← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ NHẤT - Chương 1 “AN-CHIU”

Như mọi chủ nhật, trường trung học ở phố Nô-vô-lip-xki chìm đắm trong im lặng. Dưới tấm da mặt nhà có khắc mấy tiếng Nga “Trường Nam trung học”, cổng chính khóa chặt, hành lang toàn cột trông như một ngôi đền bỏ hoang. Cuộc sống đã rút khỏi cái công trình kiến trúc chạy dài, thấp, chỉ có một tầng gác này, khỏi những gian phòng sáng sủa, bàn kê hàng dọc, gỗ đen, mặt bàn xây xát đầy vết dao con khắc tên kỷ niệm, chỉ nghe thấy tiếng chuông chiều ở nhà thờ Đức Mẹ Đồng Trinh thong thả gióng, thỉnh thoảng xen lẫn tiếng xe bò lọc cọc hoặc vó ngựa uể oải của chiếc xe khách “đô-rốt-sca” từ ngoài phố vọng vào. Phía trong hàng rào vây quanh sân trường, bốn cây tử đinh hương khẳng khiu, bụi bậm đang trổ hoa. Mùi hương ngào ngạt thường làm khách qua đường, mặc diện ngày chủ nhật, bất giác ngoảnh lại, ngạc nhiên. Chưa sang tháng sáu mà trời đã nóng. Ở Vác-xô-vi cái nóng cũng khắc nghiệt, thấm thía như cái rét.

Bầu không khí tĩnh mịch của ngày chủ nhật ấy đang bị khuấy đảo. Từ gian trái tầng dưới, nơi ở của ông Vla-đi-xoáp Xkhua-đốp-xki, giáo sư vật lý đồng thời là hiệu phó, vọng ra những tiếng động bí mật như búa đập không thành nhịp. Bỗng thấy xoảng một cái, một công trình xây dựng nào đó đổ nhào; tiếp theo là tiếng trẻ con hò la, the thé. Rồi lại tiếng khua.

Rồi những mệnh lệnh ngắn gọn, bằng tiếng Ba Lan:

- Hê-la (Hélena) ơi, tao hết đạn rồi!

- Cái tháp! Dô-dếp (Józef) ngắm cái tháp!

- Ma-ni-a (Manya)! Tránh ra!

- Ấy chớ! Em mang thỏi gỗ đến mà!

Lại ầm ầm, bao nhiêu thỏi gỗ vuông rơi tung tóe xuống sàn đánh bóng xi như lệnh vỡ: ngọn tháp không còn nữa. Tiếng hò hét càng loạn xạ. Đạn bay tới tấp, trúng đích.

Bãi chiến trường là một phòng rộng, vuông vắn, cửa sổ mở trông ra sân trường phía sau. Bốn chiếc giường con kê bốn góc. Bọn trẻ nhỏ từ năm đến chín tuổi rưỡi đang chơi trận giả, la hét inh ỏi. Chẳng là ông cậu, vốn thích chơi bài, đêm Nô-en có tặng mấy cháu bộ đồ chơi xếp gỗ này. Và chắc ông không ngờ được công dụng cuối cùng của nó. Vài ngày đầu, Dô-dếp, Brô-ni-a, Hê-la và Ma-ni-a còn ngoan ngoãn chơi xếp thành quách, cầu cống, nhà thờ theo mẫu vẽ trên hộp gỗ to. Nhưng rồi các mảnh gỗ ấy mau chóng đi theo số phận của chúng. Cột nhà bằng gỗ sến ngắn biến thành pháo, ô vuông thành đạn trái phá và mấy nhà kiến trúc tí hon đã nghiễm nhiên là những nguyên soái.

Józef đang nằm rạp xuống sàn, lấn dần tới và lần lượt đẩy khẩu pháo của mình về phía địch. Ngay giữa trận đánh gay go, nét mặt đứa trẻ khỏe mạnh trông vẫn nghiêm túc như hệt mọi viên tướng ra trận. Nó lớn tuổi hơn cả, sáng trí nhất trong bốn đứa trẻ, và cũng chỉ mình nó là con trai ở đây. Mấy đứa kia toàn con gái, ăn mặc như nhau, có viền xếp nếp trên bộ áo ngày chủ nhật, yếm màu nâu sẫm thêu hoa dây.

