← Quay lại trang sách

PHẦN THỨ BA - Chương 19 MỘT MÌNH

Trước đây Marie đã vừa đảm đương việc nhà, vừa góp phần hoàn thành một công trình khoa học lớn, tuy có sự giúp sức của một người chồng thiên tài, vẫn làm chúng ta vô cùng khâm phục. Hồi đó, ta khó mà tưởng tượng được rằng bà có thể còn biết một cuộc sống khắc khổ hơn thế, còn cố gắng mãnh liệt hơn thế nữa.

Cảnh ngộ xưa kia êm đềm biết bao so với quãng đời sắp tới. Giờ đây, những trách nhiệm của “bà quả phụ Curie” có lẽ ngay đến một nam giới khỏe mạnh, yêu đời, dũng cảm cũng phát sợ!

Phải nuôi hai con nhỏ, kiếm sống cho mình và cho chúng, đảm nhiệm chức vụ giáo sư một cách vẻ vang. Ngày nay, không còn phần đóng góp bậc thầy của Pierre Curie, phải tiếp tục công trình nghiên cứu, đã cùng làm với người bạn đường ấy. Các phụ tá và học trò của bà cần nhận được ở bà những mệnh lệnh, những lời chỉ dẫn. Lại còn một nhiệm vụ quan trọng bậc nhất: xây dựng một phòng thí nghiệm xứng đáng với ước mơ chưa toại của Pierre, trong đó lớp người nghiên cứu trẻ tuổi sau này có thể phát triển được ngành khoa học mới về phóng xạ.

Chăm lo thứ nhất của Ma-ri là tạo cho hai con gái và bố chồng một cuộc sống lành mạnh. Bà thuê một cái nhà ở phố Đường xe lửa, số nhà 6, không duyên dáng lắm, nhưng được một cái vườn dễ chịu nên hóa đẹp. Cụ bác sĩ Qui-ri ở một cái chái riêng biệt. I-ren mừng rỡ nhận một mẩu đất nhỏ muốn trồng gì tùy ý. E-vơ tung tăng đi tìm con rùa ưa thích của mình giữa những lùm cỏ, và đuổi theo con mèo đốm, trong những lối đi hẹp, dưới sự chăm sóc của một người trông.

Thu xếp như thế lại phải mệt thêm một ít: phải đi nửa giờ xe lửa mới đến phòng thí nghiệm. Mỗi sáng, người ta thấy Ma-ri ra ga, bước đi vội vã và duyên dáng, như gợi lên một sự chậm trễ nào đó phải làm gấp cho kịp, trong một cuộc chạy đua không biết mệt mỏi. Hành khách trên tuyến đường này nhanh chóng quen thuộc bóng dáng người đàn bà mặc đại tang ấy, bao giờ cũng lên toa hạng hai của cùng một đoàn tàu hôi hám.

Ít có thời giờ quay trở về ăn ở Xô – Ma-ri lại làm quen với những cửa hàng bánh ngọt ở xóm La-tinh, mà năm xưa vẫn thường vào cũng một mình như ngày nay – nhưng dạo ấy còn trẻ và tràn đầy hy vọng vô tư. Hoặc bà đi đi lại trong phòng thí nghiệm, nhấm mấy miếng bánh mì, một ít hoa quả.

Chiều tối thường rất muộn, bà lại đáp xe lửa trở về, đến nhà thì đã lên đèn. Mùa đông, việc đầu tiên của bà là sưởi to ở phòng ngoài, cho thêm than củi, đinh ninh rằng, ngoài mình ra, không còn ai trên đời biết nhóm một ngọn lửa cháy hồng. Thật thế, Ma-ri biết xếp giấy, xếp củi đóm và chất những cục than hoặc củi thanh, như một nghệ sĩ, như một nhà hóa học. Khi lò đã reo lên vừa ý mình, bà ngả lưng trên chiếc trường kỷ để thở sau một ngày kiệt sức.

Vốn tính quá thầm kín, không muốn để lộ nỗi buồn riêng, Ma-ri không hề cho ai biết mình khóc, không cần đến ai đoái hoài hoặc khuyên giải. Không một ai biết những cơn thất vọng và mê sảng ghê sợ thường đêm đêm giầy vò Ma-ri. Những họ hàng thân thuộc rất đỗi ái ngại, thấy cặp mắt lờ đờ kia cứ trân trân trong khoảng không, và đôi bàn tay đã bắt đầu có tật cứ luôn luôn động đậy mấy ngón bao lần bị chất Ra-đi làm bỏng, thành thói quen không bỏ được.

