← Quay lại trang sách

NHỮNG VỊ TIỀN NHÂN ĐÁNG KÍNH

Gần như suốt cuộc đời, tôi biết rất ít người trùng họ Fulghum với mình (phát âm là full-jum).

Gia đình của tôi rất ít người và thường chết sớm, để lại có mình tôi trong cái cây gia phả này. Theo kết quả nghiên cứu phả hệ mới đây trên một số người họ hàng xa, bất kỳ ai có cùng tên họ ấy đều là bà con với nhau. Nhiều năm trước, chúng tôi đã tổ chức một cuộc đoàn tụ của họ hàng trên toàn quốc và có thể nói là riêng số người tên Robert Fulghum cũng đủ để thành lập một đội bóng chày.

Hẳn các bạn cũng biết, khi tạo cây gia phả người ta thường chú ý đến những nhân vật nổi tiếng trong quá khứ. Chẳng hạn như hải tặc thế kỷ thứ VIII – X, các vị vua chúa, những thành viên của các cuộc viễn chinh lớn, các hiệp sĩ, công tước và những người đồng hành với các tướng lĩnh chinh chiến đây đó.

Nhưng thật sự tôi cũng không chắc là mình có nên tự hào về tất cả những con người này không. Chẳng phải họ là những kẻ đã cướp bóc, cưỡng đoạt chuyên gây chiến tranh đối với những con người vô tội đó sao? Chẳng phải họ là những lãnh chúa đã đàn áp nông dân đó sao? Và chẳng phải họ là những kẻ di cư chuyên đi khai thác, tìm kiếm một điều gì đó vô bổ sao?

Còn những người phụ nữ thì sao? Tôi khó chịu khi thấy những người phụ nữ tuyệt vời trong gia đình không hề được tôn vinh.

Thêm vào đó, tôi cũng dám cược rằng gia đình tôi đã không hề nhắc đến những kẻ đần độn, dối trá, mấy tay trộm cắp, móc túi, hèn nhát, những tên hề và các đầu bếp tệ lậu trong họ tộc.

Thực tế là đa số những người có cùng gen di truyền với chúng tôi là những người hết sức bình thường. Họ ở nhà và làm việc, do đó chúng tôi thường không biết gì nhiều về tên tuổi hay cuộc sống của họ. Họ giống với đa số những người mang họ Fulghum trong xã hội hiện nay hơn những nhân vật nổi tiếng xuyên suốt các thế kỷ.

Và tôi tự hỏi không biết vào cái thời xa xưa ấy thì mọi thứ diễn ra như thế nào.

Tôi bèn tưởng tượng mình đang sống vào thời điểm tháng Tư năm 992, nghĩa là cách đây hơn một nghìn năm, vào thế kỷ thứ X. Các nhà sử học hiện đại gọi đó là Thời kỳ Đen tối, khi con người chỉ biết dựa vào các nguồn sáng như mặt trời, mặt trăng, đèn dầu, lửa, ánh sao và sức mạnh duy nhất là cơ bắp của con người, sức của loài vật và sức nước. Vào thời đó, tên của tôi đại loại sẽ là Robert Bước-Chân-Cuồng-Điên (và theo tiếng Pháp sẽ là: fol-jambe).

Và như thế, ban đêm tôi sẽ ngủ trên sàn trải rơm bẩn thỉu, trùm mình trong chiếc áo khoác không tay đầy rận, trong một gian phòng cùng vợ, chín đứa con, ba anh em trai, một chị gái, bà mẹ vợ, một bà dì và vài đứa trẻ mồ côi.

Cũng có thể tôi sẽ sống trong một dãy lều nằm san sát nhau, làm bằng phên liếp trát bùn. Về đêm, tôi sẽ ngủ chung với hai con bò, hai con heo, vài con gà vịt và mấy chú chó. Rồi thi thoảng tôi sẽ giật mình tỉnh giấc vì một con gà nọ đang mổ chấy rận trong mấy miếng giẻ trên đầu tôi.

Sau bữa sáng với thứ bánh mì cứng đanh, ôi thiu và bẩn thỉu cùng món cháo suông, tôi sẽ ra đồng cày bừa cả ngày dưới trời mưa với nguyên bộ quần áo ngủ. Theo số liệu ghi chép thì vào thế kỷ thứ X trời mưa rất nhiều, thế nên cả vợ và hai con trai của tôi cũng phải phụ kéo cày khắp cánh đồng sũng nước. Và với cuộc sống như thế, suy nghĩ của tôi hẳn chỉ xoay quanh những vấn đề thường tình như: “Mình sẽ ăn ở đâu?”,

“Muốn đá mấy con gà này quá”, “Trời lại đổ mưa nữa rồi”, “Mình bệnh, mình mệt mỏi quá”, “Mình thịt đại một con gà đi”.