Phải nói rằng bọn con gái cũng cừ đây. Hê-la, đồng minh của Dô-dếp, mắt long lên sòng sọc. Nó uất ức vì mới chỉ sáu tuổi rưỡi, không được ném những thanh gỗ xa hơn, mạnh hơn. Chao, giá nó cũng lên tám như Brô-ni-a, cô bé múp míp, hồng hào, có mớ tóc hung cứng quật gió trong khi nó khoa chân múa tay chống đỡ cho đạo quân của mình đang dàn ở giữa hai cửa sổ.

Cạnh Brô-ni-a (Bronia), một tiểu đội phó tí hon mặc yếm có hoa dây lon ton từ tốp quân này, sang tốp quân khác nhặt đạn, bận rộn, mặt mũi đỏ bừng môi khô lại vì hò hét và cười nhiều quá.

- Ma-ni-a!

Đang chạy, đứa bé sửng sốt dừng lại, buông rời vạt yếm nó đang ôm gọn vào ngực. Thỏi gỗ rơi loảng xoảng xuống sàn.

- Gì cơ? Chị Dô-sa (Sophia)?

Những đứa trẻ của gia đình Sklodowski: từ trái sang phải: Sophia, Hélèna, Manya, Józef et Bronislawa, 1872.

Trong năm đứa con ông giáo, Dô-sa nhớn nhất. Tuy chưa đến mười hai tuổi, nhưng đối với 4 em, cô đã ra vẻ chững chạc. Tóc màu tro, hất về phía sau, xòa xuống ngang vai, mặt xinh xắn nhiệt tình, đôi mắt cũng màu tro, mơ màng tuyệt đẹp.

- Mẹ bảo là đã chơi quá lâu rồi, phải nghỉ thôi.

- Nhưng Brô-ni-a còn cần đến em cơ mà. Em mang thỏi gỗ đến cho chị ấy.

- Mẹ gọi em ra với mẹ đấy.

Sau một giây phút lưỡng lự, Ma-ni-a cầm tay chị ung dung đi ra. Kể mới năm tuổi mà chơi đánh trận thì cũng mệt đấy, cô bé cũng nhọc rồi, chẳng phải là không muốn thôi. Có tiếng ngọt ngào, âu yếm từ buồng bên:

- Ma-ni-a!... Ma-ni-u-sa!... An-xi-u-pê-trô của mẹ đâu?

Ở Ba Lan, người ta ưa gọi nhau bằng những tên nựng nịu ấy.

Trong gia đình ông giáo, từ trước đến nay cô cả Xô-phi vẫn được gọi thân mật là Dô-sa, cô hai Brô-nhi-xoa-va là Brô-ni-a, Hê-lê-na thành Hê-la, còn Dô-dếp là Dô-sô. Nhưng có nhiều tên nhất là Ma-ni-a, cô út, yêu nhất nhà. Ma-ni-a là tên gọi thường ngày, Ma-ni-u-sa là gọi âu yếm, và từ khi còn đặt trong nôi, cô được cả nhà đặt cho một cái tên ngộ nghĩnh: An-xi-u-pê-trô. An-chiu bé nhỏ.

- Sao tóc con bù thế? Sao mặt con đỏ thế? An-chiu bé nhỏ của mẹ!

