Chương 3 TUỔI NIÊN THIẾU
Lịch sử mỗi gia đình thường có một thời nảy nở toàn diện. Có những lí do bí ẩn làm cho một thế hệ bỗng trỗi lên hơn hẳn mọi thế hệ trước và mọi thế hệ sau nó về tài năng dồi dào, sức sống rạng rỡ, sắc đẹp khác thường và thành công lớn lao.
Thời đó đã đến với nhà ông giáo, mặc dầu vừa mới phải góp phần bất hạnh với đời. Thần chết đã bắt mất Dô-sa, một trong năm đứa con thông minh và nồng nhiệt. Nhưng bốn đứa còn lại, bốn thiếu niên, con của một bà mẹ chết vì lao và một người cha trí thức làm việc đến kiệt sức, họ mang trong mình một sức mạnh không gì chống nổi. Họ sẽ thắng mọi tai họa, đạp bằng mọi trở ngại, và sẽ đều trở thành những con người khác thường.
Vào buổi sáng mùa xuân tràn đầy ánh nắng đó, năm 1882, bốn anh em ngồi quây quần ăn lót dạ quanh chiếc bàn to. Trông họ đẹp làm sao! Hê-la (Helena) 16 tuổi, nhớn và duyên dáng, đúng là “Cô gái xinh nhất nhà”; Brô-ni-a (Bronislawa)mặt mày đầy đặn, tóc vàng, nước da mịn màng như hoa, anh cả Dô-dếp (Jozef) trong chiếc áo quàng trắng sinh viên khoa y, trông vạm vỡ như một lực sĩ phương Bắc.
Còn Ma-ni-a (Manya)? Hiện nay còn ít tuổi nên em không đẹp bằng các chị. Nhưng cô gái tròn lẳn trong bộ đồng phục nữ sinh có khuôn mặt tươi cười tinh nghịch, mắt và tóc màu nhạt và nước da sáng ngời của những thiếu nữ Ba Lan.
Chỉ hai cô gái út bận đồng phục. Hélena vẫn học trường tư thục Xi-coóc-ca, mặc màu xanh lơ. Manya mười bốn tuổi, là học sinh xuất sắc tại trường trung học của nhà nước, mặc màu hạt dẻ. Chính Brô-ni-a (Bronia) cũng đã tốt nghiệp trường này, năm ngoái, với huy chương vàng làm cho cô vẻ vang thực sự.
Dô-dếp (Józef ) cũng được huy chương vàng khi tốt nghiệp trung học, anh đang học Y. Các em gái khâm phục anh và cũng mong muốn được học lên đại học như anh. Sớm có hoài bão học cao, hiểu rộng, cả ba chị em đều nguyền rủa cái luật lệ khắc nghiệt không cho con gái vào trường đại học ở Vác-xô-vi (Varsovie). Nghe anh Dô-dếp (Józef ) kể về trường đại học của Sa hoàng, các cô rất háo hức. Nhưng thật ra nó cũng tầm thường, vì ở đó, thầy người Nga thì đầy tham vọng, còn thầy người Ba Lan thì tâm hồn nô lệ.
Vui chuyện không làm cho mấy anh em ăn kém một miếng nào. Chỉ thoáng một lúc, bánh mì, kem, bơ, mứt đã hết nhẵn.
- Anh Dô-dếp (Józef) ơi, chiều nay tập vũ, anh đi bước nam cho chúng em nhé!
Đó là lời của Hê-la (Hela), và cô không quên một việc quan trọng:
- Chị Brô-ni-a (Bronia) này, áo của em mà đem là phẳng phiu liệu còn mặc được không?
- Chẳng còn cái nào khác thì đành mặc vậy chứ sao! – Brô-ni-a (Bronia) triết lý trả lời. - Ba giờ chiều nay, khi nào em về, ta sẽ lo đến việc đó.
- Áo các chị đẹp lắm – Ma-ni-a nói.
