiên kêu lên.

“Tối đi gì cơ?” Anh hỏi ngược lại.

Cô bé tuôn ra một tràng ngôn ngữ ngoài hành tình, trôi chảy giống như đêm hôm trước, nhưng lần này, lời nó nói được dùng với mục đích rủa xả Anh Bán Trứng, bởi con bé vung tay vung chân loạn xạ.

“Những lời vừa nãy con nói là gì thế?” Anh hỏi sau khi con bé ngừng lại.

“Con nói với chú bằng tiếng mẹ đẻ của con rằng, chú cần phải có thái độ niềm nở đối với nghiên cứu sinh không quản ngại đường sá xa xôi, vượt muôn trùng tinh tú để đến thăm cô chú. Con sẽ không bao giờ có thể trở thành tiến sĩ nếu cô chú không cho con ở lại.”

“Con biết con không thể ở đây mà.”

“Chú sắp sửa lấy bằng tiến sĩ hả?” Cô bé chất vấn.

Anh nhìn con bé bằng ánh mắt kỳ dị.

“Nếu có, chú phải biết rằng hành động của mình sẽ là sai trái nếu chú không để con lấy bằng tiến sĩ của mình,” cô bé đáp.

Anh đi thẳng một mạch đến xe tải rồi mở cửa.

“Chờ đã…” Jo vội lên tiếng.

Anh sập cửa, đoạn nói vọng qua cánh cửa xe, “Cô tự lo vụ này đi.”

“Nếu ban đầu con bé xuất hiện ở trước cửa nhà anh thì sao?”

“Nhưng nó có làm thế đâu.” Anh nhanh chóng đánh xe ra khỏi lối đi, khiến sỏi kêu lạo xạo.

“Cái quái gì vậy? Chuồng gà bị cháy chắc?” Jo bực bội.

“Cái gì cháy ạ?” Con bé hỏi.

“Không có gì.”

Rõ ràng, có điều gì đó khiến anh ta cáu tiết. Có lẽ anh ta cảm thấy thua kém trước trình độ học vấn của Jo nên mới như vậy. Thái độ của anh ta thay đổi hẳn khi cô bé hỏi liệu anh có sắp lấy bằng tiến sĩ không.

“Trong bếp có bánh, con ăn một miếng được không ạ?”

Jo dán mắt vào con đường vắng trong lúc tiếng xe tải của Anh Bán Trứng xa dần. Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau, cớ sao anh ta lại không biết lo cho hàng xóm láng giềng của mình tí nào kia chứ? Sao lại đem con bỏ chợ, đùn đẩy việc này cho một người còn lạ nước lạ cái với nơi đây như cô chứ?

“Có được không ạ?” Đứa bé hỏi lại.

Jo quay sang nhìn đứa bé, cố gắng không tỏ ra lo lắng. “Được, con cứ ăn. Nhưng trước tiên phải ăn bữa chính cho xong đã.” Và trước đấy thì Jo cũng phải xoay xở gọi cho cảnh sát trưởng mà không để con bé phát hiện.

“Món trứng bác có phải là bữa chính không ạ?”

“Phải,” Jo nhẹ nhàng, “nhưng cô muốn con rửa ráy sạch sẽ trước khi ăn. Con phải tắm táp đã.”

“Con ăn trước không được sao cô?”

“Cô đã nói con nghe về các quy tắc rồi. Nghe lời hoặc không được gì cả.”

Cô bé lủi thủi theo Jo vào nhà như một chú cún đói meo.