← Quay lại trang sách

II. CHÍNH TRỊ CÁI HAY CỦA TÌNH TRẠNG “BẾ TẮC”

Tất cả mọi người hiện nay đều chỉ trích tình trạng “bế tắc chính trị” (political gridlock). Cả hai tờ Thời báo New York và Bưu điện Washington đều cho chạy các bài viết dài kỳ nhằm bêu riếu một chính phủ phân chia (pided government): Nhà Trắng thuộc đảng Cộng hòa, Quốc hội với đa số ghế thuộc đảng Dân chủ[27]. Tổng thống Bush kêu gọi cử tri chấm dứt sự bế tắc bằng việc bầu cho một Quốc hội Cộng hòa; Bill Clinton cũng “chào hàng” tương tự nhưng với cái nhãn ngược lại: đảng Dân chủ. David Broder, nhà báo chính trị nổi tiếng tầm cỡ quốc gia của tờ Bưu điện Washington tuyên bố thẳng thừng rằng “chính phủ phân chia là không hiệu quả. Chỉ qua bầu cử mới có thể sửa chữa được tình trạng lộn xộn này, bằng cách bỏ phiếu cho các ứng viên trong đảng của mình (voting straight tickets)[28] vào tháng Mười Một[29]”.

Tôi thì không nghĩ vậy. Tôi yêu thích chính phủ phân chia.

Với tất cả các khiếm khuyết của nó, chính phủ phân chia đã bảo vệ chúng ta trước sự lạm dụng tồi tệ nhất của cả hai đảng. Thành thật mà nói, nỗi ám ảnh từ việc Tổng thống Clinton “dàn xếp” với một Quốc hội Dân chủ đã làm tôi lo sợ. Clinton tin tưởng vào một chính phủ với các nhà hoạt động (activist), Quốc hội theo bản năng của nó lại cố chiều lòng vô số khu vực bầu cử. Logic của sự kết hợp này là sự bùng nổ trong chi tiêu của chính phủ, các quy định, và pháp luật về đặc quyền đặc lợi. Sẽ không có nguyên tắc nào (mối đe dọa từ quyền phủ quyết của tổng thống) để ngăn chặn việc này.

Chính phủ của một đảng Cộng hòa còn có thể tồi tệ hơn. Người ta có thể cho rằng nó có thể hạn chế ngân sách nhiều hơn, mặc dù công chúng vẫn nhiệt tình với chính sách cắt giảm thuế của đảng Cộng hòa. Nhưng điều đáng sợ là một chương trình nghị sự xã hội mang tính cố chấp, thậm chí là hận thù của đảng Cộng hòa. Châm ngôn của họ - về vấn đề nạo phá thai, cầu nguyện tại trường học, và các vấn đề gia đình - là: Hãy để chúng tôi áp đặt các giá trị của chúng tôi lên bạn. Mặc dù không phải tất cả các đảng viên đảng Cộng hòa đều cảm thấy điều này (cũng như không phải tất cả các đảng viên Dân chủ đều muốn chi tiêu của chính phủ nhiều hơn), nhưng một chính phủ Cộng hòa sẽ đối mặt với áp lực đảng phái mạnh mẽ, buộc phải sử dụng quyền lực liên bang để thúc đẩy các giá trị không được chia sẻ bởi hầu hết những người Mỹ. Chuyện đầu tiên là: tư vấn về việc cấm phá thai trong các phòng khám được liên bang tài trợ.

Hãy cho tôi một chính phủ phân chia, bất cứ lúc nào.

Sự hấp dẫn giả tạo của một chính phủ độc đảng nằm trong một mô hình vận hành đơn giản của các hoạt động chính trị. Theo quan điểm này, mỗi đảng sẽ có một chương trình rõ ràng. Cử tri chọn chương trình này hay chương trình khác. Bên thắng cử sẽ thông qua chương trình hành động của họ. Cử tri rà soát các kết quả đạt được và quyết định có bầu lại một lần nữa cho các vị đang đương nhiệm hay không. Các cử tri có sự lựa chọn thực sự, và các đảng được tưởng thưởng hoặc bị trừng phạt trên cơ sở hiệu quả hoạt động.

Ngược lại, người ta nói rằng chính phủ phân chia thúc đẩy kiểu chính trị vô trách nhiệm và tạo nên một cộng đồng bi quan yếm thế. Vì không có một chính đảng duy nhất kiểm soát tất cả mọi thứ, nên mỗi đảng đều có thể dễ dàng đổ lỗi cho bên kia về các vấn đề của quốc gia. Các hậu quả được trình bày sống động, bao gồm sự thâm hụt lớn trong ngân sách, không kiểm soát được chi phí y tế, và một nền kinh tế yếu ớt. Công chúng cảm thấy bất lực và dần dần bất mãn với các nhà lãnh đạo và các tổ chức của đất nước.

Những bất ổn trong phần phân tích ngắn gọn này là nó đã không phản ánh được cách thức mà đời sống chính trị của chúng ta đang thực sự vận hành, hoặc, theo quan điểm của tôi là, cách mà nó nên thực hiện. Có hai quan niệm sai lầm:

1. Chính phủ phân chia tạo ra nền lập pháp tê liệt (đây cũng được hiểu là một dạng bế tắc). Điều này hoàn toàn sai. Trái với quan niệm phổ biến, thời gian ông Bush cầm quyền đã có rất nhiều các hoạt động lập pháp quan trọng, cụ thể là: đạo luật dành cho công dân khuyết tật của Mỹ (tạo lập các quyền mới dành cho người khuyết tật), luật về Không khí Sạch (Clean Air Act) năm 1990, luận Dân quyền (Civil Rights Act) năm 1991, Thỏa thuận ngân sách năm 1990, luật hỗ trợ Tiết kiệm và Tín dụng (S&L bailout). Ngoài ra, Nhà Trắng và Quốc hội đã đồng ý cắt giảm quy mô của quân đội xuống khoảng 25%. Quan điểm của tôi là không ca ngợi hoặc phê phán những hành động này, mà đơn thuần là để chỉ ra rằng nhận thức về sự tê liệt (trong công tác lập pháp) là đã được phóng đại quá mức.

Điển hình là một số vấn đề mới gần đây. Trong một nghiên cứu, ông David Mayhew - nhà khoa học chính trị của Yale - thấy rằng các chính phủ phân chia đã thường xuyên ban hành các đạo luật chính yếu. Ví dụ, chính quyền Nixon đã ban hành Luật về Không khí Sạch năm 1970 và Đạo luật về An toàn và Y tế tại nơi làm việc (Occupational Safety and Health Act). Họ còn xây dựng nên Ủy ban An toàn về hàng tiêu dùng và Tập đoàn Vận tải hành khách đường sắt quốc gia (Amtrak), đồng thời mở rộng an sinh xã hội, tem phiếu mua thực phẩm[30], và các khoản viện trợ cho trường đại học[31].

2. Mỗi vấn đề xã hội đều có một giải pháp của chính phủ. Với các động thái gây thất vọng, bực tức, một chính phủ phân chia đã cản trở sự tiến bộ và tiếp tay cho sự bất mãn của công chúng. Nếu điều này có thật, thì chúng ta đã có một xã hội không tưởng (utopia). Nhưng không phải vậy. Hãy xem xét nền kinh tế. Chu kỳ kinh tế xuất hiện. Chính phủ không thể ngăn cản chúng. Các nỗ lực để làm điều này trong thập niên 1960 và 1970 đã thổi bùng lạm phát và dẫn đến suy thoái sâu. Các chương trình của chính phủ, các khoản thuế và các quy định đã ảnh hưởng - làm cho tốt hơn hoặc tệ hơn - đến các tiêu chuẩn sống. Nhưng những tác động là lâu dài và mơ hồ. Những gì thật sự nuôi dưỡng sự bất mãn đối với chính phủ chính là ảo tưởng cho rằng: chính phủ có thể giải quyết mọi vấn đề. Điều này duy trì các trông đợi phi lý và các chương trình với mục tiêu không thực tế và chắc chắn sẽ thất bại.