Hai bàn tay xanh xao, gầy guộc dịu dàng thắt lại dải yếm, vuốt ve những búp tóc quăn, để lộ ra gương mặt cương nghị của một nữ bác học vĩ đại tương lai. Dần dần, đứa bé trở lại yên tĩnh. *

Manya rất yêu quý mẹ. Trên trái đất này, có lẽ chẳng ai xinh đẹp, dịu hiền, đoan trang bằng mẹ. Bà giáo là con gái đầu lòng của một gia đình khá giả ở nông thôn. Thân sinh là Fê-lích Bô-gu-xki, thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ thường gặp ở Ba Lan thời đó. Không đủ sống trên mảnh đất của mình, ông phải làm quản lý cho các nhà quý tộc khác giàu sang và có thế lực hơn. Trong sáu chị em, có lẽ bà giáo tính tình thăng bằng và sáng trí nhất, không bị ảnh hưởng một kiểu Xla-vơ nào. Chẳng lập dị, không sôi nổi mà cũng không thái quá. Tốt nghiệp xong trường phố Phrê-ta ở phố Vác-xô-vi, được tiếp thụ một nền giáo dục ưu tú, bà quyết đi vào sư phạm, sau một thời gian dạy học, được cử làm hiệu trưởng. Năm 1860, khi giáo sư Xkhua-đốp-xki hỏi cưới, ông đã chọn được một người vợ hoàn toàn. Bà không có của hồi môn nhưng là con nhà giáo, mộ đạo, hoạt bát, có một nghề nghiệp chắc chắn và lại biết âm nhạc. Bà chơi dương cầm và hát những bài hát trữ tình thời ấy với một giọng say sưa, tuyệt diệu.

Mẹ của bà Marie Curie.

.

Wladyslaw Sklodowski, Cha của Bà Marie Curie.

Bà rất đẹp. Bức ảnh hồi mới cưới cho ta thấy một khuôn mặt đều đặn, mái tóc dày óng mượt bện giản dị, đôi mắt xám có đuôi theo kiểu Ai Cập có cái nhìn dịu hiền, huyền ảo dưới cặp mày ngài.

Một cuộc hôn nhân nghe nói là “tương xứng”. Họ nhà trai cũng thuộc tầng lớp quý tộc nhỏ mà thảm họa của nước Ba Lan thời đó làm cho sa sút, gốc tích ở Xkhua-đi, một vùng thôn trại cách Vác-xô-vi độ một trăm cây số. Nhiều gia đình thông gia với nhau cùng quê quán ở Xkhua-đi đã lấy tên là Xkhua-đốp-xki.

Nghề nghiệp tự nhiên của những hộ này là canh tác, trồng trọt. Gặp thời tao loạn, đất đai ngày càng cằn cỗi và phân tán dần. Đến thế kỷ 18, ông tổ trực tiếp của Vla-đi-xoáp Xkhua-đốp-xki có vài trăm mẫu ruộng, sống phong lưu nhàn hạ, đời con hãy còn là điền chủ sung túc nhưng đến Dô-dếp, thân sinh của ông giáo thì không thế nữa.

Muốn nâng cao thân phận bạc bẽo thấp hèn, và làm vinh dự cho cái tên mà ông tự hào, Vla-đi-xoáp hướng về đường học vấn. Sau nhiều năm lăn lộn với nghề mà các cuộc đảo chính và chiến tranh làm cho bi đát, ông được bổ nhậm làm hiệu trưởng trường Nam trung học một thành phố quan trọng là Lu-blin. Đó là người trí thức đầu tiên trong họ.

Hai gia đình Bô-gu-xki và Xkhua-đốp-xki đều đông anh em, một nhà sáu, một nhà bảy. Nhiều người làm ruộng, đi giáo học, một người là thẩm phán tòa án, một nữ đi tu và cũng có một vài nhân vật kì quặc. Hen-rich, một em trai của bà giáo là tay chơi bất trị, cứ tưởng mình tài giỏi về những chuyện phi thường, mạo hiểm. Và anh chàng Di-xoáp – em ông giáo – sống lông bông hưởng lạc, đang là sinh viên ở Pê-téc-bua[2], gặp cuộc khởi nghĩa ở Ba Lan, đã đi lính, trong thời gian lánh nạn ở Tu-lu-dơ[3] đã từng làm thơ bằng tiếng Prô- văng-xơ rồi trở về nước, làm quản lý văn khế ở các tỉnh, cuộc đời cứ luôn luôn phất rồi lại mạt.