- Mày còn bé, đã biết cái gì!
Họ tản đi. Brô-ni-a thu dọn bàn ăn. Dô-dếp ôm sách vở biến mất. Hê-la và Ma-ni-a (Manya) xô nhau chạy xuống bếp.
- Bánh mì của em đâu? Xúc xích của em đâu? Bơ đâu rồi?
Ăn sáng no nê thế mà hai cô nàng còn lo đến thức ăn buổi ra chơi hồi mười một giờ: một chiếc bánh mỳ nhỏ, một cặp dồi ngắn và to làm theo kiểu Ba Lan, một quả táo, tất cả nhét trong túi vải.
Ma-ni-a cài túi thức ăn chật căng và ném cặp sách lên vai.
- Nhanh lên cô ả! Chậm rồi, chúng bạn đang đợi đây! – Hê-la giễu thế rồi cũng sửa soạn đi.
- Không đâu! Mới tám giờ rưỡi. Chào chị
Cô bé vội xuống cầu thang, trước hai anh trọ học. Họ cũng đến trường, nhưng chậm hơn.
Trường trung học, kí túc xá, trường tư thục… mấy tiếng đó luôn quện lấy tuổi thơ trẻ của Ma-ri. Ông giáo dạy ở trường trung học, Brô-ni-a tốt nghiệp trường trung học, Ma-ni-a đi học trường trung học, Dô-dếp học đại học, Hê-la học trường tư thục. Cả đến ngôi nhà mấy bố con đang ở cũng không khác gì một trường học. Cô chắc hẳn phải tưởng tượng như cả thế giới là một trường trung học khổng lồ chỉ có thầy và trò mà một lý tưởng là học, học mãi.
Từ dạo gia đình rời phố Các-mê-lít ảm đạm để dọn sang phố Le-skô. Vấn đề trọ học cũng đỡ phiền toái một chút. Ngôi nhà đẹp đẽ, kiểu cách, có một cái sân tịch mịch, chim bồ câu xám gù gù, dây leo hoa tím phủ kín các bao lơn. Tầng gác trên khá rộng nên mấy bố con ông giáo ở riêng bốn buồng tách hẳn với đám học sinh trọ học.
Phố Le-skô cũng “ra vẻ” lắm, lòng đường rộng rãi giữa hai dãy nhà đồ sộ. Không còn thấy lối kiến trúc Xla-vơ độc đáo nữa. Trong khu phố lịch sự này, cái gì cũng gợi tính cách Tây Âu, từ nhà thờ Tin lành phía trước mặt đến ngôi nhà nhiều cột hoàn toàn xây theo kiểu Pháp ở phố Ry-man-xca.
Cặp sách đeo gọn sau lưng, Ma-ni-a chạy vội đến biệt thự bá tước Da-moi-xki, quen gọi là “Lâu đài xanh”. Cô tránh cổng giữa mà đi sang một cái sân cổ xưa có một con sư tử bằng đồng đen ngồi chồm chỗm như canh giữ. Bất giác, cô dừng lại, thất vọng. Sân vắng ngắt. Đang định quay ra thì nghe gọi giật:
- Ma-ni-u-sa, đừng vội đi, Ca-di-a nó đang xuống đấy.
- Ồ, bác đấy ạ, cám ơn bác.
Từ cửa sổ tầng dưới cùng, bà Psi-bô-lốp-xka, vợ ông thủ thư của bá tước Da-moi-xki có bộ tóc quấn trần đầy bím, trìu mến nhìn cô bé má phính, đôi mắt tinh anh, thân với con gái mình từ hai năm nay.
- Đến trưa, tan học, cháu về đây ăn bánh. Bác sẽ làm bánh ngọt với món sô-cô-la đường mà cháu thích.
