← Quay lại trang sách

Chương 5 CÔ GIÁO

Thư của Manya cho em họ là Hăng-ri-ét Mi-khai-lốp-xka:

“Hăng-ri-ét mến yêu!

Kể từ ngày xa rời Hăng-ri-ét, cuộc sống của chị không khác chi một người tù. Chị đến ở nhà một luật sư B. như em đã biết. Một địa ngục trần gian mà ngay đối với kẻ tử thù, chị cũng không cầu cho phải đến sống ở đây. Quan hệ của chị với bà B. đã lạnh nhạt đến nỗi chị không nén nổi nữa và nói thẳng cho bà ấy biết. Vì bà ta “hâm mộ” chị không kém gì chị “hâm mộ” bà ta nên đôi bên rất hiểu nhau.

Đây là một trong những nhà giàu mà mỗi bận có khách khứa, người ta nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp – một thứ tiếng Pháp tồi một cách kinh khủng. Hóa đơn để đến hằng nửa năm không chịu thanh toán, thế nhưng họ vẫn tiêu xài như phá rồi lại bủn xỉn như tí dầu đèn. Thuê năm người làm, rồi ra vẻ tự do, phóng khoáng, nhưng thật ra lại đần độn đến mức lú lẫn. Ngoài mặt thì giọng ngọt xớt, nhưng lòng độc địa, nói xấu chẳng từ ai...

Thế là chị hiểu thêm một chút về loài người. Chị nhận ra rằng các nhân vật miêu tả trong văn học là có thật và mình không nên gần những kẻ mà giàu sang làm cho vẩn đục đi.”

Bức họa nghiêm khắc, do một con người không có ác ý cho ta thấy Manya còn quá ngây thơ và ảo tưởng. Do ngẫu nhiên vào một gia đình Ba Lan khá giả, cô những mong gặp những cha mẹ học trò sẵn thiện cảm, những trẻ nề nếp dễ bảo. Lòng cô chỉ muốn quyến luyến, yêu thương. Sự thất vọng mới phũ phàng làm sao.

Do đâu mà chí hướng và thiên tài của Manya không được phát hiện sớm hơn? Tại sao người ta không cho cô đi học ở Paris mà lại để cô đi dạy tư? Muốn trả lời được câu hỏi này, phải nhìn vào phẩm chất cao quý và sự thông minh tuyệt vời của mấy anh em con nhà giáo đó.

Bên cạnh ba thanh niên ưu tú khác thường, người nào cũng học giỏi, đỗ cao, cũng ham làm việc và giàu mơ ước thì cô gái sau này trở thành bà Marie Curie, lúc đó chẳng có gì đặc biệt... Giá như ở vào một môi trường dốt nát, kém cỏi, những năng khiếu của cô sẽ nổi bật và làm cho người ta ngạc nhiên, thán phục. Nhưng ở đây, dưới cùng một mái nhà có Dô-dếp, Brô-ni-a, Hê-la và Ma-ni-a, bốn anh em đều học tập xuất sắc, đều rất có khiếu và hiểu biết rộng. Thế là từ già đến trẻ, chẳng ai nhìn ra trong bốn thanh niên đó dấu hiệu của một bộ óc vĩ đại. Chưa ai chú ý đến những tia sáng đầu tiên của Ma-ni-a (Manya). Chẳng ai ngờ rằng Ma-ni-a có một bản lĩnh khác anh và các chị. Bản thân cô cũng không biết.

Manya khiêm tốn gần như tự ti khi so sánh mình với anh chị. Nhưng ở vào những gia đình trưởng giả mà cô có dịp lui tới trong nghề nghiệp của mình, cô nổi bật lên hẳn. Chính Ma-ni-a cũng nhận thấy và thích thú điều đó.

Người con gái vốn dĩ không coi trọng những đặc quyền đặc lợi do tông tích, phú quý đem lại, mà cũng chẳng bao giờ để cái ghen ghét lởn vởn trong tâm trí, nay lại tự hào về dòng dõi của mình và về nền giáo dục đã tiếp thu được. Rồi đây, qua những nhận xét về các “ông chủ” của cô, thỉnh thoảng ta thấy toát lên lòng khinh thị và một sự kiêu hãnh ngây thơ.

Từ những kinh nghiệm vào đời đầu tiên, cô không chỉ rút được nhiều bài học triết lý về con người và về “những kẻ mà giàu sang làm cho vẩn đục đi”. Cô còn thấy rằng chương trình bàn với Brô-ni-a trước đây cần phải điều chỉnh lại.