Trong hai dòng họ, những tâm hồn mơ mộng, đắm đuối ở cạnh những tính tình điềm đạm, những hiền triết sống bên những nhà du hiệp.

Cha mẹ của Ma-ri Qui-ri (Marie Curie) là những người khôn ngoan. Vla-đi-xoáp noi gương bố, học hết đại học ở Pê-téc-bua, trở về Vác-xô-vi dạy toán và lý. Bà giáo mở trường nữ học có kí túc xá mà các nhà giàu sang trong thành phố đều cho con gái đến học. Gia đình ở phố Phrê-ta trên gác, sống ở đây tám năm trời. Mỗi buổi sáng khi thầy giáo bước chân qua cửa; nhìn ra sân, thầy thấy các bao lơn nhẹ nhàng như những tràng hoa giăng từ cửa sổ này đến cửa sổ nọ, thì mấy buồng phía trước đã rộn ràng tiếng cười nói của các cô học sinh đợi giờ học đầu tiên trong ngày.

Năm 1869, ông giáo được bổ nhiệm về dạy và làm hiệu phó trường Nam trung học phố Nô-vô-lip-xki, bà giáo phải thích nghi với sự thay đổi này. Không thể đến chỗ ở mới do chức vụ của chồng được thu xếp, đồng thời tiếp tục quản lý kí túc xá và chăm sóc con cho chu đáo. Bà đành nhường lại trường tư thục, lòng rất luyến tiếc, rời phố Phrê-ta, nơi trước đây ít lâu – ngày 7 tháng 9 năm 1867 – cô bé Ma-ni-a ra đời.

Ma-ni-a chưa hiểu nổi cái lý do khe khắt của những cử chỉ ấy và nỗi cô quạnh mà mẹ em đang giam hãm mình vào. Bà giáo lâm bệnh nặng. Triệu chứng lau phổi đầu tiên chớm nở ngay từ khi mới sinh Ma-ni-a cho đến nay đã năm năm rồi, khám và chữa rất nhiều, bệnh vẫn cứ phát triển. Người đàn bà ngoan đạo ấy rất can đảm, luôn luôn gọn gàng trong ăn mặc, bận rộn việc nội trợ, làm ra vẻ như là mình vẫn khỏe. Nhưng bà tự ràng buộc vào một khuôn khổ chặt chẽ: dùng thìa, bát riêng và không hôn hít các con. Mấy đứa trẻ chỉ biết phảng phất về căn bệnh nguy hiểm của mẹ: thỉnh thoảng lại một cơn ho khan chúng nghe thấy từ buồng bên, nét mặt rầu rĩ của ông giáo và một câu ngắn gần đây được thêm vào đoạn cầu nguyện buổi chiều: “Cầu chúa cho mẹ chúng ta khỏe lại”.

Người mẹ trẻ đứng dậy đẩy nhẹ bé Ma-ni-a cứ bám chặt lấy váy bà.

- Ma-ni-u-sa, cho mẹ yên nào. Mẹ bận.

- Con ở đây được không? Con đọc một tí mẹ nhé?

- Mẹ thích con ra vườn. Ngoài kia trời đẹp quá.

Cứ nói đến đọc sách thì đôi má Ma-ni-a lại ửng hồng. Năm ngoái, Brô-ni-a ở thôn quê học chữ cái một mình thấy chán mới rủ bé chơi làm “cô giáo, học trò”. Trong mấy tuần, hai chị em xếp các chữ bằng bìa cắt, đặt lộn xộn. Rồi một buổi sáng, trong khi Brô-ni-a ê a đánh vần một bài rất dễ cho bố mẹ nghe, Ma-ni-a sốt ruột giằng lấy sách đọc một mạch hết câu đầu. Mới đầu nó thấy thích thú vì mọi người lắng nghe nên cứ kéo dài cái trò say sưa ấy. Nhưng bỗng nó thấy sợ hãi. Sự kinh ngạc lộ trên mặt ông bà Xkhua-đốp-xki, còn Brô-ni-a thì nhăn nhó, phụng phịu. Nó bập bẹ vài câu lí nhí rồi bật tiếng khóc không nén được. Đứa trẻ xuất chúng giờ đây chỉ còn là một em bé bốn tuổi, đang nức nở, và nhắc đi nhắc lại rất thiểu não:

- Con xin lỗi… con không cố ý, chẳng phải lỗi con… chẳng phải tội của Brô-ni-a. Tại là dễ quá.