Những năm buồn thảm ấy, có hai người giúp đỡ Ma-ri. Đó là Ma-ri-a Ca-miên-xka, em vợ Dô-dếp, nhã nhăn dịu dàng, theo lời khẩn khoản của Brô-ni-a đã nhận làm cô giáo và quản lý cho gia đình Qui-ri.

Cô gái Ba Lan này đem lại cho Ma-ri một chút tình đồng hương thắm thiết, mà vì xa quê hương đã lâu bà cảm thấy rất thiếu. Sau này, khi cô Ca-miên-xka vì ốm yếu phải trở về Vác-xô-vi, bà Qui-ri vẫn tìm nữ quản gia người Ba Lan để trông nom I-ren và E-vơ, tuy không được tin cẩn, duyên dáng như cô Ca-miên-xka.

Một người Ma-ri quí đặc biệt là cụ bác sĩ. Đối với cụ, Pi-e mất đi là một thử thách ghê gớm. Nhưng cụ vốn theo thuyết duy lý cứng rắn và rút ra được ở đó một phần nào can đảm mà con dâu cụ thiếu hẳn. Cụ cho luyến tiếc là vô ích, cụ không đi thăm viếng mồ mả. Sau đám tang, không bao giờ quay trở lại nghĩa trang nữa. Ở cụ, Pi-e đã chết là hết, cụ không để một bóng ma giày vò.

Sự bình thản, can trường đó có tác dụng tốt đến người quả phụ trẻ. Trước mặt bố chồng, đang cố sống một cách bình thường, thanh thản, Ma-ri thấy xấu hổ về sự bạc nhược, ủ rũ của mình. Và bà cũng lại cố tỏ ra nguôi dịu.

Có cụ, Ma-ri cảm thấy dễ chịu. Cụ cũng là nguồn vui đối với các cháu gái. Không có cụ già có đôi mắt xanh, có lẽ tuổi thơ ấu của hai đứa trẻ sẽ bị vùi dập vì tang tóc. Cụ còn hơn cả mẹ, cụ là bạn chơi, là thầy dạy học. Còn mẹ chúng lúc nào cũng vắng nhà, lúc nào cũng bận ở cái phòng thí nghiệm mà chúng cứ luôn nghe thấy nhắc đến bên tai. Bé E-vơ còn dại chưa biết thân mật lắm với ông nội, nhưng chị nó, đứa cháu gái chậm chạp và ít chan hòa “giống hệt bố nó” lúc còn sống thì luôn luôn quấn quít.

Cụ đem lại cho I-ren những hiểu biết vỡ lòng về sinh vật, thực vật. Cụ gây cho nó sự ham thích đọc Vích-to Huy-gô[45] và vào các dịp hè, viết cho nó những lá thư khuyên nhủ bổ ích và rất ngộ nghĩnh với một giọng châm biếm sắc sảo và một lời văn tuyệt diệu. Cụ còn hướng trí tuệ của đứa cháu gái một cách quyết định. I-ren sau này tính tình cân đối, rất ghét sầu não, đầu óc rất thực tế, theo chủ trương giáo dục ngoại đạo đều do ảnh hưởng trực tiếp từ ông nội.

Ma-ri săn sóc bố chồng ân cần tận tụy. Năm 1909 cụ ốm, nằm liệt giường suốt một năm trời vì sưng phổi. Bà dành tất cả thì giờ rảnh bên giường người bệnh khó tính, nôn nóng mà bà cố gắng tìm cách giải khuây.

Cụ mất hôm 25 tháng Hai 1910. Tại nghĩa trang ở Xô, mùa đông càng thêm lạnh lẽo và trần trụi, Ma-ri đề nghị những người đào huyệt làm một việc không ngờ. Bà yêu cầu nhấc quan tài Pi-e ra khỏi huyệt, đặt quan tài của cụ Qui-ri xuống dưới cùng, rồi mới hạ quan tài của Pi-e. Trên quan tài của người chồng mà bà không muốn bị xa cách khi chết, còn dành một chỗ trống mà Ma-ri nhìn ngắm rất lâu không chút hãi hùng.