Sở dĩ cô xin việc làm ở Vác-xô-vi là để có thể giải quyết kinh tế mà không phải đi xa. Đối với một cô giáo mới tập sự, dù sao, ở thành phố cũng đỡ vất vả. Được gần nhà, hằng ngày được nói chuyện với cha, vẫn liên lạc với chị em bạn ở “đại học di động” và biết đâu còn có dịp học thêm, theo các lớp buổi tối? Nhưng đã hy sinh, không thể hy sinh nửa vời. Cuộc sống mà cô gái tự chọn cho mình chưa đủ khắt khe! Ma-ni-a chưa kiếm ra nhiều tiền, nhất là lại tiêu quá mức. Lương lĩnh về cứ chi lắt nhắt hằng ngày, đến cuối tháng chẳng còn mấy nữa. Thế mà đã đến lúc phải gửi tiền cho chị. Brô-ni-a đã đi Pa-ri, hiện đang sống chật vật ở khu La-tinh. Ông giáo thì sắp về hưu. Rồi đây, ông cũng cần được giúp. Làm thế nào?

Hai ba tuần trước, có người giới thiệu một chỗ dạy tư ở nông thôn, lương khá. Ma-ni-a không trù trừ lâu. Cô nhận đi ngay địa phương, dấn mình vào những nơi chưa hề quen biết. Hàng năm sẽ phải sống hoàn toàn cô đơn, xa cách họ hàng thân thuộc. Nhưng có hề chi! Có lương cao, và ở nơi sơn cùng thủy tận đó, càng đỡ tiêu pha.

- Thế mà ta không nghĩ ra từ trước! Mình vốn thích sống ở nơi thoáng đãng! – Ma-ni-a tự nhủ.

Thư cho cô em họ Hăng-ri-ét:

...“Sau khi suy đi tính lại, chị đã quyết định nhận một chỗ ở thôn quê, năm trăm rúp một năm, bắt đầu làm từ tháng Giêng. Chính cái nơi được giới thiệu cách đây ít lâu mà chị đã bỏ lỡ. Họ không bằng lòng cô giáo trước nên nhờ đến chị. Rất có thể là rồi chị cũng chẳng làm cho họ hài lòng hơn!”

Ngày mồng một tháng Giêng 1886, ra đi trong rét mướt. Một kỷ niệm buồn trong đời Ma-ni-a. Cô can đảm từ biệt cha. Một lần nữa, Ma-ni-a đọc cho ông giáo ghi địa chỉ của cô:

“Ma-ni-a Xkhua-đốp-xka

Nhà ông bà Z

Ở Schuc-ki qua Prát-snich”.

Ngồi trên xe lửa, Ma-ni-a còn nhìn lại mãi hình dáng thâm thấp của ông giáo và tươi cười với cha. Rồi bỗng cô cảm thấy một nỗi hiu quạnh nặng nề chưa từng biết đến trước đây. Lần đầu tiên trong đời, cô sống một mình một thân.

Một nỗi hoảng sợ đột ngột đến với cô gái mười tám tuổi ấy. Trong cái toa xe nặng nề đưa cô đến một gia đình xa lạ, Ma-ni-a bất giác rùng mình, lo hãi. Nhỡ ra chủ mới lại như chủ cũ thì sao? Nhỡ ra ông giáo ở nhà đau ốm trong khi con cái đi vắng cả thì thế nào? Chẳng biết cô có còn gặp lại cha nữa không? Việc cô đang làm phải chăng là điên rồ? Đầu óc cứ quay cuồng với bao nhiêu câu hỏi. Trời tối dần. Ngồi nép cạnh cửa toa xe, cô lấy tay gạt nước mắt cứ ròng ròng, lặng nhìn cánh đồng tuyết phủ mênh mông đang lướt qua trước mặt...

Ông Z, người nhận Ma-ni-a đến làm cô giáo dạy tư, là quản lý một phần đất đai cho một họ hoàng tộc, cách Vác-xô-vi một trăm cây số về phía Bắc. Sau ba giờ ngồi tàu, bốn giờ ngồi xe trượt tuyết trong một chiều đông bao la, phẳng lặng, Ma-ni-a đến nơi giữa một đêm băng giá. Cô đã mệt lả, chỉ thoáng nhìn thấy trong giấc mơ bóng dáng cao lớn của người chủ nhà, khuôn mặt lu mờ của bà vợ và những cặp mắt hau háu, tò mò của mấy đứa trẻ.

Một chén trà nóng, mấy lời niềm nở, đón chào cô giáo mới. Xong, bà Z dẫn Ma-ni-a lên buồng của cô ở trên gác ba, rồi xuống ngay, để mặc cô gái một mình với mấy thứ hành lý nghèo nàn.