Tâm hồn trẻ thơ của nó chợt hiểu ra rằng có lẽ không bao giờ được tha tội vì đã tập đọc sớm thế.

Từ buổi sáng đáng ghi nhớ ấy, Ma-ni-a làm quen dần với các mặt chữ, và nếu không tiến bộ rõ rệt, đó là tại cha mẹ không bao giờ để em cầm đến quyển sách. Là những nhà sư phạm thận trọng, ông bà Xkhua-đốp-xki không muốn con học quá sớm; mỗi khi đứa bé giơ tay muốn lấy một trong những tập tranh có chữ to để quanh trong nhà thì lại được gợi ý: “Con chơi xếp gỗ nhá! Búp bê của con đâu rồi? Con hát cho mẹ nghe nào!”. Và như hôm nay: “Mẹ thích con ra vườn hơn”.

- Con đi tìm chị Dô-sa vậy

- Cũng được.

- Dô-sa!

Qua cái sân nhỏ hẹp nơi hằng ngày chúng vẫn chơi “đuổi bắt” và “bịt mắt bắt dê”, hai chị em cầm tay nhau đi dọc theo trường trung học, đến một cái vườn lớn, cửa gỗ mọt ọp ẹp. Giữa bốn bức tường, những thảm cỏ lưa thưa, những cây cao tù hãm thoảng một mùi đất, một hương vị đồng nội.

- Chị Dô-sa ơi! Bao giờ lại đi Dơ-vô-la đây?

- Sau tháng bảy mới đi cơ. Em còn nhớ Dơ-vô-la à?

Ma-ni-a có một trí nhớ lạ lùng, không quên cái gì hết. Cái thác nước mùa hè năm ngoái mấy chị em bì bõm hàng giờ, mò đất nặn “những bánh xà phòng” rồi đem phơi nắng trên một tấm ván ở một chỗ chỉ có chúng biết mà thôi, đứa nào đứa nấy váy và yếm bùn bê bết. Bảy tám đứa trẻ rủ nhau trèo lên cây chè già, đem theo cả cô bé có đôi tay quá yếu, đôi chân ngắn ngủn. Họ lấy những lá cải vừa lạnh vừa giòn, phủ lên những cành to và gói trong những lá cải khác, nào là quả dâu tây, củ cà rốt non mơn mởn, quả anh đào, để giấu trong hốc tường cho tươi. Lại nhớ đến làng Mác-ki nữa, cái kho lúa nóng khiếp, Dô-dếp vẫn đến học cửu chương, chúng chơi vùi Ma-ni-a dưới đống lúa. Còn bác Xkri-pốp-xki mỗi lần đánh xe ngựa qua, hay quất cái roi da nghe đến là vui! À, còn đàn ngựa của chú Xa-vi-ê nữa!

Bọn trẻ tỉnh thành ấy thường có những ngày hè say sưa như vậy. Họ hàng đông chỉ một nhánh ra ở thành phố. Tỉnh nào cũng có hai dòng họ Xkhua-đốp-xki và Bô-gu-xki làm ruộng, nhà cửa ở thôn quê tuy không rộng rãi lắm, nhưng cũng có đủ buồng để đón ông giáo cùng gia đình về nghỉ mát. Do đó mặc dù hoàn cảnh bố mẹ không lấy gì làm phong lưu lắm, Ma-ni-a chưa hề biết đến những nhà trọ tầm thường tại những nơi nghỉ mát bình dân ở Vác-xô-vi. Và cứ mùa hè, cô bé gia đình trí thức ấy lại trở thành một em gái thôn quê thật sự, đúng với bản chất sâu xa của dòng họ.