- Đúng rồi, đằng ấy đến ăn bánh với mình nhé – Ca-di-a chạy vội xuống cầu thang, khoác tay bạn – Rảo bước lên Ma-ni-a ạ. Muộn rồi đấy.
- Ừ, mình đang định quay cái vòng của con sư tử lên.
Ngày nào Ma-ni-a cũng đến rủ Ca-di-a cùng đi, hẹn đợi nhau dưới vòm nhà. Nếu không thấy ai, cô nhấc lại cái vòng nặng ở mõm con sư tử bằng đồng đen, quay ngược ghếch trên mũi con vật rồi tiếp tục đi đến trường. Ca-di-a nhìn cái vòng biết là bạn mình đã đi qua rồi, phải bước gấp mới đuổi kịp.
Ca-di-a là một cô bé rất tuyệt, vui tính, niềm nở, được bố mẹ chiều. Ông bà Psi-bô-lốp-xki rất quý Ma-ni-a, coi như con, cố bù đắp thiệt thòi cho đứa trẻ mất mẹ. Nhưng cứ nhìn qua nhiều chi tiết nhỏ trong cách ăn mặc và dáng điệu của hai cô nữ sinh cùng đồng phục màu hạt dẻ, cũng dễ đoán là một đằng được nuông chiều, mỗi sáng mẹ chăm chút chải đầu và quấn dải mầu vào tóc, một đằng lớn lên, đã mười bốn tuổi, trong một gia đình mà không ai có thì giờ săn sóc đến.
Hai đứa bé khoác tay nhau đi dọc theo phố Da-bi-a chật hẹp. Mới xa nhau từ bữa ăn sáng hôm qua mà đã có lắm chuyện muốn kể với nhau. Những chuyện về trường trung học ở đại lộ Kra-lô-kốp.
Từ ký túc xá Xi-coóc-ca có phong thái Ba Lan thuần túy chuyển đến một ngôi trường chính thống có xu hướng thân Nga rõ rệt là một thay đổi lớn đối với Ma-ni-a. Một thay đổi cần thiết. Chỉ những trường trung học của Sa hoàng mới cung cấp bằng có giá trị. Để phản ứng, Ma-ni-a và Ca-di-a thích nhạo báng các giáo sư từ Nga sang, có lão mục sư Mê-din dạy tiếng Đức chán ngấy và mụ giám thị May-e mà các em ghét cay ghét độc.
Người bé choắt, tóc râu bóng nhẫy, đi giầy vải đế êm – để dễ rình mò – mụ May-e là kẻ thù số một của cô gái Ba Lan. Mụ đổ lên đầu cô trăm thứ tội: nào là bướng bỉnh, khó bảo, nào là “có cái cười khinh khỉnh” mỗi khi nói chạm đến nó. Rồi luôn mồm:
- Cái con Xkhua-đốp-xka ấy à. Hơi sức đâu mà đối khẩu với nó.
Bộ tóc quăn của Ma-ni-a làm cho mụ May-e lộn ruột, mụ cho là “bù xù và trông khỉ lắm”. Thế là mụ lấy bàn chải, chải tuột những mớ tóc ngạo ngược, mụ muốn biến em thành một cô gái Đức bím tóc thật chặt. Nhưng mụ vừa mới rời tay lược thì mấy mớ tóc nhẹ nhàng, nhún nhảy lại hiện trên khuôn mặt tươi tắn mà đôi mắt ngây thơ cứ chằm chằm vào cái dây buộc tóc óng ánh của mụ giám thị.
- Tao cấm mày không được nhìn tao như thế. Cái kiểu đâu như bề trên nhìn xuống! – Mụ cáu tiết rít lên.
- Nhưng tôi không thể làm khác được.
Một lần không nén được, Ma-ni-a trả lời như vậy, vì cô cao hơn mụ May-e một đầu.
Không ngày nào không xảy ra đôi co như thế giữa cô học sinh khao khát tự do và mụ đàn bà khe khắt.