*

Giờ đây, trong việc nuôi dạy hai con nhỏ, Ma-ri Qui-ri chỉ còn biết trông vào mình. Về cách dạy trẻ ban đầu bà có những quan niệm rất rõ mà những người lần lượt đến giúp việc ở nhà được đúng như ý bà.

Mỗi ngày thường bắt đầu bằng một giờ học, mà Ma-ri cố làm cho hấp dẫn: Bà áy náy đón chờ những biểu hiện về năng khiếu của hai con gái và ghi chép vào quyển vở mà xám mỗi bước tiến về toán của I-ren, khiếu âm nhạc sớm phát triển của E-vơ.

Sau đó, hai đứa bé được ra chơi ngoài trời. Thời tiết thế nào cũng vậy, chúng đi chơi bộ rất xa và tập thể dục. Trong vườn nhà ở Xô, Ma-ri cho dựng một khung đu ở đó có treo đu lộn hình thang, đu vòng và dây leo. Được tập luyện ở nhà như vậy, hai cô gái trở nên những học trò ham mê của trường trung học thể thao và đoạt được ở đây nhiều giải thưởng đáng tự hào về thể thao dụng cụ.

Chúng còn làm vườn, tập nặn, làm bếp, khâu vá. Dù có mệt đến mấy, Ma-ri cũng cố gắng cùng hai con đi chơi xe đạp. Mùa hè, Ma-ri cùng đi bơi với các con và theo dõi những tiến bộ về bơi lội của chúng.

Ma-ri không thể rời Pa-ri được lâu, nên trong những tháng nghỉ hè I-ren và E-vơ được bác Hê-la trông nom. Bà thường dẫn hai cháu cùng với mấy con gái mình đi nghỉ mát ở những bãi biển ít người lui tới trên bờ biển Măng-sơ hoặc bờ Đại Tây dương.

Năm 1911, ba mẹ con về thăm Ba Lan lần đầu tiên. Bác Brô-ni-a mời hai cháu gái đến ở an dưỡng đường của mình. Các cô bé tập cưỡi ngựa, đi chơi núi, leo núi hàng mấy ngày liền, ở nhà lều của thổ dân. Ba-lô trên lưng, chân đi giầy đinh, Ma-ri thường đi trước hai con trên những nẻo đường mòn.

Tuy không khuyến khích các con làm những việc mạo hiểm, liều lĩnh dại dột, nhưng người mẹ dũng cảm đó muốn chúng được mạnh dạn, không có nhưng biểu hiện yếu đuối như “sợ bóng tối”, rúc đầu vào gối khi có giông bão, hoặc sợ trộm, sợ định mệnh. Xưa kia, Ma-ri đã từng sợ hãi như vậy, nên muốn giải thoát các con gái khỏi tâm trạng đó. Ngay cái chết vì tai nạn của Pi-e cũng không làm bà trở thành quá sợ sệt, gìn giữ hai con gái. Mới mười một, mười hai tuổi chúng đã được phép ra ngoài một mình. Rồi đây, chúng sẽ đi du lịch mà không cần ai đi cùng.

Ma-ri cũng chăm lo đến sức khỏe tinh thần của chúng, cố gắng tránh cho chúng những mơ màng nhớ nhung, đa sầu, đa cảm. Không bao giờ người mẹ góa nói với hai đứa con về bố chúng. Cho đến ngày cuối cùng của đời mình, họa hoằn lắm Ma-ri mới nhắc đến mấy tiếng “Pi-e” hoặc “Pi-e Qui-ri” hoặc “cha con”, hoặc “nhà tôi,” và trong câu chuyện, để tránh những kỷ niệm cũ, Ma-ri thường dùng những cách nói lảng không thể tưởng tượng được. Ma-ri không lấy thế làm có lỗi với hai con và nghĩ rằng thà để chúng chịu thiếu, bản thân mình thiếu đi những cảm xúc cao quý, còn hơn là làm cho chúng chìm đắm vào một bầu không khí u sầu.

Ma-ri không làm lễ rửa tội cho hai con gái. Và không cho chúng học kinh bổn. Bà thấy không thể dạy cho chúng những giáo điều mà bản thân mình không tin tưởng nữa. Bà sợ nhất cái quẫn của tâm hồn mà mình đã phải trải qua khi mất lòng tin. Nhưng lại rất tôn trọng tự do tín ngưỡng, bà đã từng nhiều lần nói với các con rằng nếu sau này chúng có muốn theo đạo, bà sẽ để chúng hoàn toàn tùy ý.