Hệ thống chính trị của chúng ta có thể hành động khi có sự đồng thuận. Sự đồng thuận này không đảm bảo sẽ cho ra các đạo luật tốt, nhưng nó giúp tạo nên pháp luật mà đối với công chúng là chấp nhận được. Điều này mang ý nghĩa sống còn trong một đất nước có sự đa dạng về dân tộc, tôn giáo, vùng miền, và kinh tế như đất nước của chúng ta. Khó khăn dành cho một chính phủ độc đảng là nó tối thiểu hóa nhu cầu tạo ra sự đồng thuận và thổi phồng quyền lực của một nhóm lợi ích hẹp hòi thuộc một bên nhất định. Sự biện minh ở đây là người ta đã bỏ phiếu cho các “chương trình” của một đảng. Đây là một điều bịa đặt. Thông thường cử tri bỏ phiếu chỉ đơn thuần là cho thấy sự đồng tình hoặc không chấp nhận các điều kiện hiện nay của đất nước.

Có trường hợp một chính phủ độc đảng sẽ mạnh hơn, đó là khi một trong hai ứng cử viên đã nỗ lực để dựng nên một sự đồng thuận trong hai vấn đề mấu chốt: chăm sóc sức khỏe và thâm hụt ngân sách. Thực tế thì chẳng bên nào làm được. Mỗi ứng cử viên đều hứa hẹn cải cách chăm sóc sức khỏe. Trong thực tế, bất kỳ cuộc cải cách có hiệu quả nào sẽ liên quan đến các thay đổi - chi tiêu cao hơn, chính phủ kiểm soát nhiều hơn, hoặc bảo hiểm ít đi - có thể làm khó chịu nhiều người dân Mỹ. Và cả hai ông Clinton và Bush đều phớt lờ chuyện thâm hụt ngân sách. Thật là điều ảo tưởng để tin rằng các đảng viên Dân chủ, một khi nắm chính quyền, đột nhiên sẽ tấn công gay gắt vào sự thâm hụt ngân sách. Thật ra, Clinton đã tích cực trấn an các nhóm (người cao tuổi, cựu chiến binh, sinh viên) rằng ông ta có thể bảo vệ tốt nhất cho các lợi ích của họ.

Không giống như Broder, tôi đề nghị không có các lời khuyên tại phòng bỏ phiếu bầu cử. Kết quả tốt đẹp nhất cho quốc gia này có thể là một nhiệm kỳ của ông Clinton (đảng Dân chủ) và một Quốc hội với đa số ghế của Đảng Cộng hòa. Một trong những vấn đề ngày nay là cả hai đảng đều đã “bám trụ” quá lâu vào những gì họ từng có. Cả hai đều trở nên nhạt nhẽo và đầy tự mãn. Sự đảo ngược tình hình này có thể khiến mọi người kinh ngạc và tạo được sự đồng thuận. Nhưng điều do tôi tưởng tượng ra dường như không thể xảy ra, và kết quả tốt thứ hai sẽ là một chiến thắng chật vật của ông Bush kết hợp với số ghế ít hơn (mặc dù vẫn chiếm đa số) của đảng Dân chủ trong Quốc hội. Điều này cũng có thể đe dọa mọi người phải thay đổi.

Những nỗi ám ảnh với sự bế tắc đã che lấp đi vấn đề cơ bản: sự tê liệt thực sự của công luận. Người Mỹ muốn nhiều hơn nữa từ phía chính phủ, với mức thuế vẫn như hiện nay. Cả hai đảng đều nhút nhát như nhau khi xử lý tình thế tiến thoái lưỡng nan này, và kết quả là không đảng nào xứng đáng nắm toàn bộ quyền lực.

Newsweek

Ngày 14 tháng 9 năm 1992

VĂN HÓA TẤN CÔNG

“Scandal” (vụ bê bối) là từ đã mất ý nghĩa của nó trong thời gian vừa qua. Cái ngưỡng cho một sự việc trở thành “bê bối” đã dịch chuyển xuống rất thấp đến mức Washington hầu như luôn luôn có một scandal. Mới nhất là scandal “chiến dịch tài chính”, nhưng chúng ta vẫn đang giải quyết những vụ bê bối Whitewater[32] và Gingrich[33]. Chúng ta có một bộ máy thường trực với các điều tra viên, các đảng viên nhiệt tình, các phóng viên làm việc toàn thời gian để khám phá và công bố các hành vi sai trái có cơ sở - và yêu cầu mọi thứ khi họ thẩm tra một vụ bê bối hoặc là một scandal tiềm năng. Sự xúc phạm ngày càng nhiều thể hiện qua sự công kích dường như đã trở nên mơ hồ và tầm thường hơn bao giờ hết.

Tất nhiên, cũng có những vụ bê bối thực sự, và hành vi của các quan chức cao nhất (hoặc thấp nhất) đều phải được công khai làm sáng tỏ. Chính phủ và những thành viên trong chính phủ chỉ có thể bị quy trách nhiệm khi các hoạt động của họ được kiểm tra. Nhưng quá trình này đã bị cuốn vào một cơ chế “nhai lại” (parody). Tại cuộc họp báo hồi tuần trước, Tổng Thống Clinton nhận được 18 câu hỏi, trong đó 15 câu có liên quan chiến dịch gây quỹ. Đó có phải là vấn đề quan trọng duy nhất không?

Những gì chúng ta đang thấy là văn hóa tấn công. Dùng cụm từ “văn hóa tấn công”, tôi muốn nói đến nhận thức và một tập hợp các thực hành đã vượt qua tính đảng phái, sự phê phán, tranh luận, và điều tra thông thường. Điều xác định văn hóa tấn công là tinh thần sôi nổi của nó - tuy không thể hiện ra ngoài nhưng rất rõ ràng - để triệt tiêu và hạ bệ. Có ai nghi ngờ rằng nhiều cuộc điều tra đủ loại về vụ Whitewater là nhằm mục đích tiêu diệt Tổng thống

Clinton và Đệ nhất phu nhân? Có ai nghi ngờ rằng những cáo buộc đối với Người phát ngôn Hạ viện, ông Gingrich, được thúc đẩy bởi động cơ ít mang tính nhạy cảm đạo đức mà phần nhiều hơn là mong muốn tiêu diệt ông ta về phương diện chính trị?

Điều tra, thứ luôn luôn là một vũ khí chính trị, nay còn quan trọng hơn bao giờ hết. Trong một cuốn sách xuất bản năm 1990 (Làm chính trị với các phương tiện khác),

các nhà khoa học chính trị Benjamin Ginsberg và Martin Shefter đã có nhận định đúng đắn: “chính trị Hoa Kỳ gần đây đã trải qua sự chuyển đổi cơ bản... các lực lượng đang ngày càng dựa vào các vũ khí đấu tranh chính trị mang tính đồng bộ như điều tra lập pháp, tiết lộ trên phương tiện truyền thông, và tiến hành các thủ tục pháp lý để làm suy yếu các đối thủ chính trị của họ và giành quyền lực về mình”.

Văn hóa tấn công có nguồn gốc từ vụ Watergate[34], và tổng thống Nixon - mặc dù bị hạ bệ và buộc phải từ chức - vẫn là chuẩn mực của sự thành công. Việc bắt chước vụ Watergate ngày càng trở nên phản dân chủ và dung dưỡng cho sự xem thường pháp luật, chính trị, và (nếu ai có quan tâm) cả báo giới. Hầu hết người Mỹ cảm thấy rằng quá trình này là không thể kiểm soát, bởi vì không có ai - nghĩa là những người đã không dành ra rất nhiều thời gian để nghiên cứu các vụ bê bối - có thể hiểu được những scandal đó là gì.