*

Ma-ni-a gửi em họ là Hăng-ri-ét, ngày 3 tháng hai 1886: “Thế là chị đến đây. Thấm thoát được một tháng rồi. Và đã bắt đầu thích nghi với hoàn cảnh mới. Cho đến nay, thấy khá thoải mái. Ông bà Z rất tốt. Chị đã làm quen với cô gái lớn là Brôn-ka, nhờ vậy mà cuộc sống cũng vui thêm. Học trò của chị là em gái An-gia, lên mười, ngoan, chỉ phải cái rất bừa bãi vì quá được nuông chiều. Nhưng không thể đòi hỏi cái gì cũng hoàn toàn!

Ở đây, người ta không làm gì cả, chỉ nghĩ đến vui chơi. Và vì không muốn đàn đúm, mà chị trở thành câu chuyện chế giễu trong vùng. Chả là một tuần lễ sau khi đến đây, chị đã thoái thác không đi tham gia tối vũ ở Các-vát-sơ, một nơi mà không có chuyện gì trong địa phương lại không được đem ra đây bàn tán. Cũng may là chị không đi, vì ông bà Z, mãi đến trưa hôm sau mới về.

... Mỗi ngày chị làm việc bảy giờ, bốn với An-gia, ba với Brôn-ka. Cũng khá nhiều, nhưng đành vậy! Buồng chị ở tầng thượng. Rộng, yên tĩnh, dễ chịu. Ông bà Z rất đông con: ba trai ở Vác-xô-vi (một học đại học, hai ở ký túc xá). Ở nhà có Brôn-ka 18 tuổi, An-gia 10 tuổi, Sta-xơ ba tuổi và cuối cùng là bé gái Ma-rich-na mới sáu tháng. Thằng Sta-xơ nhộn lắm. Nghe người giữ nó giải thích rằng Chúa trời ở khắp nơi, Sta-xơ tỏ vẻ lo âu trên khuôn mặt xinh xắn, hỏi: “Thế nó có đuổi bắt em không? Nó có cắn không?” làm mọi người được một trận cười rũ rượi!”

Ma-ni-a ngừng viết, đặt bút trên cái bàn kê gần cửa và bước ra ngoài bao lơn, mặc dầu thời tiết đã lạnh. Quang cảnh bày ra trước mắt làm cô phì cười. Thật khôi hài là đi về một nơi ở vùng thôn quê hẻo lánh, cứ chắc mẩm là sẽ đến trước một khung cảnh thôn dã với những đồng cỏ, rừng rú, rồi vừa mở cửa sổ đã thấy một ống khói nhà máy cao sừng sững, che kín và phun khói đen làm bẩn cả bầu trời.

Đằng đẵng hàng mấy cây số, không một lùm cây, không một mảnh đồng cỏ, chỉ thấy ruộng củ cải đường mênh mông đơn điệu. Thu đến, củ cải rỡ còn đất, chất đầy xe bò từ khắp nơi chậm rãi ùn về xí nghiệp, là một xưởng làm đường. Mọi công việc của nông dân ở đây, từ gieo, xới đến gặt hái đều nhằm phục vụ nhà máy. Những dãy nhà gạch đỏ buồn tẻ của xưởng đã thu hút về đây những túp lều tranh của cái làng bé nhỏ Kra-xi-ni-ét. Ngay con sông cũng biến thành nô lệ của nhà máy, chảy đến thì trong vắt, chảy đi thì đục ngầu, bọt váng nhầy nhụa.

Ông Z, là một kỹ sư nông học, rất theo sát những kỹ thuật hiện đại. Ông có nhiều cổ phần của xưởng đường và điều khiển việc khai thác hai trăm héc-ta củ cải. Trong gia đình này cũng như ở nhiều nhà khác, mọi câu chuyện đều hướng về công việc của xưởng đường.

Mình rơi vào đây, kể ra chẳng đến nỗi nào, Ma-ni-a vừa đóng cửa sổ vừa thầm nghĩ. Nhà máy chẳng có gì là đẹp, dù sao, chính nhờ nó mà cái địa phương hiu quạnh này mới nhộn nhịp hơn các nơi khác một chút. Vẫn thường có người ở Vác-xô-vi đi đi về về. Ngay trong xí nghiệp có một môi trường trí thức là kỹ sư và giám đốc khá thú vị. Có thể đến đây mượn sách báo, bà Z khó tính nhưng không xấu bụng. Đôi lúc bà thiếu tế nhị với cô giáo Ma-ni-a có lẽ vì bản thân bà trước đây cũng đi dạy tư và bước lên phú quý quá nhanh. Ông Z, một kỹ sư rất lịch thiệp, cô gái cả thật đáng yêu, bọn trẻ cũng dễ chịu. Được như thế là may mắn rồi!