- Chúng mình chạy thi nào… chị cuộc là sẽ đến cuối vườn trước Ma-ni-a đấy. – Dô-sa vui vẻ thốt lên với giọng chững chạc của một chị cả.

- Em chả muốn chạy đâu. Em muốn nghe kể chuyện cơ.

Không ai biết kể chuyện như Dô-sa, cả ông giáo và bà giáo, trí tưởng tượng của cô thêm thắt nhiều chi tiết li kì vào những giai thoại, những chuyện thần tiên như những khúc biến tấu tài tình của một người chơi đàn rất giỏi. Dô-sa còn tự nghĩ ra những đoạn hát kịch ngắn và đóng rất sôi nổi trước con mắt ngạc nhiên của các em. Chúng hoàn toàn bị chinh phục bởi tài tác giả và nghệ sĩ. Ma-ni-a lúc thì cười ngặt nghẽo, khi thì run bắn lên khi nghe những chuyện hoang đường quái đản mà tuổi lên năm của nó khó mà theo dõi liên tục.

Hai chị em quay về nhà. Càng đến gần trường, Dô-sa càng hạ giọng, và tự kiềm chế. Câu chuyện còn đang nghĩ và kể dở, cô bỗng dừng lại. Đi qua gian nhà phía tay phải có cửa sổ treo rèm cứng, hai đứa bé im bặt.

Sau những rèm cửa ấy, có một con người mà gia đình ông giáo rất ghét mà cũng rất sợ, đó là viên hiệu trưởng I-van-nốp, đại diện của chính phủ Sa hoàng trong trường này.

*

Năm 1872. Còn ai khổ nhục bằng người dân Ba Lan “thuộc Nga” ở vào hàng ngũ trí thức đa cảm, mà thần kinh đã căng thẳng, và đầu óc cách mạng đang âm ỉ, họ cay đắng, nhức nhối hơn mọi tầng lớp khác vì ách đô hộ đè nặng trên đầu.

Đúng một thế kỷ rồi, những vua chúa tàn bạo, lân bang đáng sợ của một nước Ba Lan suy nhược đã quyết định bóp chết nước này. Đức, Nga, Áo đã ba lần chia đi cắt lại mảnh đất đau thương đó. Người dân Ba Lan đã đứng lên chống lại bọn đô hộ. Mỗi lần thất bại, cái thòng lọng buộc vào cổ họ lại càng thắt chặt. Sau khi cuộc đảo chính oanh liệt năm 1831 không thành, Sa hoàng Ni-cô-lai I đã ra lệnh trừng trị khốc liệt: hàng loạt người yêu nước bị tù đày, tịch thu tài sản.

Năm 1863, lại một lần dấy lên, lại một lần bị dìm trong máu. Nghĩa quân chỉ có đinh ba, lưỡi liềm và gậy gộc chống với súng đạn của Sa hoàng. Mười tám tháng chiến đấu thất bại, ngoài thành quách Vác-xô-vi dựng lên năm giá treo cổ, thây bao người yêu nước vật vờ trước gió.

Sau thảm họa đó, bọn thống trị tìm mọi cách khuất phục nước Ba Lan không cam tâm chịu chết. Từng đoàn tù chính trị tay cùm chân xích bị áp giải đi Xi-bê-ri, đến những nơi quanh năm phủ tuyết. Hàng loạt người khác kéo vào Ba Lan để Nga hóa vùng này. Đó là những cảnh sát, giáo sư, viên chức, mà nhiệm vụ là do thám dân Ba Lan, khủng bố tôn giáo của họ, cấm đoán sách báo tiến bộ, dần dần xóa bỏ tiếng nói của nước này, tóm lại, tiêu diệt linh hồn một dân tộc.

Những cuộc đề kháng được tổ chức ngay ở hàng ngũ bên kia. Kinh nghiệm xương máu cho người Ba Lan thấy rõ ràng lúc đó, thời cơ chưa đến để giành lại tự do bằng vũ lực. Họ buộc lòng phải đợi và chống lại những nguy cơ của sự chờ đợi là nhu nhược và chán nản.