Tội rất lớn của Gingrich là gì? Vâng, ông giảng dạy một khóa học trong trường đại học (đây là một tội ư?). Sau đó, một số băng hình của khóa học đã được sử dụng để xúc tiến chính trị (được lắm, một chính trị gia đang hoạt động). Nhưng khoan đã: các khóa học được tài trợ bởi tiền đóng góp từ thiện do khấu trừ thuế, khoản này không được phép dùng cho các hoạt động chính trị. Vì vậy Gingrich đã vi phạm một điều không được phép làm và còn làm sự việc tệ hơn khi cung cấp thông tin sai lệch cho Quốc hội (theo ông thì đây là một sai lầm vô hại, còn các đối thủ công kích ông lại cho rằng đây là sự dối trá cố ý). Ông Clinton có thể phạm sai lầm trong vụ vi phạm tại Whitewater, nhưng ba cuộc điều tra - với chi phí hơn 24 triệu dollar - vẫn chưa tiết lộ được chi tiết vụ này là gì.

Tôi không phải là người hâm mộ Clinton hay Gingrich; và cũng không bảo vệ hành vi của họ và chắc chắn sẽ không lấy đó làm hình mẫu cho con cái của tôi. Nhưng chúng ta có các cuộc bầu cử dành cho các cử tri để quyết định, sau khi xem xét tất cả những thứ, liệu họ có muốn giữ lại nhà lãnh đạo đã được bầu hay không. Ngoại trừ trong một số ít trường hợp hiếm hoi, công việc này không nên bị chi phối bởi các tòa án, công tố viên, hoặc báo giới thông qua các cuộc điều tra đang ngày càng đi sâu vào các quyền và sự riêng tư cá nhân. Các cuộc điều tra có mục đích là tạo thành kiến cho mọi người để cản trở những mục tiêu của “đối tượng”, ngay cả khi rốt cục thì chẳng có lời cáo buộc xác đáng nào cả. Quá trình điều tra này đã bị lạm dụng, bởi vì các cuộc điều tra được chọn lọc (thường được kích hoạt bởi sự nổi bật của “đối tượng”) và nhằm mục đích (qua những bất lợi công khai) kết án và trừng trị “đối tượng” đó.

Văn hóa tấn công tồn tại được là nhờ tham vọng cá nhân và các chương trình nghị sự chính trị khác nhau. Các phóng viên muốn có được một câu chuyện lớn; công tố viên tìm kiếm lời cáo buộc; các đảng viên khao khát quyền lực. Và chỉ với các hoạt động điều tra mới tạo ra áp lực đem lại kết quả. Các dữ liệu đã được đem ra xem xét; danh tiếng sẽ bị đe dọa. Hầu như chẳng có ai muốn nói: “Xin lỗi, không có gì ở đây cả”, hoặc “chuyện này tầm thường quá”. Mỗi sai sót, nhầm lẫn hoặc sự quá đáng mang tính cá nhân đều được nâng lên thành một điều ác ở mức độ lớn. Động cơ của hành động thâm độc xấu xa đang được chứng minh rõ ràng hoặc ngụ ý. Nếu nó không phải là một vụ bê bối, ta bận tâm làm gì?

“Đối tượng” là có tội, cho đến khi được chứng minh là vô tội. Một số cuộc điều tra là có thể dự đoán được kết quả từ trước. Có rất nhiều điều luật và quy định, đến nỗi bất cứ ai đã bị điều tra sát sao cũng đều có thể được tìm thấy là có vi phạm gì đó. Và một số “đối tượng”, bối rối hay xấu hổ, lại sai lầm ngớ ngẩn với việc bao che sai phạm. “Đối tượng” ở đây không phải chỉ là các quan chức nổi cộm. Văn phòng Liên bang Nghiên cứu Sự Liêm chính (The Federal Office of Research Integrity) gần đây đã “minh oan” cho một nhà khoa học dày dạn kinh nghiệm từng bị cáo buộc là có các hành vi sai trái. Nhưng trong suốt ba năm, ông này đã phải chịu các phiên điều trần trước Quốc hội và công trình nghiên cứu của ông được dán lên cái nhãn là “lừa đảo”. Ông nói, “đó là những năm tháng trong địa ngục, người ta lấy đi địa vị, danh tiếng và công việc của tôi”.

Người ta bị bôi nhọ vì văn hóa tấn công tuy rất vụng về nhưng lại tập trung. Sự tức giận hiện nay đối với chiến dịch tài chính là phù hợp với mô hình mẫu này. Nó được điều khiển bởi một liên minh của những người không ưa ông Clinton, các nhà cải cách chiến dịch tài chính, và báo chí. Câu chuyện chắc chắn là hấp dẫn: tổng thống (có vẻ như) đã đứng ra làm trung gian môi giới với phòng ngủ Lincoln[35] để kêu gọi các khoản đóng góp, một nhóm các nhân vật tai tiếng đang trao đổi một cách kín đáo tại Nhà Trắng, Al Gore gọi điện thoại để yêu cầu tiền mặt từ văn phòng của ông.

Điều người ta thiếu sót không đề cập đến là viễn cảnh chung. Số tiền 2,96 triệu dollar mà Ủy ban Dân chủ Quốc gia[36] báo cáo chỉ chiếm có 1,3% trong tất cả các khoản đóng góp của họ. Các phần quà tặng “có vấn đề” cũng không ảnh hưởng đến kết quả của cuộc bầu cử, và không có bằng chứng cho thấy sự đóng góp đã làm thay đổi bất kỳ chính sách lớn nào. Nhiều hoạt động gây quỹ là “không sạch”. Nhưng người ta không nên quên rằng đưa tiền cho một ứng cử viên hay đảng phái cũng là một hình thức của diễn văn chính trị. Sự đóng góp không thể dễ dàng bị hạn chế khi không có các bài diễn thuyết tự do mang tính thỏa hiệp. Sự hiếu chiến hiện nay - được nuôi dưỡng bởi những người tự tuyên bố nhà cải cách - đã cố tình che lấp quan điểm này.

Tất cả các cuộc vận động lớn đều không trấn an được công chúng. Mà tác dụng là ngược lại. Bởi vì hầu hết mọi người đều hiểu rằng quá trình này không trong sạch - chúng đang được thúc đẩy bởi tham vọng và chính kiến - khiến những kẻ tấn công và người bị cáo buộc ngày càng cùng lọt vào một cấp độ đạo đức. Một bệnh dịch truyền nhiễm nguy hiểm đối với tất cả mọi người. Chúng ta trở thành “mất cảm giác” với các vụ bê bối thực sự bởi vì các scandal “nhân tạo” đã quá phổ biến. Tất cả các nền dân chủ đều cần phải kiểm tra các công chức của nó. Một tình thế tiến thoái lưỡng nan kéo dài là làm thế nào để ngăn chặn không cho các yêu cầu chính đáng bị trượt dài thành sự chuyên chế được thừa nhận. Khi mọi thứ đều là scandal, chúng ta sẽ đánh mất đi sự cân bằng thích hợp.

Bưu điện Washington

Ngày 12 tháng 3, năm 1997

NUÔI DƯỠNG SỰ XUNG ĐỘT

Sự kiện chính trị gây ảnh hưởng và khai sáng cho tôi nhiều nhất trong năm 1996 là một đám tang mà tôi đã không tham dự. Tôi đọc tin về sự kiện này sau đó, và biết thêm một số điều quan trọng về việc hệ thống chính trị của chúng ta đã thay đổi theo hướng tồi tệ hơn như thế nào. Hệ thống chính trị đã mất nhiều quyền lực cho việc hoà giải. Thay cho điều này là việc nó thường kích động các xung đột trong vòng kiểm soát, mặc dù xung đột là có thực. Chính tang lễ của David Ifshin, một luật sư đã phục vụ như nhà tư vấn cho chiến dịch vận động tranh cử năm 1992 của Tổng thống Clinton đã làm tôi thay đổi. Một trong những người từng ca ngợi Ifshin là Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa của bang Arizona, ông John McCain.