*

Một cô giáo tại gia, lại ở thôn quê viết rất nhiều thư, thường khi chỉ là để được thư trả lời cùng các tin tức thành phố. Hết tuần rồi hết tháng, thời gian chậm rãi trôi. Ma-ni-a kể cho họ hàng và bè bạn từng chi tiết cuộc đời làm thuê của mình, từ công việc âm thầm hằng ngày đến những lúc “hầu chuyện” và giải trí miễn cưỡng.

Hết biên thư cho bố lại viết thư cho anh và hai chị. Cô cũng viết thư đến cho Ca-di-a bạn cũ ở trường trung học và cho Hăng-ri-ét, cô em họ mới lấy chồng ở Lô-vô, một tỉnh nhỏ, và đến giờ vẫn là một con người “thực dụng” sôi nổi. Ma-ni-a thổ lộ tâm tư, nói ra những thất vọng cùng ước mơ thầm kín của mình.

Thư cho Hăng-ri-ét, ngày 5 tháng 4 năm 1886.

“Chị sống ở đây như mọi người trong cảnh ngộ này quen sống. Ngoài việc dạy học, chị cũng học thêm, nhưng không dễ đâu, cứ khách đến là cả thời khóa biểu trong ngày bị đảo lộn. Nhiều lúc rất bực mình vì con bé An-gia được thể cứ chơi tràn, mỗi lần ngừng học giữa giờ là không tài nào bảo nó học lại được. Hôm nay lại có chuyện. Buổi sáng, đến giờ rồi mà nó lại không chịu dậy. Sau cùng chị phải lẳng lặng cầm tay nó kéo ra khỏi giường. Trong bụng, mình giận điên lên được. Em không thể mường tượng những chuyện nhỏ nhặt ấy tai hại như thế nào. Cứ mỗi lần như vậy là chị mệt hàng giờ. Nhưng mệt thì mệt vẫn phải cương quyết với nó.

Còn khách khứa ấy à? Toàn là kiểu ngồi rỗi lắm chuyện về hàng xóm, về những kiểu khiêu vũ, hội hè v.v... Nói về khiêu vũ thì khó mà tìm ra một nơi nào có những cô gái giỏi hơn vùng này. Ở đây, cô nào cũng nhảy tuyệt đẹp. Họ không phải là những người xấu, có nhiều cô rất thông minh nhưng không được học hành mở mang trí óc, mà còn bị quá nhiều hội hè không đâu làm cho phân tán. Còn thanh niên thì chẳng mấy người gọi là thông minh. Đừng nói đến “thuyết thực dụng” hoặc “vấn đề thợ thuyền” với trai gái ở đây. Chẳng khác gì nói trước bức vách. Có khi họ còn chưa hề nghe thấy những chữ đó.

Nếu em biết được chị đi đứng mẫu mực như thế nào! Chủ nhật và ngày lễ đến nhà thờ đều, không bao giờ vin cớ nhức đầu hay mệt mỏi để ngồi nhà. Không hề đả động đến vấn đề giáo dục đại học của phụ nữ. Nói chung trong lời nói, chị luôn luôn giữ đúng cương vị của mình.

Lễ Phục sinh này chị sẽ về Vác-xô-vi vài ngày. Cứ nghĩ đến trước là lòng lại rạo rực, phải cố kiềm, nếu không đã kêu lên vì sung sướng”.

*

Tuy nói mỉa mai cách “đi đứng mẫu mực” của mình như vậy, trong lòng Ma-ni-a vẫn ủ một tâm hồn táo bạo, khác thường, không chịu nổi lối sống khép nép theo khuôn khổ. Vẫn còn đây cô gái “thực dụng lý tưởng” nóng lòng muốn giúp ích, nóng lòng phấn đấu.

Ngày nào, Ma-ni-a cũng gặp trên con những con đường lầy lội trẻ em nông thôn, trai cũng như gái quần áo rách rưới, tiều tụy, vẻ mặt láu lỉnh dưới những mớ tóc rối bù. Một ý định nở trong tâm trí cô. Những tư tưởng tiến bộ mà lòng hằng tha thiết, sao không đem nó ra thực hành trong cái thế giới nhỏ ở vùng Schuc-ki này? Năm ngoái cô còn mơ ước “soi sáng” cho dân. Thì cơ hội là đây! Trẻ em trong làng phần lớn mù chữ. Số rất ít em được đến trường thì lại học vần chữ cái Nga. Lúc này mà mở lén lút một lớp dạy tiếng Ba Lan, khêu gợi cho những bộ óc non trẻ ấy biết vẻ đẹp của tiếng nói và của lịch sử dân tộc thì hay biết mấy!