Cơn giông tố dữ dội nhất nổ ra năm ngoái. Đó là lần mụ May-e bất ngờ bước vào lớp, bắt gặp Ma-ni-a và Ca-di-a nhảy múa vui mừng giữa bàn ghế đang lúc có lệnh phải để tang Sa hoàng A-lếch-xăng II bị ám sát.
Sự o ép về chính trị có một hậu quả đáng buồn là gây cho lớp người bị đè nén một tình hình khắc nghiệt. Ma-ni-a và Ca-di-a có một tâm hồn dịu hiền và tấm lòng quảng đại, nhưng vẫn đôi khi có những cái hằn học xa lạ với người dân tự do và các cô không thoát khỏi cái luân lý của những người nô lệ - lấy chống đối làm nết tốt và coi vâng lời là hèn nhát.
Hai cô rất mến thầy dạy toán, ông Glát trẻ đẹp và thầy Xua-xa-ki dạy sinh vật là những người Ba Lan chân tình. Với thầy người Nga, thái độ của các cô có nhiều mức độ. Nghĩ gì về ông Mi-li-ê-sin bí ẩn, muốn thưởng học trò, đã im lặng tặng một tuyển tập thơ Nê-cra-xốp, một nhà thơ cách mạng. Các nữ sinh ngạc nhiên nhận ra những cử chỉ đoàn kết kín đáo ngay ở phía hàng ngũ thù địch. Sa hoàng đâu chỉ có những thần dân trung thành!
Lớp học của Ma-ni-a có cả học sinh Ba Lan, Do Thái, Nga và Đức. Giữa họ, không có gì là xung khắc trầm trọng. Cùng trẻ tuổi, lại cùng đua nhau học hành, họ tạm lãng quên sự khác nhau về chủng tộc, hoặc về tâm tư. Nhìn học trò giúp nhau học tập hoặc vui đùa trong giờ chơi thì tưởng như họ rất hòa thuận. Nhưng khi ra khỏi trường, ai nấy lại quay về với tiếng nói riêng, lòng yêu nước và tín ngưỡng của mình. Chị em Ba Lan cùng cảnh áp bức thường đi thành nhóm riêng, dần dà cũng ăn quà trưa chung với nhau, không thích mời bạn khác đến dự.
Ngoài công viên La-gien-ki mà Ma-ni-a hay lui tới những lúc rảnh rang thì vườn Xắc-xơ là nơi cô thích nhất ở thành phố quê hương, hàng nhiều năm nữa cô sẽ mãi gọi là “Vác-xô-vi yêu mến của tôi”.
Qua cổng sắt đôi bạn gái đi dọc theo con đường dẫn đến lâu đài. Hai tháng trước, ngày nào các cô cũng mang ủng lội vào các vũng bùn lớn cố giữ sao cho nước chỉ đến cổ giầy, không để ngập hẳn. Nay mùa khô, lại có những trò khác, đơn giản nhưng cũng làm hai chị em cười chảy nước mắt. Thí dụ trò miếng “xanh”.
- Có đi mua vở với tao không? – Ma-ni-a thản nhiên hỏi bạn – Có nhiều quyển vở rất đẹp, bìa “xanh”.
Ca-di-a đã thủ thế rồi. Thoạt nghe tiếng “xanh” cô đã chìa ra một miếng nhung xanh giấu trong túi. Thế là không thua cuộc. Ma-ni-a làm như không chơi nữa, lái câu chuyện về bài sử thầy giáo đọc cho chép hôm qua, nói rằng Ba Lan là một tỉnh, tiếng Ba Lan là một tiếng địa phương và người Ba Lan vô ơn bạc nghĩa đã làm Sa hoàng Ni-cô-lai I – thật đã yêu họ quá đỗi – phải buồn rầu mà chết!
- Tuy vậy, lão ta cũng ngượng về những chuyện xằng bậy ấy. Mày có thấy mắt lão len lét không? Cái mặt trông đến tởm!