Điều làm nên động thái này không phải là sự khác biệt của các đảng phái chính trị, mà là lịch sử. Năm 1970,

Ifshin - khi đó mới ngoài hai mươi tuổi, đã đến Hà Nội với tư cách là một người phản đối chiến tranh, trong khi McCain - một phi công của hải quân Hoa Kỳ bị bắn hạ, đang là tù binh trong một nhà tù Việt Nam. Việc hai người đàn ông này đã hòa giải, thúc đẩy sự tôn trọng lẫn nhau và tình bạn dường như hoàn toàn kỳ lạ trong bầu không khí chính trị đối kháng ngày nay. Đó là một môi trường mà trong đó người ta ngày càng xem những đối thủ như kẻ thù.

Việc hòa giải không phải là một sự kiện diễn ra trong những phút cuối cùng bên giường bệnh. Nó có từ vài năm trước, trước cả khi Ifshin được phát hiện ông mang trong mình một khối u ác tính. McCain đã từng có lần chỉ trích Ifshin một cách gay gắt trong một bài diễn văn và sau đó ông quyết định rằng nó là một hành động không “quang minh chính đại” và khiến ông hối tiếc. Ifshin đã xác định rằng việc ông tới Hà Nội - bất chấp quan điểm về chiến tranh của ông là gì - là một hành động không yêu nước và làm cho các quân nhân Hoa Kỳ phải hổ thẹn. Một biện pháp (hòa giải) của hai ông là, theo các lời kể riêng biệt của họ về tình bạn, không rõ ai người nào xin lỗi trước. (Câu chuyện được Michael Lewis kể lại đầy đủ chi tiết trong bài viết ngày 13 tháng Năm trên tờ The New Republic[37].)

Nếu Ifshin và McCain có thể chôn vùi các bất đồng lớn của họ, thì tại sao ngày nay các khác biệt nhỏ hơn vẫn gây ra sự hằn học? Suy cho cùng, các bất đồng của họ đã không phải là các tranh cãi thông thường. Ifshin từng tin rằng chiến tranh là điều sai trái; McCain lại nghĩ rằng phục vụ (quân đội trong chiến tranh) là nhiệm vụ của ông. Người Việt Nam đã giam giữ McCain trong năm năm rưỡi; còn các bài phát biểu của Ifshin đã nhiều lần được chuyển vào nhà tù đó. (Dường như với tôi thì) Cả hai đều có quyền được hận thù nhau. Các cuộc xung đột của những năm 1960 liên quan đến vấn đề sống - và - chết, hoặc gần như thế. Việt Nam. Các quyền công dân.

Điều khó hiểu hơn là sự tồi tệ hiện nay. Nhìn chung, các vấn đề chính trị và các tiết lộ công khai bây giờ ít quan trọng và ít liên quan đến đạo đức tuyệt đối hơn nếu so với những vấn đề trong thập niên 1960. Phá thai là một ngoại lệ hiển nhiên. Nhưng một cách tổng quát, chúng ta phải đối mặt với những vấn đề - thâm hụt ngân sách, các “hành động tích cực”[38], cải cách phúc lợi, bất ổn kinh tế, chính sách chăm sóc sức khỏe, sự thái quá trong văn hóa phổ biến - thách thức các giải pháp đơn giản và chứa đựng nhiều điều không rõ ràng. Có những vấn đề mà các đối thủ có thể học hỏi lẫn nhau, thậm chí khi họ vẫn tiếp tục bất đồng ý kiến. Tuy vậy chính trị ngày nay thường là luôn luôn “không sạch” một cách phi lý.

Bây giờ chúng ta đã có các sáo ngữ (cliches) để mô tả tinh thần của thời đại. Chúng ta nói rằng các cuộc tranh luận thiếu “lịch sự”. Chính trị đã bị “phân cực”, và các đối thủ thường xuyên biến đối phương thành “loài quỷ dữ”. Tôi cho rằng một cách lý giải cho sự thay đổi này là sự khác biệt quan trọng giữa chính trị của những năm 1960 và chính trị của những năm 1990. Trước kia thì các xung đột bùng lên từ sâu thẳm của xã hội, và kiến trúc thượng tầng của chính trị - tổng thống, quốc hội, các quan chức được bầu cử và bổ nhiệm khác - đã cố gắng để vật lộn với chúng. Ngược lại, ngày nay thì các xung đột thường được nuôi dưỡng một cách có ý thức (nếu không phải là được sáng tạo ra) bởi các nhà lãnh đạo chính trị và giới tinh hoa trong xã hội.

Đã có sự hoán đổi vai trò. Các nhà lãnh đạo chính trị của những năm 1960 đã gắng sức giải quyết các xung đột mà họ thường là không dự đoán trước và không hiểu rõ chúng. Tầng lớp thống trị, là người của đảng Dân chủ hay Cộng hòa cũng vậy, đều phải đối phó với các cuộc tuần hành của quần chúng, các cuộc biểu tình phản đối trên đường phố, và sự công kích trực diện - chủ yếu từ các trường đại học - đúng trên cơ sở hợp pháp của hệ thống chính trị và hầu hết các nhân vật có quyền lực. Hệ thống chính trị, thường là miễn cưỡng, đã cố gắng thừa nhận những áp lực và đưa chúng thành các hoạt động chính trị chính thức. Các nỗ lực khi đó là dàn xếp các sự khác biệt.

Tầng lớp thống trị ngày nay tập trung nhiều hơn vào việc kinh doanh sự khác biệt. Đạo đức của bạn được xác định bởi thói hư tật xấu của các đối thủ của bạn. Đó là một cách để tạo ra bản sắc chính trị. Nếu sự khác biệt được giảm thiểu hoặc mờ nhạt, thì còn gì mà nói nữa? Không chỉ có các nhà chính trị được bầu mới bám vào việc “kinh doanh” này. Đó cũng là cách mà các nhóm ủng hộ và các nhóm vận động hành lang thu hút các thành viên của họ. Đó là cách mà các nhà báo và diễn giả “lăng xê các ngôi sao” (celebrity) của riêng họ. Cuộc tranh luận được đẩy lên cao trào nhất. Luận điểm của “phía bên kia” không chỉ là sai lầm, mà còn vô cùng tai hại. Nó đe dọa tương lai của (tùy bạn chọn nhé:) nền kinh tế, môi trường, nền dân chủ, hay chính xã hội Mỹ.

Tôi không lập luận rằng chúng ta nên nhấn chìm những sự khác biệt chính đáng. Cuộc tranh luận lành mạnh cần phải sắc sảo và, đôi khi, gay gắt. Nhưng tôi cho rằng việc nuôi dưỡng các xung đột - hơn là các giải pháp dành cho xung đột - đã trở thành mối quan tâm lớn hơn của các hoạt động chính trị và rất nhiều ác ý được tiếp năng lượng qua sự tự quảng bá. Đó là “chủ nghĩa bán dạo” (hucksterism)[39]. Những nguyên nhân của sự thay đổi này không phải là hiển nhiên, ít nhất là theo tôi. Truyền hình (khuyến khích các bài phát biểu hùng hồn), sự phát triển của chính phủ (tạo ra các nhóm biện hộ), và sự sụp đổ của các cỗ máy chính trị xưa cũ (làm cho các chính trị gia trở nên bấp bênh hơn): tất cả đều có thể là những nguyên nhân.