Hàng ngày, tôi lo sợ một lúc nào đó mình sẽ bị cuốn vào những vụ xung đột vặt vãnh liên miên giữa xóm giềng với nhau, hoặc chuyện đám kẻ cướp vũ khí đầy mình sẽ bắt đi gia súc, vợ và các con của tôi.

Rồi lại còn phải lo lắng liệu có khi nào tay lãnh chúa gọi đi lính rồi chết mất xác ở đâu đó, hoặc đến một ngày hắn cho người đến lấy đi nhiều hơn số lương thực đã thỏa thuận trước đó.

Tôi làm việc đến tối mịt, suốt sáu ngày mỗi tuần, năm mươi hai tuần mỗi năm mà không hề có một kỳ nghỉ phép hay nghỉ ốm nào.

Ban đêm, tôi và những người trong gia đình co cụm quanh ngọn lửa âm ỉ do củi ướt, cào xước da thịt do bị bọ cắn, bắt chấy rận cho nhau, ăn cháo suông và tự hỏi vì sao những người sống trong dãy lều bên kia sông chết hồi tuần trước.

Rồi tôi lại nằm xuống ngủ một giấc ngủ kiệt quệ, đói lả. Không đến nỗi đói muốn chết, nhưng đúng là đói lả.

Tôi không hề được bác sĩ hay nha sĩ chăm sóc. Tôi không biết đọc cũng không biết viết hay làm toán.

Tình dục và bài tiết chỉ là vấn đề nhu cầu và được thỏa mãn bất cứ khi nào chúng trỗi lên.

Vào ngày Chủ nhật, vì bắt buộc mà tôi phải lê bước đến nhà thờ nhỏ cách đó vài dặm để nghe giảng về hỏa ngục và những tội lỗi bị đày xuống địa ngục. Tôi tin răm rắp vào sự phẫn nộ của Chúa, và cuộc sống hàng ngày của tôi là lời nhắc nhở không ngừng cho việc tôi không được Người chiếu cố. Đói kém, lũ lụt, hạn hán, bệnh truyền nhiễm, dịch hạch, sưu thuế, chiến tranh, sự tục tĩu và tuổi thọ kém là những điều xảy ra thường trực mỗi ngày.

Sau buổi lễ, tôi sẽ tìm ra một tay chiến hữu nào đó đang có sẵn cả vại bia để chè chén với nhau đến say khướt, rồi cầm gậy gộc mà quật nhau cho đến khi ngã lăn xuống rãnh, bị tay đại diện của lãnh chúa phạt vạ và lôi về nhà, để rồi sáng hôm sau lại tỉnh giấc vì con gà mổ rận trên đầu.

Cuộc sống đó là một sự vật lộn trong chốn chật hẹp, tàn bạo để giành lấy sự sinh tồn mỗi ngày, khiến tôi cạn kiệt mọi sức lực. Ấy vậy mà cuộc sống đó của tôi vẫn còn tốt đẹp hơn nhiều người khác.

Mọi thứ khá đơn giản và không hề phức tạp, có thể nói là vậy.

Ngoài những gì tôi thấy bên ngoài túp lều của mình thì tôi không phải lo nghĩ về bất kỳ điều gì diễn ra trên thế giới lẫn ý nghĩa cuộc đời. Nhà thờ giải đáp tất cả mọi câu hỏi mà đầu óc đơn giản của tôi nghĩ ra. Và tôi tin rằng một ngày nào đó mình sẽ lên thiên đường, nơi mà mọi thứ trên cả tuyệt vời. Ở trên đó không có gà. Người ta nói với tôi như vậy và tôi vui vẻ tin ngay như vậy.

Và tôi không phải đợi quá lâu mới có thể lên thiên đường. Ở thế kỷ thứ X, con người sống đến bốn mươi tuổi đã gọi là thọ lắm rồi. Nhiều khả năng là tôi sẽ chết trước tuổi đó, do đói kém, vì một vết nhiễm trùng nào đó, vì dịch bệnh, chiến tranh hoặc chỉ đơn giản là vì sự hao gầy mỗi ngày.

Dòng dõi của tôi vẫn tồn tại sau những thời kỳ gian khó.

Những người bà con nổi tiếng của tôi thời đó không khiến tôi ấn tượng bằng những con người vô danh đã gan góc tồn tại giữa điều kiện sống khắc nghiệt. Tôi tự hào vì là hậu duệ của họ.

Cứ mỗi lần vấp ngã trong cuộc đời, tôi lại nghĩ đến họ.

Rồi tôi lại đứng lên và tiếp tục sống, lòng tưởng nhớ đến những người đồng hành gan góc ấy, và nghĩ đến lợi ích của lứa hậu duệ của chính mình.