- Ừ, mặt lão “xanh lè”. – Ca-di-a thản nhiên nói. Nhưng tức khắc đã thấy lất phất trước mũi một lá cây dẻ màu xanh non.
Trước mặt đám trẻ đang chơi nhà bằng cát và nhảy vòng, hai cô gái cười như nắc nẻ. Qua dãy cột thanh thanh của cung điện Xắc-xơ, rồi qua một quảng trường lớn, Ma-ni-a chợt kêu lên:
- Ta đi qua đài kỷ niệm rồi, phải quay lại thôi!
Không nói một lời, Ca-di-a cũng quành lại.
Hai cô đãng trí đã phạm một lỗi không tha thứ được. Chả là ở giữa quảng trường Xắc-xơ dựng một cột lưu niệm tráng lệ, với bốn con sư tử đá chầu bốn bên và mang dòng chữ “chính thống”: “Tặng những thần dân Ba Lan trung thành với quân vương của mình”. Cái ơn nghĩa này của Sa hoàng đối với những tên phản bội đã liếm gót kẻ áp bức làm cho những người yêu nước Ba Lan ghê tởm. Cứ mỗi lần đi qua phố đều nhổ vào đấy, dần dần thành một truyền thống, ai lỡ quên thì phải quay lại làm đúng thủ tục đó.
Hai cô bạn lại tiếp tục tán chuyện:
- Tối nay nhà tớ có vũ đấy – đằng ấy có đến xem không?
- Có chứ. Nhưng Ma-ni-u-sa này, bao giờ mới đến lượt bọn mình dự? Chúng ta đã biết đi bước van khá rồi. Ca-di-a sốt ruột.
Bao giờ? Khi nào các cô “bước vào đời” đã. Lúc này các cô mới chỉ được phép tập dượt với nhau về các điệu lăng-xi-ê, pôn-ka-ma-duốc-ka học được ở trường và cũng được ngồi trên hai cái ghế nhỏ xem thanh niên nam nữ gia đình bạn bè hàng tuần vẫn đến tập vũ ở nhà ông giáo.
Trong khi chờ đợi cũng sẽ đến lượt mình được các bạn nam mời, các cô còn phải học nhiều tháng nữa ở trường trung học. Đó là một ngôi nhà lớn ba tầng mộc mạc ngay cạnh nhà thờ Thăm Viếng, trang trí hoa mĩ, nên trông như một khối kiến trúc từ thời Phục Hưng Ý, giữa những lâu đài nghiêm trang. Bạn học đã vào cả trong trường: có bạn Vun mắt xanh, bạn A-ni-a Rốt-te, người Đức, mũi tẹt, học rất giỏi, trong lớp chỉ thua Ma-ni-a và Lê-ô-ni Cu-níc-ca.
- Con bé Cu-níc-ca có chuyện gì đấy nhỉ? Mắt nó sưng húp lên. Xưa nay, lúc nào nó cũng ăn mặc gọn gàng, hôm nay lôi thôi thế nào ấy.
Ma-ni-a và Ca-di-a không cười đùa nữa. Hai đứa sán lại gần bạn.
- Mày sao thế, Cu-níc-ca. Có chuyện gì thế?
Mặt Cu-níc-ca tái nhợt cô mãi ấp úng:
- Anh, anh mình… anh ấy vào hội kín… có kẻ đi báo, đã ba hôm nay, ở nhà không biết anh ấy đi đâu.
Rồi nghẹn ngào, nước mắt giàn giụa:
- Sáng sớm mai, chúng treo cổ anh ấy!
Hai cô bé rụng rời, sít lại gần bạn bất hạnh. Họ còn đang tìm lời hỏi han an ủi bạn, đã thấy tiếng mụ giám thị May-e ken két:
- Thôi, thôi, ít chuyện chứ! Nhanh lên!