Bất kể nguyên nhân gì, thì hiện tượng này đã trải dài trên quang phổ chính trị và rõ ràng gây nguy hiểm. Nó đã làm tăng thêm sự ngao ngán thường thấy của người Mỹ đối với chính trị. Các vụ “ám sát thanh danh”[40] thường xuyên thay thế cho các cuộc tranh luận có cân nhắc; mặc dù chúng cũng chẳng tạo nên sự tôn trọng. Những sự khác biệt được thổi phồng giữa các tầng lớp chính trị cao cấp - chính trị gia, các học giả, những nhóm biện hộ - có thể còn làm khuyếch đại sự khác biệt thực tế giữa những con người bình thường. Nói chung, người Mỹ ít phân tán hơn những gì họ được mô tả. Nhưng chúng ta thường xuyên chứng kiến những bất đồng gay gắt giữa các người “tạo dư luận” (opinion leaders); và chúng ta đang liên tục được nghe về việc chúng ta phân chia và khác biệt nhau như thế nào. Sớm muộn gì chúng ta cũng có thể đi đến suy nghĩ và hành động kiểu này. Chúng ta có thể quên những giá trị chung.

Chính trị chắc chắn không thể tránh khỏi các bất đồng, và nhiều bất đồng là sâu sắc. Nhưng vượt ra ngoài sự xung đột là các phạm vi rộng lớn hơn của sự đồng thuận, nhằm xác định chúng ta là một quốc gia, một dân tộc. Trong đó có cả sự chấp nhận các điểm khác biệt. Ngẫu nhiên mà tôi đã gặp cả hai ông Ifshin và McCain trong những dịp riêng biệt, mỗi lần khoảng 15 giây. Tôi không thể khẳng định rằng mình đã hiểu chính xác những gì thúc đẩy họ hòa giải. Nhưng tôi phỏng đoán đó là sự lịch thiệp thông thường và sự nhận thức theo bản năng đối với tầm quan trọng của các phạm vi đồng thuận rộng lớn hơn. Nếu vậy, thông điệp của họ là rất đáng suy xét trong năm 1997 này.

Bưu điện Washington

CÁI GIÁ CỦA CHÍNH TRỊ

Trong chính trị, tiền bạc không phải là nguồn gốc của tất cả mọi thứ xấu xa, mặc dù nhiều người vẫn nghĩ vậy. Trong thời đại bi quan yếm thế (cynicism) tùy tiện của chúng ta, bằng cách này hay cách khác mà người ta đều dễ dàng cho rằng Quốc hội phục tùng những người đã có phần đóng góp lớn nhất cho chiến dịch vận động tranh cử. Một cuộc thăm dò ý kiến gần đây của tờ New York Times cho thấy 79% người được hỏi đều tin rằng “chính phủ được điều hành bởi một số nhóm lợi ích cỡ lớn”. Ross Perot[41] kêu gào “cải cách” chiến dịch tài chính, và Tổng Thống Clinton cũng làm vậy.

Các cuộc vận động cho chiến dịch “cải cách” đều đánh vào một ảo tưởng cụ thể của thời đại chúng ta. Đó là ảo tưởng cho rằng nền dân chủ của chúng ta đang bị bao vây bởi một mưu đồ chính trị thâm độc mà tiêu diệt được nó sẽ khôi phục lại niềm tin vào chính phủ. Bản chất của mưu đồ là liên tục thay đổi. Đôi khi nó là “lợi ích lớn” và “nhiều tiền”. Lúc khác nó lại là “sự nghiệp chính trị” hay “nhóm tinh hoa” ngạo mạn. Nhưng chắc chắn là có ai đó đang làm chế độ rối tung lên và kẻ đó cần phải bị loại trừ. “Cải cách” chiến dịch tài chính, các giới hạn thời gian, và sửa đổi hiến pháp nhằm tạo dựng một ngân sách cân đối là một trong các chiến lược được ưu tiên sử dụng nhằm tiêu diệt mưu đồ sai trái này.

Sự say mê đắm đuối của chúng ta với những mưu đồ được tưởng tượng ra này đã che mờ lý do thực sự và ít mang tính cảm xúc rằng hoạt động chính trị của chúng ta không dứt khoát và gây thất vọng. Nói đơn giản, vấn đề chính trị được quan tâm nhiều nhất ngày nay là những thứ mà nhân dân Mỹ bất đồng sâu sắc và, thật sự là, những thứ khiến nhiều cá nhân cảm thấy lúng túng. Các cuộc xung đột từ việc thâm hụt ngân sách, các “hành động tích cực” nhằm khắc phục hậu quả của nạn phân biệt đối xử, việc phá thai, và các quy định của chính phủ (là một vài ví dụ cụ thể) đều là chính đáng và khó giải quyết. Để chống lại các mưu đồ khác nhau, kể cả các lem nhem về tiền bạc, người ta được miễn trách cho các bế tắc chính trị. Người ta đổ lỗi cho một nguồn áp lực lớn và xa xôi nào đó.

Đúng là các chiến dịch theo đuổi tiền bạc của chính trị gia thường là trò bẩn thỉu. Và các chiến dịch này gây tốn kém nhiều hơn bao giờ hết. Trong một nghiên cứu mới đây, nhà khoa học chính trị Herbert E. Alexander của Đại học Nam California và Anthony Corrado của Đại học Colby ước tính rằng chi phí cho chiến dịch vận động tranh cử năm 1992 là khoảng 3,2 tỷ dollar. Đó là số tiền gần gấp ba lần chi phí vào năm 1980, chỉ là 1,2 tỷ. (Những con số này đã bao gồm chi phí cho tất cả các loại chiến dịch, nhưng phần lớn là các chi tiêu liên quan đến các cơ quan quản lý nhà nước. Năm 1992, các ứng cử viên tổng thống chi tiêu khoảng 550 triệu dollar, và các ứng viên Quốc hội dùng 678 triệu. Các đảng phái chính trị và các tổ chức đã chi gần 1 tỷ dollar cho các cuộc chạy đua vào các cơ quan của quốc gia. Phần còn lại được dùng cho các cuộc chạy đua vào các vị trí khác tại tiểu bang và địa phương.)

Nhưng những số liệu “thô” này thực sự ít ấn tượng hơn so với bề ngoài của chúng. Mặc dù mức chi tiêu cho các chiến dịch đang tăng, nhưng gần như mọi thứ khác cũng gia tăng. Từ năm 1980 đến năm 1992, tổng sản phẩm quốc nội của Hoa Kỳ tăng hơn gấp đôi (chưa điều chỉnh lạm phát). Quan trọng hơn, chi tiêu cho chiến dịch vận động là rất nhỏ: chỉ khoảng 0,05% hoặc 0,06% so với GDP, như vậy là đã tăng từ 0,03% trong thập niên 1960 (xem bảng). Có vẻ như rất khó có thể coi đây là cái giá đắt đỏ cho nền dân chủ.

Chi tiêu cho bầu cử

Chi phí của các chiến dịch chính trị là một phần không đáng kể trong tổng thu nhập quốc gia - tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

NĂM

CHI TIÊU CHO CÁC CHIẾN DỊCH (USD)

% SO VỚI GDP

1968

300 triệu

0,03%

1972

425 triệu

0 04%

1976

540 triệu

0,03%

1980

1,2 tỷ

0,04%

1984

1,8 tỷ

0,05%

1988

2,7 tỷ

0,06%

1992

3,2 tỷ

0,05%

Nguồn: “Tài chính trong bầu cử năm 1992”, Alexander và Corrado, Sở Thương mại.

Tất nhiên, cái giá của nền dân chủ sẽ là đắt đỏ nếu những khoản đóng góp cho chiến dịch vận động tranh cử đều bị tham nhũng. Nhưng đã không có chuyện khuất tất đó. Không phải là tiền bạc sử dụng cho chiến dịch vận động tranh cử đã không ảnh hưởng chút nào đến một mức thuế được giảm bớt, một quy định ưu đãi, hoặc sự trợ cấp đáng nghi ngờ. Một ví dụ: công ty Archer Daniels Midland và vị chủ tịch, ông Dwayne Andreas, là các nhà đóng góp lớn, và công ty thu lợi ích từ các chương trình nông trang khác nhau, kể cả trợ giá cho việc đổi ngũ cốc lấy nhiên liệu. Phải chăng những đóng góp cho chiến dịch vận động tranh cử đã giúp bảo vệ các khoản trợ giá? Có lẽ thế. Liệu chính những đóng góp này đã tạo nên việc được trợ giá? Không. Có trợ giá bởi vì chính sách này nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các nông dân.