Thế là cuộc chiến đấu thay đổi trận địa. Những anh hùng giờ đây không còn là những chiến sĩ chỉ có liềm hái trong tay xông vào đám quân Cô-dắc và ngã xuống, miệng hô như nhân vật Lu-i Mác-buyt nổi tiếng: “Sung sướng thay được chết cho Tổ quốc ta!” mà là những trí thức, những nghệ sĩ, nhà tu hành, thầy giáo – những người quyết định tinh thần của thế hệ mới. Sự dũng cảm của họ là cố nén lòng, giấu những ý nghĩ tình cảm của mình, chịu nhẫn nhục bám lấy những vị trí mà Sa hoàng còn thí cho họ để từ đó, có thể bí mật đào tạo lớp trẻ, hướng dẫn đồng bào.

Thế là trong mỗi trường trung học ở Ba Lan, thường có mâu thuẫn sâu sắc giữa những người chiến bại và những kẻ chiến thắng, những giáo sư bị chèn ép và những hiệu trưởng do thám, những Xkhua-đốp-xki và những I-va-nốp, dưới bề mặt lịch thiệp giả tạo.

Đặc biệt đáng ghét là tên I-va-nốp. Hắn không một chút thương xót những người làm việc dưới quyền bị bắt buộc phải dạy trẻ nước mình bằng tiếng Nga. Đương ngọt ngào, đường mật, hắn có thể trở mặt ngay, văng tục cục cằn, thô lỗ. Tuy dốt đặc cán mai, hắn vẫn soi mói xem lại bài làm của các học sinh ngoại trú để bới tìm “những cách nói Ba Lan”. Giữa I-va-nốp và ông Xkhua-đốp-xki quan hệ trở nên lạnh nhạt như băng giá kể từ ngày ông giáo, muốn bênh vực học trò, đã bình tĩnh nói thẳng vào mặt hắn: “Thưa ông I-va-nốp, em bé này chẳng qua chỉ sơ ý nên mới viết lỗi. Bản thân ông còn có thể viết tiếng Nga sai, và rất nhiều lần nữa là khác. Tôi chắc rằng cũng như những học sinh của tôi, hẳn ông không cố ý…”

Dô-sa và Ma-ni-a đi chơi về, bước vào phòng ông giáo, thấy bố mẹ đang nói chuyện về I-va-nốp. Ông Xkhua-đốp-xki khẽ bảo vợ:

- Bà biết không, tuần trước, ở nhà thờ, bọn học sinh năm thứ hai tổ chức một buổi cầu nguyện “cho mong muốn tha thiết nhất của họ được toại nguyện”. Chúng góp tiền với nhau để trả phí tổn và khăng khăng không cho cha xứ biết điều mong muốn ấy là gì. Thế mà hôm qua, thằng Ba-đin-xki thú hết với tôi: “Bọn con trai được tin là con gái tên I-va-nốp bị thương hàn, vì căm ghét hắn mà chúng cầu kinh cho con bé chết đi”. Cha cố mà biết điều này thì hắn phát điên lên vì đã vô tình nhận một trách nhiệm trọng đại như vậy.

Ông giáo tỏ vẻ thích thú về chuyện đó, nhưng bà giáo vốn ngoan đạo nên không cười. Bà lúi húi với công việc đang làm, một công việc khá vất vả: tay dao, tay dùi, bà khâu giầy. Nào người mẹ tần tảo ấy có nề hà một việc gì. Từ dạo sinh nở và bệnh tật giữ chân ở nhà, bà đã học nghề đóng giầy và giờ đây, những đôi giầy da mà đàn con đi mòn như phá chỉ tốn tiền da mà thôi. Cuộc sống chẳng dễ dàng chút nào…

- Đôi này khâu cho con đấy, An-chiu à. Con xem, sẽ rất đẹp.