Brôn-ka được cô giáo ngỏ ý, đồng tình ngay và sẵn sàng giúp đỡ.

- Chị cứ nghĩ cho chín – Ma-ri-a thấy cần làm dịu bớt sự bồng bột của bạn – Nếu có kẻ tố giác thì hai chúng mình sẽ bị đày đi Xi-bê-ri đấy!

Nhưng không gì dễ lây bằng lòng dũng cảm. Nhiệt tình và quyết tâm ánh lên trong khóe mắt của Brôn-ka, Ma-ni-a chỉ còn xin phép chủ nhà và đi đến các túp lều tranh giải thích và hô hào một cách kín đáo.

Thư cho Hăng-ri-ét, ngày 3 tháng 10 năm 1886:

“Chị có thể xin phép nghỉ hè nhưng chẳng biết đi đâu nên ở lại Schuc-ki. Cũng không muốn tốn tiền đi lên núi Các-pát. Hằng ngày, hết dạy An-gia, lại đọc sách với Brôn-ka rồi còn kèm con một bác nông dân mỗi ngày một giờ để chuẩn bị cho nó thi vào trường. Brôn-ka và chị còn kèm hai tiếng cho con em nông dân. Tất cả đến mười đứa, gần như một lớp nhỏ. Chúng học ngoan lắm, nhưng việc của chị lắm lúc cũng rất khó. Chỉ được cái an ủi là dần dà, kết quả khá hơn và cũng nhanh. Một ngày của chị là như thế đấy. Khá bận. Hơn nữa, chị còn học thêm cho mình”.

Cũng viết cho Hăng-ri-ét, tháng 12 năm 1886:

“Hiện giờ chị đã có mười tám em học sinh nông dân. Cố nhiên chúng không đến học cùng một lúc, vì như vậy không tài nào dạy được, mà ngay như thế này, mỗi thứ năm cũng mất đến hai giờ, thứ bảy còn kéo dài hơn, đến năm tiếng. Buồng của chị ở tầng thượng, có lối đi riêng, đi thang gác ngoài sân, không phiền đến ai cả. Niềm vui lớn và nguồn an ủi chính của chị cũng là ở mấy em bé đó”.

Thế là Ma-ri-a kèm An-gia học bài, lại dạy thêm cho Brôn-ka và còn nhắc nhở Giu-lếch mới ở trường trung học Vác-xô-vi về, ngồi học cứ ngủ gà ngủ gật, chốc chốc lại phải gọi. Vẫn chưa đủ. Việc xong đâu đấy, cô gái đảm này lên buồng mình, ngóng chờ những tiếng giày ủng nhỏ lẫn với tiếng chân đất bước lên cầu thang, báo hiệu là học trò đã đến. Cô đã mượn một cái bàn gỗ bách và mấy chiếc ghế để các em tập viết được thuận tiện. Cô còn trích tiền để dành ra mua vở và bút mực mà những bàn tay cóng sử dụng rất khó khăn vụng về. Những lần có bảy, tám em cùng ngồi học ở căn buồng rộng, tường trát vôi vữa thì cả Ma-ri-a và Brôn-ka phải vất vả mới giữ được trật tự và giúp những em kém đánh vần chữ khó. Chúng cứ hít ra hít vào, phì phò đến thiểu não.

Xúm quanh bộ áo màu xẫm và mớ tóc hung của cô giáo Ma-ri-a là con em các chị đi ở, các tá điền làm rẻ, và công nhân xưởng đường. Chúng lem luốc, hôi hám. Nhiều em còn chểnh mảng, bướng bỉnh. Nhưng các cặp mắt trong trẻo đều ánh lên một lòng ham muốn chân thành và sâu sắc là biết đọc và viết: hai chiến công quá sức tưởng tượng của các em. Và tim Ma-ni-a se lại, khi thấy mục đích nhỏ bé này đã đạt được, những dòng chữ đen trên tờ giấy trắng đã có ý nghĩa, trước niềm tự hào hân hoan của con trẻ và sự thán phục của các cha mẹ không biết chữ thỉnh thoảng đến đứng ở cuối buồng.

Cô giáo trẻ nghĩ đến cái nguồn nghị lực to lớn ấy chưa được sử dụng, đến những năng khiếu biết đâu còn ẩn nấp trong lớp người mộc mạc chất phát ấy. Trước biển cả mênh mông của sự dốt nát, cô cảm thấy mình yếu ớt biết chừng nào, bất lực biết chừng nào.