Vui lòng thấy các con không biết đến thời thơ ấu vất vả, tuổi thiếu niên thiếu thốn và thời thanh niên nghèo khó mà mình đã trải qua, nhưng bà không mong chúng sống cảnh giầu sang. Trong nhiều trường hợp, Ma-ri có thể đảm bảo cho hai con gái một gia tài lớn. Bà đã không làm như vậy. Khi đã là quả phụ, bà phải quyết định về quy chiết cái gam Ra-di mà Pi-e và bà tự tay làm ra và giờ đây thuộc quyền sở hữu của bà. Mặc dầu cụ bác sĩ Qui-ri và nhiều người trong hội đồng gia tộc có ý kiến khác, bà quyết định tặng phòng thí nghiệm mà bà phụ trách mảnh kim loại quý báu ấy, trị giá hơn triệu Phơ-răng.

Trên nhận thức tư tưởng của Ma-ri nghèo thì khó chịu, nhưng rất giầu thì thừa và chướng. Hai con gái mình sau này có phải tự kiếm sống là điều lành mạnh và tất nhiên.

Chương trình giáo dục xếp đặt công phu chu đáo ấy, chỉ còn thiếu một điểm phép lịch thiệp xã giao. Từ khi Pi-e không còn nữa Ma-ri không muốn tiếp khách khứa, trừ một số quen thân như Ang-đrê Đờ-biếc-nơ, gia đình Pe-ranh, gia đình Sa-van… Ngoài những người bạn thân ái và thông cảm ấy, I-ren và E-vơ không hề tiếp xúc với ai. Vì vậy, trước người lạ, I-ren rất nhút nhát và nhất định không chịu nói “Chào bà, chào bác”, mãi sau này, vẫn giữ tính nết ấy.

Tươi cười lịch thiệp, đến thăm hỏi người này, ở nhà tiếp người kia, nói những câu xã giao, có những cử chỉ đi đứng theo đúng nghi thức, đều là những kỳ công mà I-ren và E-vơ không hề làm được. Mười năm, hai mươi năm nữa, các cô sẽ thấy rằng cuộc sống trong xã hội có những đòi hỏi của nó, những cung cách của nó, câu nói “chào bà” tiếc thay lại là một việc cần thiết.

*

I-ren đã đỗ bằng tiểu học và đến tuổi vào trường trung học. Ma-ri muốn dạy con gái theo một phương pháp mới: học ít nhưng học tốt. Bà suy nghĩ rồi bàn với một người bạn, cũng là giáo sư ở Xoóc-bon và cũng có con nhỏ. Do bà gợi ý và vận động nẩy ra một đề án hợp tác giáo dục, trong đó các nhà tư tưởng lớn đương thời sẽ áp dụng một lối dạy dỗ mới cho các con em họ, họp lại.

Một cuộc sống rất hấp dẫn và thoải mái mở ra cho độ một chục trẻ em vừa trai vừa gái. Mỗi ngày chúng học một bài, do một ông thầy ưu tú dạy. Buổi sáng nọ, chúng ùa vào phòng thí nghiệm Xoóc-bon để nghe bác Giăng Pe-ranh giảng về hóa. Ngày hôm sau, đội quân tí hon ấy lại chuyển đến Phong-tơ-nay – Đất Hoa hồng dự buổi toán do bác Pôn Lăng-giơ-vanh dạy. Các môn văn, sử, ngoại ngữ, khoa học tự nhiên, nặn và vẽ, cũng đều được những thầy giỏi giảng dạy.

Ma-ri Qui-ri dành mỗi chiều thứ năm để giảng vật lý và đó quả là những bài vật lý sơ đẳng nhất đã từng được trình bày ở nơi này. Những bài rất hấp dẫn, giảng một cách thân mật dịu dàng mà học trò của bà, một số sau này trở thành những nhà bác học, sẽ còn say sưa nhớ mãi. Ma-ri có nhiều sáng kiến làm cho những hiện tượng trừu tượng và khô khan nêu trong các sách giáo khoa được minh họa sinh động, lý thú. Lấy bi xe đạp nhúng mỡ để lăn trên mặt phẳng dốc vẽ ra một hình Pa-ra-bôn, thế là xác minh được định luật về “sự rơi của các vật”. Một quả lắc ghi lại những chuyển động đều đặn của nó trên giấy hun khói. Một hàn thử biểu do chính tay các em làm và chia độ cũng ghi đúng nhiệt độ như những hàn thử biểu chính thức, làm cho mấy nhà thiết kế tí hon thấy tự hào vô hạn…