Tóm lại, sự đóng góp có ý nghĩa thấp hơn rất nhiều so với mức mà hầu hết mọi người giả định. Các vấn đề càng quan trọng thì số tiền dành cho các chiến dịch vận động (liên quan đến chúng) lại càng ít có ý nghĩa. An sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe và các chương trình khác dành cho người cao tuổi chiếm hơn một phần ba trong tất cả các chi tiêu của liên bang. Chúng thường xuyên được mở rộng, không phải bởi vì những người ủng hộ đã gửi đến các phần quà tặng lớn dành cho chiến dịch vận động, mà vì các chương trình này có số lượng người ủng hộ đông đảo và rất phổ biến. Cụm phức hợp công nghệ quân sự được cho là một nguồn năng lượng cho các ảnh hưởng chính trị. Tuy vậy sau Chiến tranh Lạnh, rất nhiều hợp đồng quốc phòng đã được hủy bỏ.

Nhà khoa học chính trị Alexander là một trong số những người hoài nghi chuyện tiền bạc đã chi phối chính trị, có lẽ đây là nhân vật nổi trội trong vấn đề các chi tiêu cho chiến dịch vận động tranh cử. Ông nói rằng lợi ích của các khu vực bầu cử, niềm tin chính trị, và lòng trung thành vào đảng phái chính trị là những ảnh hưởng chính yếu nhất đối với Quốc hội. Alexander từng lưu ý rằng, số lượng tiền lớn dành cho chiến dịch vận động đã đi tới những người có quan điểm mạnh. Hơn nữa, sự ảnh hưởng của các cá nhân có “lợi ích đặc biệt” đã mờ nhạt đi, vì có nhiều nhóm lợi ích đặc biệt cùng đóng góp. Giới ngân hàng biết rằng việc mua được các quy định “tự do thông thoáng” không phải là điều dễ dàng, bởi vì những người môi giới, đối thủ của họ, cũng tham gia đóng góp.

Alexander phản đối chiến dịch “cải cách” với các giới hạn chi tiêu, vì chúng không hiệu quả và phản dân chủ. Trên lý thuyết, các giới hạn hiện được áp dụng cho chiến dịch vận động tranh cử tổng thống, nhưng thực tế thì người ta lẩn tránh chuyện này. Năm 1992, Alexander và Corrado ước tính, chi tiêu cho George Bush đã vượt quá giới hạn đến 87%, chi tiêu cho Bill Clinton quá giới hạn 99%. Trong thời đại truyền thông đại chúng, các mức giới hạn làm suy yếu các bài diễn văn tự do. Có người đã trả tiền cho thời lượng phát sóng trên truyền hình và quảng cáo. Bài phát biểu chính trị không phải là một cuộc đối thoại sơ khai, nó là một cuộc đấu tranh hỗn loạn để tạo dư luận trong công chúng. Thiếu tiền bạc sẽ gây phiền toái, nếu tiền giải quyết các cuộc bầu cử - khi ứng viên có thể mua được chiến thắng. Nhưng không. Năm 1994, 8 trong số 20 ứng viên Hạ viện có những đóng góp lớn nhất đã thất cử.

Ý tưởng cho rằng tiền dành cho các chiến dịch vận động tranh cử về cơ bản sẽ làm hỏng hoạt động chính trị vẫn cứ tồn tại, chỉ bởi vì nó liên tục được lặp đi lặp lại bởi các nhóm như Common Cause[42], được nhắc lại vô thức bởi các nhà báo, và được tuyên bố bởi chính các chính trị gia. Hành động của các nhà chính trị đã gây nên sự bi quan yếm thế cao độ. Chính trị gia đáp ứng tâm trạng phản đối chính trị (antipolitical) của công chúng bằng cách than thở về nạn tham nhũng chính trị (political corruption) và sau đó ngây thơ tự hỏi tại sao công chúng nghĩ xấu cho hoạt động này. Nhưng những thiệt hại thật sự của lý thuyết “mưu đồ chính trị” là sự tự lừa dối chính mình. Thổi phồng các khuất tất xấu xa về tiền vận động tranh cử đã khiến chúng ta đi lệch hướng và mất tập trung cho các vấn đề quan trọng làm phân chia đất nước.

Newsweek

Ngày 28 tháng 8 năm 1995

CÁC NHÀ MÔI GIỚI QUYỀN LỰC ÂM THẦM

Tiết lộ mới nhất về cuốn sách mới xuất bản gần đây (Chủ nghĩa Tự do Mới: sự gia tăng quyền lực của các nhóm công dân) của nhà khoa học chính trị Jeffrey Berry là điều mà hầu như không có ai nhận thấy, ngay khi kết luận của sách hoàn toàn mâu thuẫn với quan niệm thông thường. Sau nhiều nghiên cứu, Berry bác bỏ quan niệm phổ biến cho rằng chủ nghĩa tự do đã chết trong thập niên 1980, khi nó bị bóp nghẹt bởi Ronald Reagan, nhóm vận động hành lang là các doanh nghiệp giàu có, và các nhóm chính trị bảo thủ; trong khi các đánh giá của của quốc hội lập pháp và báo chí thì ngược lại. Berry cho rằng nhóm vận động hành lang tự do tại Washington đã phát triển mạnh mẽ. Nhóm này cạnh tranh với các nhóm vận động hành lang cho kinh doanh đang có quyền lực và đè bẹp các nhóm bảo thủ, chẳng hạn như hiện đã không còn tồn tại nhóm Moral Majority[43] (Nhóm đạo đức đa số) nữa.

Theo Berry, kể từ những năm 1960, sự tập trung của chủ nghĩa tự do đã thay đổi từ các vấn đề kinh tế - tái phân phối thu nhập - sang cái mà ông gọi là “các quan tâm về lối sống, sau khi gỡ bỏ yếu tố vật chất” (postmaterial lifestyle concerns): chủ thuyết bảo vệ môi trường, tất cả các loại quyền lợi, bảo vệ người tiêu dùng, và chính phủ trong sạch. Chủ nghĩa tự do này được thể hiện chủ yếu thông qua các nhóm vận động hành lang của các công dân, như Quỹ Bảo vệ Môi trường, nhóm Quần chúng Công dân của Ralph Nader[44], và Tổ chức Quốc gia về Phụ nữ. Đây là những nhóm vận động đã vận dụng sức mạnh để gây ảnh hưởng đến chương trình nghị sự của Washington và tình hình tin tức của nó.

Với các diễn biến trong 30 năm tại Washington, phân tích này ngay lập tức thu hút sự chú ý của tôi vì tính xác đáng. Nhưng cũng có một số sự phản đối (một đoạn trích từ tờ Bưu điện Washington cuối tuần, một số cuộc phỏng vấn trên NPR[45]), nên cuộc nghiên cứu đã bị phớt lờ.

Tại sao vậy? Câu trả lời không phải là vì Berry là một người cực hữu quá khích, có xu hướng phơi bày chủ nghĩa tự do âm thầm (stealth liberalism). Ông là thành viên đảng Dân chủ (“Tôi đã được nâng lên thành một người theo chủ nghĩa tự do của Hubert Humphrey[46]”), từng giảng dạy tại Đại học Tufts từ năm 1974 và nhằm mục đích đơn giản là làm rõ sức mạnh của nhóm lợi ích.