Ma-ni-a rùng mình, thẫn thờ trở về nhà; mới lúc nãy còn mơ đến âm nhạc, đến vũ, bây giờ mấy câu đầu bài địa lý cứ quay tròn trong đầu, không còn biết chúng nghĩa là gì nữa; trong tâm trí, chỉ thấy khuôn mặt nồng nhiệt và non trẻ của người thanh niên xấu số rồi thấy giá treo cổ và tên đao phủ.
Tối hôm đó, năm cô gái tuổi đôi bảy, đôi tám không thiết gì đi xem vũ. Ma-ni-a, Brô-ni-a, Hê-la và hai chị em nhà Ca-di-a đã đến với Lê-ô-ni Cu-níc-ca thức trắng đêm trong phòng của bạn.
Họ hòa chung nước mắt buồn thương và uất hận. Họ chỉ biết âu yếm chăm sóc người bạn đang quằn quại đau khổ, lấy khăn ướt chườm đôi mắt sưng vù, ép bạn uống một ít trà nóng. Thời gian sao trôi quá chậm mà cũng quá nhanh như vậy, đối với mấy cô gái mà bốn người còn mặc đồng phục nữ sinh.
Lúc trời hửng sáng ánh bình minh nhợt nhạt rọi vào những bộ mặt cũng nhợt nhạt là lúc điểm giờ phút cuối cùng của người anh. Họ quỳ tất cả xuống sàn, trong một lời cầu nguyện cuối cùng và giấu trong lòng bàn tay những bộ mặt đầy khiếp đảm.
*
Gia đình ông giáo lần lượt nhận một huy chương vàng, hai huy chương vàng, ba huy chương vàng. Cái thứ ba do Ma-ni-a giành được ngày 12 tháng 6 năm 1883 khi tốt nghiệp trung học.
Hôm đó trời oi bức ngột ngạt. Nghe đọc danh sách các học sinh được thưởng xong đến diễn văn và nhạc kèn đồng, các thầy giáo lên khen ngợi và sau đó là cái bắt tay thờ ơ, lỏng lẻo của viên tổng thanh tra giáo dục của Sa hoàng ở Ba Lan thuộc Nga, rồi Ma-ni-a trịnh trọng cúi chào một lần cuối cùng.
Một bó hoa hồng nhỏ cài trên chiếc áo lễ phục màu đen theo tục lệ, cô học sinh tốt nghiệp từ biệt bạn bè tay nắm tay, thề thề thốt thốt là sẽ biên thơ đều hàng tuần cho nhau. Ôm một chồng sách đồ sộ bằng tiếng Nga – một phần thưởng mà cô lớn tiếng nói là “ghê tởm” (Ngày học cuối cùng, cần gì), Ma-ni-a từ giã mãi mãi trường trung học ở đại lộ Vác-xô-vi, khoác tay ông giáo, người cha rất tự hào về thành tích học tập của con gái.
Ma-ni-a đã học tập rất tốt, cố gắng vượt bậc, nên ông giáo quyết định để cô về sống một năm ở nông thôn trước khi chọn nghề ra đi làm.
Suốt một năm hè! Rất dễ mường tượng rằng một thiên tư sớm bị một chí hướng ám ảnh, sẽ phải tìm cách đọc bằng được những sách báo khoa học. Sự thật đã không vậy. Lứa tuổi dậy thì kể cũng lạ. Ma-ni-a bỗng thay đổi tính tình, uể oải, không còn ham mê sách vở nữa.
Một giai đoạn thôn dã đẹp xen vào lịch sử người con gái nhà giáo đó. Biên thư cho Ca-di-a, cô nói “Lúc này mình không thể tưởng được rằng trên đời lại có hình học và số học. Mình đã quên hết hai môn đó rồi”. Những tháng xa Vác-xô-vi và mái trường trung học, về ở nông thôn, với những họ hàng chỉ nhận một khoản tiền ăn nhỏ, nhờ cô dạy qua quýt cho mấy đứa trẻ trong nhà, lần đầu tiên được đắm mình trong một cuộc sống thảnh thơi, êm đềm, Ma-ni-a tươi tỉnh hẳn lên, vui vẻ hồn nhiên hơn rất nhiều so với những ngày thơ ấu ảm đạm.