Ma-ri truyền cho các em lòng yêu thích khoa học và tinh thần cố gắng. Và cũng dạy cho các em phương pháp làm việc. Rất tài tính nhẩm, bà muốn cho các học trò mình được rèn luyện về môn này. Bà khẳng định:

– Phải đi đến chỗ không bao giờ nhầm, cái bí quyết là không hấp tấp.

Nếu một trong các cô học trò trong khi làm pin điện, bày bừa bãi thì Ma-ri đỏ mặt lên:

– Cháu đừng nói là “sẽ” rửa sau. Không được làm bẩn bàn ngay trong khi lắp máy hoặc làm một thí nghiệm.

Người phụ nữ được giải Nô-ben ấy, thỉnh thoảng lại dạy cho mấy đứa trẻ cầu kỳ những bài học thông thường về óc phán đoán. Một hôm bà hỏi các em:

– Ta phải làm thế nào để giữ cho chất lỏng đựng trong cái bình này được nóng lâu?

Lập tức Phăng-xít Pe-ranh, Giăng Lăng-giơ-vanh, I-da-ben Sa-van, I-ren Qui-ri – những ngôi sao khoa học ở lớp – đề ra một loạt giải pháp tài tình: bọc bình bằng vải len, cách ly bằng những phương pháp tinh vi… nhưng không thực hiện được.

Ma-ri mỉm cười và bảo:

– Tôi thì tôi bắt đầu tìm một cái nắp đậy.

Sau những lời nói rất nội trợ ấy, buổi học hôm thứ năm đó chấm dứt. Cửa đã mở, một chị giúp việc mang lên một khay đồ sộ bánh sừng bò, thỏi Sô-cô-la và cam.

Vừa nhai vừa bàn tán, mấy đứa trẻ tản ra sân trường. Các báo hàng ngày từ trước đến nay vẫn rình đón từng cử chỉ của bà Qui-ri, bắt đầu chế giễu một cách dí dỏm, nhẹ nhàng sự đột nhập của con em các nhà bác học vào các phòng thí nghiệm – tuy việc đột nhập ấy rất kín đáo và có sự trông nom chu đáo.

Một mẩu chuyện hàng ngày viết:

“Mấy cô bé, cậu bé tí hon đó đọc chưa thông, viết chưa thạo, mà đã được tùy tiện làm các thí nghiệm, chế ra dụng cụ và thử các phản ứng hóa học…

Trường Xoóc-bon và ngôi nhà ở phố Qui-vi-ê chưa nổ tung nhưng nguy cơ ấy cũng chưa hết đâu!”

Sau hai năm, kiểu giáo dục trên đây chấm dứt. Các cha mẹ bận quá không còn thì giờ để tiếp tục. Vả lại, các em phải chuẩn bị thi tú tài, cần học kỹ những chương trình chính thức. Ma-ri cho con gái vào trường tư thục Xê-vi-nhê, ở đây số giờ học có bớt đi khá nhiều. Chính ở trường này I-ren học xong cấp trung học và E-vơ về sau cũng học ở đó.

Những cố gắng cảm động của Ma-ri, quyết tâm của bà muốn bảo vệ cá tính và phẩm cách con gái từ thuở còn thơ như thế có hiệu quả không? Nhờ cách “giáo dục tập thể” trên, I-ren, tuy không có một vốn văn học đầy đủ, nhưng đã tiếp thu được một cơ sở khoa học bậc nhất, mà nếu chỉ học ở bất cứ trường trung học nào, cũng không thể có được. Còn về đức dục? Nếu nó thay đổi được sâu sắc bản chất con người thì thật là vượt quá ước mơ. Nhưng có nhiều điểm khắc sâu vào lòng chúng tôi một cách lâu dài là lòng ham thích làm việc, nhất là ở I-ren, một phần nào dửng dưng đối với tiền bạc là một bản năng tự lập làm cho hai chúng tôi tin chắc rằng gặp bất cứ tình huống nào, chúng tôi cũng biết xử sự. Còn việc khắc phục tính ưu tư phiền muộn thì có tác dụng đối với I-ren, nhưng ít kết quả trong trường hợp E-vơ. Mặc dầu mẹ chúng tôi cố gắng rất nhiều, những năm thơ ấu của tôi không được sung sướng. Riêng về một điểm, Ma-ri đã thành công hoàn toàn: hai con gái có thể lực tốt, lanh lẹ và ưa thích thể dục thể thao, đó là thành tích tốt đẹp nhất của một người đàn bà thông minh tuyệt vời và giầu độ lượng.