Để làm điều này, ông đã tìm hiểu các đề xuất của quốc hội vào các năm 1963, 1979, và 1991. Có gì thay đổi? Các vấn đề nào được đưa vào chương trình nghị sự? Quan điểm của những ai được thể hiện qua báo chí? Nếu Quốc hội thông qua luật pháp, ai là người chiến thắng (nghĩa là ai có lợi)? Theo các tính toán của Berry, Quốc hội đã xem xét - không kể các các chính sách đối ngoại, trừ khi có liên quan đến thương mại - 205 vấn đề quan trọng trong những năm này. (Một đề xuất được đánh giá quan trọng nếu nó tạo ra phiên điều trần trước quốc hội và được báo chí đưa tin). Dưới đây là những gì ông tìm thấy:

Từ năm 1963 đến năm 1991, chương trình nghị sự của Quốc hội đã chuyển sang các vấn đề hậu duy vật (postmaterial: giải phóng cá nhân và xã hội khỏi các vấn đề mang tính vật chất như thu nhập hay an sinh, để dần dần chuyển sang các khía cạnh khác như quyền tự do của công dân và môi trường - ND). Năm 1963, khoảng hai phần ba các đề xuất là vấn đề kinh tế, đặc trưng bởi việc đào tạo nhân lực hoặc trợ giá cho nông trại. Đến năm 1991, khoảng 70% các vấn đề là có liên quan đến hậu duy vật, chẳng hạn như Luật bảo tồn các vùng đất ngập nước và Luật nghỉ phép vì lý do sức khỏe hoặc việc gia đình (Family Medical and Leave Act: một đạo luật cho phép người lao động được nghỉ phép không hưởng lương và vẫn giữ được việc làm khi có vấn đề nghiêm trọng về sức khỏe, hoặc cần chăm sóc người thân trong gia đình họ - ND).

Các nhóm vận động tự do hiện nhận được nhiều hậu thuẫn, ưu đãi từ báo chí. Trong các báo loại in (Berry sử dụng các tờ Thời báo New York, The Wall Street Journal, và các thông cáo báo chí hàng tuần, hàng quý của Quốc hội), các nhóm tự do này chiếm gần một nửa trang viết dành cho các nhóm vận động hành lang. Các hiệp hội công nghiệp thương mại chiếm khoảng 30%, các tập đoàn chiếm 1%. Tỷ lệ tương tự tại mạng lưới tin tức qua truyền hình.

Các nhóm vận động tự do ngày càng giành nhiều chiến thắng. Năm 1963, cứ mỗi ba lần chiến thắng của nhóm doanh nghiệp vận động hành lang thì lại có một thất bại trước nhóm tự do. Đến năm 1991, nhóm doanh nghiệp để giành được ba chiến thắng thì phải chịu đến hai thất bại. Thậm chí điều này cũng thổi phồng quyền lực của nhóm doanh nghiệp, vì thường thì ngành kinh doanh chỉ đơn giản là phản đối các đạo luật bất lợi. Các nhóm bảo thủ, chẳng hạn như Liên minh Thiên chúa giáo, đã có ít ảnh hưởng đến công tác lập pháp.

Nghiên cứu của Berry bác bỏ ý niệm cho rằng các nhóm lợi ích giàu có hoặc những người chủ trương bảo thủ đang thống trị Washington. Nhận thức phổ biến phần nào có sự khác biệt, khi Đảng Cộng hòa nắm Quốc hội năm 1994 đã tạo ra một ấn tượng sai lầm về chiến thắng của phe bảo thủ. Để xem liệu có điều này hay không, Berry đã khảo sát 12 vấn đề về môi trường trong Quốc hội khóa 104 (1995 - 1996). Ông đánh giá rằng nhóm quan tâm đến môi trường đã giành được 10 thắng lợi. Quyền lực của nhóm bảo thủ cũng đã được phóng đại, bởi vì một số ý tưởng của họ đang thắng thế và các ý tưởng đó không còn mang tính bảo thủ nữa. Về chính sách kinh tế, một ngân sách cân bằng - trong thời đại hưng thịnh - và mức lạm phát thấp hiện đang đòi hỏi nhiều sự hỗ trợ. Cải cách phúc lợi cũng vậy.

Nhưng nguyên nhân chính gây ra thông tin sai lạc - cũng là lý do tại sao nghiên cứu của Berry lại không được chú ý - là người dân cũng có lợi trong tình hình này. Chắc chắn nhóm vận động hành lang tự do cũng có. Họ thưởng thức hình ảnh của chính mình như các nhóm bần cùng nghèo khổ chiến đấu không cân sức trước các nhóm vận động là các thương gia giàu có. Trong thực tế, Berry thấy rằng nhóm vận động tự do thường được tài trợ tốt và cũng rất chuyên nghiệp. Ngược lại, các nhóm bảo thủ (nhưng không phải nhóm doanh nghiệp) thường được tài trợ kém và hoạt động yếu. Nhóm này đã không quan tâm đến việc “quảng bá” điểm yếu của họ.

Báo chí, tất nhiên, lẽ ra nên trình bày một bức tranh thật sự - nhưng thực tế thì không. Nếu làm thế, báo chí sẽ phải thừa nhận rằng nó thường xuyên trợ giúp cho các nhóm vận động tự do. Đây là kết quả từ các niềm tin được chia sẻ, nhiều hơn là từ một nỗ lực có ý thức để thúc đẩy chương trình nghị sự. Các nhà báo nhìn thấy những câu chuyện theo cách tương tự như các nhà vận động tự do đã thấy. Doanh nghiệp được coi là tham lam, ích kỷ và không có dân chủ. Các nhóm bảo thủ thì “hết nói nổi” hoặc nguy hiểm dưới góc độ xã hội. Ngược lại, nhóm vận động tự do là người canh gác với tinh thần chí công.

Sự hội tụ của các giá trị dễ dàng được suy ra từ cuộc khảo sát ý kiến. Hãy xem một cuộc thăm dò ý kiến năm 1995 dành cho các phóng viên Washington. Chỉ có 2% phóng viên tự cho mình thuộc phe bảo thủ, trong khi 89% đã bỏ phiếu cho Clinton năm 1992 (so với tỷ lệ 43% công chúng Mỹ ủng hộ ông này). Chỉ có 4% phóng viên thuộc Đảng Cộng hòa (50% thuộc đảng Dân chủ, và 37% độc lập không đảng phái). Họ, cùng với những giá trị này, theo bản năng sẽ làm giảm thiểu sức mạnh của những “người tốt” (ý nói nhóm vận động tự do - ND) và làm cho những “kẻ xấu” (ý nói các nhóm vận động cho doanh nghiệp và nhóm bảo thủ - ND) trông đáng sợ hơn. Ví dụ, một câu chuyện mang tính dẫn dắt trên Thời báo New York đã chỉ ra rằng các doanh nghiệp chi phối kỳ họp Quốc hội gần nhất (Quốc hội làm cho hầu hết các nhóm vận động hành lang của doanh nghiệp mỉm cười hài lòng). Sự thực của câu chuyện này lại cho thấy nhóm doanh nghiệp chỉ giành được một vài chiến thắng khiêm tốn và đang chơi phòng thủ với mức chi phí tối thiểu và “quyền bệnh nhân”[47].

Trong một nền dân chủ, sự hưng thịnh của các lực lượng vận động hành lang tự do là lành mạnh. Chúng thường thành công vì mang ý nghĩa là kênh phát ngôn cho ý kiến của công chúng. Ví dụ, theo báo cáo từ một cuộc thăm dò ý kiến của viện nghiên cứu Pew, 80% người dân Mỹ thấy mình là người quan tâm bảo vệ môi trường. Cái không lành mạnh là các ý niệm làm khuôn mẫu (stereotype) sai lệch đã xuyên tạc những bên có ảnh hưởng. Chúng phân biệt đối xử với một số quan điểm và phổ biến các ý tưởng cho rằng hệ thống chính trị - bị nắm bắt bởi các lực lượng không có dân chủ - đã bị tha hóa và không hiệu quả. Sự thật thì chính trị thường bế tắc vì các ý kiến của công chúng gây bế tắc. Cũng trong cuộc thăm dò này của Pew, gần một nửa số người Mỹ nghĩ rằng các quy định của chính phủ là có hại nhiều hơn có lợi. Khuôn mẫu của chúng ta đã chuyển đổi một cách sai lệch các bất đồng ý kiến hợp pháp thành một âm mưu bi quan yếm thế áp vào công chúng.