Thư gửi Ca-di-a:
“Có thể nói rằng mỗi ngày mình chỉ dạy một giờ tiếng Pháp. Cả thêu thùa đang làm dở cũng bỏ đấy… không có thời gian biểu cho một chú bé, còn hoàn toàn không làm một chút gì gọi là việc… gì hết… không đọc sách gì thuộc loại nghiêm túc mà toàn xem chuyện giải trí, vô thưởng vô phạt, và mặc dầu được bà con ở đây nể nang vì có mảnh bằng tốt nghiệp, mình cảm thấy dốt, dốt ơi là dốt, làm mình không khỏi tự cười thầm!
Bọn mình đi chơi rừng, nhẩy vòng, đánh cầu lông (mình rất kém về môn này), chơi mèo bắt chuột và rất nhiều trò con nít như vậy. Ở đây, dâu rừng sẵn lắm, năm xu một bát tú ụ. Tiếc rằng hết mùa rồi. Mình đang lo là khi trở về sẽ ăn khỏe đến phát sợ.
Hết đánh đu lại đi tắm. Đến tối tối, lại đốt đuốc bắt tôm…
Mình đã đi Dô-vô-la mấy ngày, được nghe một nghệ sĩ, ông ta tên là Kô-tô-bin-xki từ Vác-xô-vi về đây biểu diễn, ông ta hát và ngâm thơ rất tuyệt, nói chuyện rất vui. Bọn mình thích quá, hôm ông ta ngược Vác-xô-vi, chúng mình đã tết một vòng hoa rất to lúc tiễn chân mới tặng…”
Ở đây vui lắm, có một không khí tự do, bình đẳng, độc lập mà Ca-di-a không thể tưởng tượng được…
Suốt năm hè đó, hoạt động trí tuệ như lắng xuống, nhường chỗ cho một say mê mới sẽ mãi mãi thấm sâu tâm hồn của Ma-ri Quy-ri. Đó là lòng yêu thôn quê thắm thiết. Nay về tỉnh này, mai đến tỉnh kia, đón chờ các mùa thay đổi, Ma-ni-a luôn nhìn ra nhiều vẻ đẹp mới lạ của mảnh đất quê hương Ba Lan đây đó đều có họ hàng sinh sống. Đây – Đơ-vô-la một vùng bao la, tịch mịch, ngoảnh nhìn đây cũng chỉ thấy chân trời xa thẳm hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Kia – Da-vi-ê-poyt-xơ, quê chú Xa-vi-ê có đàn ngựa năm mươi con thả trên đồng cỏ. Ma-ni-a đã từng tập cưỡi ngựa, đi nước kiệu và phi nước đại rất thành thạo.
Và cảnh núi Các-pát tuyệt trần! Những đỉnh núi tuyết phủ long lanh, những ngọn thông đen thẳng tắp, làm cô gái vùng đồng bằng lên đây ngạc nhiên đến sững sờ. Quên sao được những cuộc leo núi, qua những sườn đồi quất rừng bao phủ, cheo leo túp lều của thổ dân mà mỗi đồ vật là một công trình trạm trổ, khắc gỗ tài tình, và mãi tận đỉnh cao chót vót, mảnh gương của cái hồ nước xanh biếc như tròng con ngươi, có cái tên tuyệt diệu là “mắt biển”.