Ma-ni-a chăm chú nhìn đôi bài tay dài cắt đế, rút sợi dây nhớp nháp. Bên cạnh, ông giáo ngồi thoải mái trong cái ghế bành ông ưng ngồi nhất… chao, giờ mà trèo lên lòng bố thì thích nhỉ, tháo cái nơ bố thắt rất cẩn thận ở cổ áo, đùa nghịch bộ râu màu hung trên khuôn mặt điềm đạm đang nở một nụ cười hiền hậu…

Chuyện người lớn nghe chán lắm! Chỉ những I-va-nốp… cảnh sát… Sa hoàng… đi đày… âm mưu chống đối… Xi-bê-ri… Những tiếng ấy vẫn rì rầm bên tai Ma-ni-a kể từ khi mới lọt lòng, như bao hàm một ý nghĩ đáng sợ. Tự nhiên, đứa bé lảng ra xa, sau này nó sẽ hiểu.

Rời chỗ bố mẹ đang trò chuyện, giọng nói thì thầm đầy yêu thương, xen lẫn tiếng cắt da xoèn xoẹt và tiếng búa đóng đinh lách cách, Ma-ni-a tha thẩn trong phòng để tâm hồn chạy theo những chuyện ngây thơ.

Ma-ni-a thích nhất phòng làm việc này mà nó thấy là đẹp hơn cả, thú vị hơn cả trong nhà, một cái bàn giấy kiểu Pháp, rộng thênh thang bằng gỗ đào hoa tâm, bộ ghế bành thời Phục hưng bọc nhung đỏ làm cho lòng em tràn đầy trân trọng. Sao những đồ đạc này sạch sẽ thế, bóng loáng thế! Sau này, khi đến tuổi đi học, Ma-ni-a sẽ được ngồi chỗ đằng đầu cái bàn giấy đồ sộ rất nhiều ngăn kéo của ông giáo mà cứ mỗi buổi trưa, bọn trẻ quây quần xung quanh để làm bài.

Bức họa Đức giám mục nghiêm trang đứng giữa khung mạ vàng treo ở tường cuối buồng – mà trong nhà, chỉ trong nhà thôi, bảo là của họa sĩ Ti-tiêng[4] – không làm Ma-ni-a chú ý bằng cái đồng hồ đá cẩm thạch vân xanh, bóng loáng đặt trên mặt bàn giấy và chiếc ghế đẩu do một người anh họ mang từ Pa-lec-mơ về năm ngoái. Mặt ghế là một bàn cờ mà mỗi ô làm bằng một mẩu đá hoa khác nhau.

Có một cái giá đặt chiếc chén sứ Xe-vrơ màu xanh lơ trong vẽ chân dung vua Lu-i thứ XVIII trông mặt rất hiền, nhưng vì bố mẹ cứ luôn nhắc là không được sờ vào thành thử Ma-ni-a đâm ra sợ. Em cứ đi tránh cái giá rồi dừng lại trước những đồ vật mà em thích nhất. Đó là cái phong vũ biểu kim vàng, nền trắng trông rất nổi, ông giáo thường vặn lại và lau chùi rất đều đặn vào những ngày nhất định, trước những cặp mắt chăm chú của đàn con. Rồi đến cái tủ kính nhiều ngăn đựng bao nhiêu là thứ kỳ lạ và hấp dẫn: nào là ống thủy tinh, chiếc cân bé nhỏ, mẩu quặng và có cả một cái điện nghiệm có lá bằng vàng. Trước kia, ông giáo thường mang các đồ lề ấy đến lớp để giảng bài nhưng từ ngày có lệnh giảm bớt những giờ khoa học thì cửa tủ luôn luôn đóng chặt.

Manya chưa hiểu được mấy thứ đồ chơi mê li đó dùng để làm gì. Một hôm, em đang kiễng chân ngắm nghía, mồm há hốc ra, thì ông giáo nói: “Đó là những dụng cụ vật lý”.

Cái tên nghe mới kỳ lạ.

Em không quên – Manya có hề quên cái gì bao giờ - và nhân lúc đang vui, em cứ nhắc lại mãi mấy chữ đó, vừa đi vừa hát.