Newsweek

Ngày 13 tháng 12 năm 1999

NĂM 1994

Bất chấp đã được quảng bá thổi phồng, ý nghĩa lịch sử của thắng lợi lớn dành cho đảng Cộng hòa gần đây vẫn đang bị đánh giá thấp. Nó đã để lại dấu ấn còn nhiều hơn một sự thay đổi trong quyền lực của Quốc hội hoặc sự sụp đổ cuối cùng của liên minh Thỏa hiệp Mới[48]. Ý nghĩa cao nhất của thắng lợi này là tâm lý: nó thay đổi cách chúng ta nghĩ và nói về chính trị. Kể từ những năm 1930, nước Mỹ đã tự coi mình là một quốc gia Dân chủ, chủ yếu bị chi phối bởi là các cử tri và ý tưởng Dân chủ. Trong chốc lát, sự suy đoán kiểu này bị sụp đổ tan tành. Theo tôi, các điều kiện của các cuộc tranh luận chính trị đã thay đổi về cơ bản và không thể đảo ngược được.

Với nhận định này, tôi không có ý cho rằng chúng ta là một quốc gia của đảng Cộng hòa. Người ta vẫn còn tiếp tục theo dõi xem liệu đảng Cộng hòa có thể xây dựng được lòng trung thành của cử tri hay người dân Hoa Kỳ sẽ trở thành dân du mục chính trị, lang thang vô định giữa các đảng phái và các ứng cử viên. Cũng không phải là chính phủ liên bang sẽ ngay lập tức thu nhỏ lại. Như tôi đã viết trước đây, một chính phủ Lớn (chính phủ cồng kềnh, không hiệu quả - ND) vẫn tồn tại, và không có kế hoạch nào của đảng Cộng hòa để giải tán nó. Chẳng hạn, kế hoạch ngân sách năm 1993 của các nhà lãnh đạo Hạ viện thuộc đảng Cộng hòa lẽ ra phải cắt giảm được chi tiêu hơn con số 400 tỷ dollar trong 5 năm - mới chỉ là 5% của 8 nghìn tỷ dollar đã chi tiêu trong thời kỳ này. Nhưng điều này không hạ thấp được chiến thắng của đảng Cộng hòa xuống thành một sự ngẫu nhiên, do các cử tri bi quan yếm thế hoặc đột ngột quay lưng với Bill Clinton gợi ra.

Từ năm 1980, các cử tri đã luôn ủng hộ các ứng cử viên tổng thống nào tán thành một chính phủ nhỏ gọn hơn. Điều này không chỉ mô tả Ronald Reagan và George Bush, mà còn là các “đảng viên Dân chủ kiểu mới” như Clinton và Ross Perot. “Bế tắc” chính trị tồn tại chủ yếu là do các cử tri vẫn quay về với Quốc hội thuộc đảng Dân chủ, ngoại trừ một khoảng thời gian ngắn (1981 - 1986) là khi đảng Cộng hòa kiểm soát Thượng viện. Và Quốc hội thuộc đảng Dân chủ đã thể hiện một nét đạo đức chính trị khác biệt: Thỏa hiệp Mới và Xã hội Lớn. Đó là một thái độ, mặc dù là tập hợp của nhiều ý tưởng, cho rằng một chính phủ mạnh cần dịch chuyển được để giải quyết hàng loạt các vấn đề xã hội.

Trong khi đảng Dân chủ kiểm soát Quốc hội, họ có thể duy trì tình hình mà trong đó các hoạt động của chính phủ phản ánh quan điểm của hầu hết mọi người dân. Nhìn chung, tôi cho rằng nhận định này đã được chấp nhận bởi hầu hết các đảng viên Cộng hòa, của công chúng, và đội quân báo chí chính trị. Điều đó có nghĩa là nước Mỹ tự coi mình là một quốc gia “dân chủ” mặc dù có rất nhiều mâu thuẫn: thắng lợi liên tục trong bầu cử tổng thống dành cho đảng Cộng hòa (bảy trong số mười hai kỳ bầu cử kể từ Thế chiến II và năm trong số bảy kỳ sau đó, kể từ năm 1968 đến nay), trong khi lòng trung thành đối với đảng này cũng suy yếu. Ví dụ, năm 1952 chỉ có 13% cử tri đã “chia đôi lá phiếu” của họ cho ứng cử viên tổng thống và Hạ viện (nghĩa là bầu cho tổng thống thuộc đảng này thì Hạ nghị sĩ thuộc đảng khác - ND); năm 1972 thì tỷ lệ này là 30%, và sau đó không bao giờ xuống dưới mức 25%.

Nhưng xét từ góc độ tâm lý, đảng Dân chủ kiểm soát Quốc hội đã vô hiệu hóa những xu hướng này. Trong chế độ của chúng ta, quyền lực xuất phát từ “nhân dân”, và Quốc hội gần gũi người dân nhất. Kết quả là, các cuộc bầu cử Quốc hội truyền vào những người chiến thắng một cảm giác tuyệt vời của thế thượng phong, trong khi áp đặt một cảm giác thất thế lên bên thua cuộc. Cho đến nay, các đảng viên Dân chủ đương đại chưa bao giờ thấy mình là đảng của thiểu số. Các chiến thắng trong bầu cử tổng thống của đảng Cộng hòa có thể được bàn bạc qua loa như một “cuộc đua ngựa”: nếu có các con ngựa khác thì kết quả có thể đã khác đi. Tương tự như vậy, sự tăng trưởng của nhóm “cử tri độc lập” có thể được giảm thiểu, vì cũng đã đủ số lượng “độc lập” này bầu cho đảng Dân chủ để duy trì quyền kiểm soát của đảng này trong Quốc hội.

Biến động năm 1994 đã xóa nhòa những thói quen tư duy kiểu này. Các nhà khoa học chính trị sẽ tranh luận nhiều về lý do tại sao đảng Dân chủ lại kiểm soát Quốc hội trong thời gian dài. Có lẽ đất nước cũng là đảng Dân chủ. Có lẽ đảng Cộng hòa chỉ có các ứng viên kém. Có lẽ cử tri ưa thích người đương nhiệm để bảo vệ khu vực bầu cử của họ. Hoặc có lẽ sự sắp xếp lại khu vực bầu cử (redistricting)[49] sáng suốt đã có hiệu quả. Dù nguyên nhân là gì đi nữa thì tình hình này cũng không còn nữa. Thay vì vậy, một nguồn lực huyền thoại trong cuộc bầu cử quốc hội đã phá hỏng lời tuyên bố về tình trạng “thắng thế” của đảng Dân chủ, mặc dù cái nhãn đa số cũng đã không chuyển sang phía Cộng hòa; bởi vì một cuộc bầu cử cũng chỉ là một cuộc bầu cử mà thôi.

Nhưng với việc đập tan tuyên bố của đảng Dân chủ, cuộc bầu cử đã làm “thay đổi cuộc đối thoại”, như nhận định của Terry Eastland, một cựu quan chức trong chính quyền Reagan. Khi đảng Dân chủ còn chiếm được đa số, ý tưởng của họ đã ngay lập tức trở thành “chính thống”. Sự thắng lợi lớn của đảng Cộng hòa đã chấm dứt việc này, nhưng kết quả của nó vẫn còn chưa được đánh giá đúng mức. Lấy một ví dụ: cải cách phúc lợi. Một và