Mùa đông năm đó, Ma-ni-a đến chỗ người chú là Di-xoáp, làm văn khế ở Xkhan-bơ-mia, hai vợ chồng có ba con gái. Ở đây cứ mỗi dịp có hội hè dân gian là cả nhà huyên náo hẳn lên, trong khi người lớn chuẩn bị thịt thà, mấy cô gái làm bánh ngọt hoặc ngồi trong nhà khâu vội bộ quần áo cải trang để tham dự trò múa dân gian “kulich” sắp tới.
Thật ra, đó không chỉ là một cuộc vui hát múa, mà là một hành trình thần tiên huy hoàng. Từ buổi chiều Ma-ni-a cùng ba cô em họ ăn mặc như những chị em nông dân vùng Kra-kốp ngồi trên hai xe trượt tuyết, ai nấy trùm chăn kín. Những trai làng quần áo mộc mạc cưỡi ngựa cầm đuốc đi theo một chiếc xe trượt tuyết khác có bốn nghệ nhân trong làng chơi đàn vi-ô-lông, cử lên những dân vũ Ba Lan quen thuộc. Ánh đuốc chập chờn qua cành thông và tiếng nhạc rộn ràng trong đêm tối. Lần lượt thêm ba, năm, mười xe trượt tuyết nhập bọn, vừa lướt xe xuống những dốc tuyết đóng băng nhanh đến chóng mặt, vừa đàn hát náo nhiệt.
Cứ qua mỗi nhà, cả đoàn người và xe dừng lại: Chủ nhà làm ra vẻ bất ngờ, nhưng thật ra, thức ăn được chuẩn bị từ trước được dọn ra ngay và cuộc vũ bắt đầu dưới ánh lửa đuốc. Sau một lúc vui huyên náo, họ lại lên xe, lên ngựa, đến một nhà khác, rồi một nhà khác nữa, xuyên qua rừng, qua núi. Đoàn người mỗi lúc đông thêm với những lực lượng mới mẻ. Hết đêm hôm đó, rồi cả ngày hôm sau, cuộc hành trình đàn hát múa này không lúc nào gián đoạn và kết thúc bằng một “hội múa” vào đêm thứ hai ở ngôi nhà rộng nhất trong vùng, vẫn theo tiếng vi-ô-lông dồn dập không biết mệt mỏi của bốn anh kéo đàn trẻ.
Và giữa những hình tượng múa tuyệt diệu, Ma-ni-a, cô gái khỏe khoắn hồng hào múa đẹp nhất đêm hôm đó. Trong chiếc áo cánh nhung ngắn, hai tay bồng bằng lanh mịn, đầu đội một vòng tết bằng bông lúa với những giây màu sắc sặc sỡ tỏa xuống quanh người, trông cô giống như một cô gái dân tộc miền núi trong trang phục ngày hội.
Biên thơ cho Brô-ni-a, cô kể lại sự hào hứng của mình:
“Thứ bẩy vừa qua, em lại được tham gia một cuộc vũ trá hình rất thích thú. Chị biết không, bây giờ em nhảy được điệu dân vũ ô-be-rếch khá lắm rồi…
Có lẽ không bao giờ trong đời em sẽ lại được hưởng những phút vui đùa thắm thiết như vậy. Nó để lại trong em một nỗi nhớ nhung da diết. Dì nói đùa là nếu vài năm nữa, em đi lấy chồng, nhất định sẽ tổ chức cưới theo phong tục vùng kra-kốp có vũ dân gian và cưỡi xe trượt tuyết, tất nhiên chỉ là câu đùa, nhưng em cũng rất ưa thích!”
Nhiều năm về sau, mẹ tôi thỉnh thoảng nhắc lại những ngày vui đó với một giọng dịu dàng và như cam phận. Nhìn khuôn mặt mệt mỏi, hao mòn sau gần nửa thế kỷ lo âu và lao lực, tôi thầm cám ơn số phận đã dành cho mẹ nhiều phút êm đềm trước khi quyết định bà phải đi theo một chí hướng nghiêm nghị và khắc nghiệt.