*

Chẳng phải không e dè mà tôi cố nêu lên ở đây những nguyên tắc chỉ đạo của mẹ tôi trong những bước đầu giáo dục chúng tôi. Nó có thể làm cho ta nghĩ đến một con người có phương pháp hơi cứng đờ vì định kiến. Sự thật thì khác. Người mẹ muốn cho chúng tôi cứng cỏi, vững vàng trước những đau thương, chính lại quá dịu dàng, quá tế nhị, quá nhậy cảm với đau khổ, Ma-ri thường luyện cho chúng tôi không có những tình cảm vuốt ve mềm yếu, thế nhưng bản thân bà có lẽ lại muốn hai con gái tỏ ra âu yếm, trìu mến mẹ nhiều hơn. Ma-ri chỉ không thấy điều đó mà thôi. Sau hết, người mẹ cứ muốn chúng tôi dày dạn hơn về tình cảm thường lại buồn rầu nét mặt trước mỗi dấu hiệu thờ ơ lạnh nhạt.

Không bao giờ bà muốn thử thách cái tính “dày dạn về tình cảm” của chúng tôi. Từ cái cốc đầu không tội vạ đến bắt “đứng xó” hoặc cắt món tráng miệng, những hình phạt thông thường đó chúng tôi đều không biết. Và cả những câu quát mắng, những lúc dằn vặt. Dù vui hay buồn, mẹ chúng tôi không khi nào cho phép được sẵng giọng. Một hôm I-ren tỏ vẻ hỗn, mẹ tôi muốn phạt để làm gương, nên quyết định không nói chuyện với I-ren trong hai ngày. Những ngày giờ ấy, đối với I-ren và mẹ tôi là những thử thách căng thẳng, nhưng người bị trừng phạt lại chính là Ma-ri. Tâm tư bối rối, bà đi đi, lại lại thiểu não, thảm hại trong gian nhà lặng ngắt, bà đau khổ hơn con gái.

Dạo ấy hai chị em tôi như nhiều đứa trẻ khác chỉ biết có mình và ít để tâm đến những biểu hiện tế nhị của tình cảm. Nhưng chúng tôi đều nhận thấy sức quyến rũ, lòng âu yếm thầm lặng và cái duyên dáng kín đáo ở con người mà ngay từ dòng đầu những bức thư vấy mực của chúng tôi, những bức thư ngây ngô mà mẹ chúng tôi buộc bằng dây lụa của hộp kẹo cũ, và giữ cho đến lúc chết, chúng tôi thường gọi mẹ là “Mẹ thân mến”, “Mẹ yêu quý” hoặc “Mẹ dịu hiền”.

Không bao giờ Ma-ri Qui-ri tìm cách làm cho chúng tôi tự hào về nghề nghiệp của bà, về vinh quang của bà. Làm sao bà có thể nghĩ ra điều đó, trong khi bản thân bà lúc nào cũng rụt rè, nhẫn nhục, khép nép trước sự nghiệp kỳ diệu của mình?

Ma-ri viết cho cháu gái Ha-na, ngày 6 tháng giêng 1913:

“Cháu viết thư cho dì nói rằng cháu ước sao được sống trước đây một thế kỷ, I-ren thì nhất nhất nói rằng muốn sống về sau này trong những thế kỷ sắp tới. Dì nghĩ rằng, thời nào ta cũng có thể sống một cuộc sống có ý nghĩa và bổ ích. Cái cần là không nên làm hỏng đời mình và có thể tự nói rằng: “Tôi đã làm việc hết sức mình”. Không ai có thể đòi hỏi hơn ở chúng ta, và đó cũng là điều duy nhất có thể mang lại cho ta một chút hạnh phúc.

Xuân năm ngoái, các em cháu có nuôi tằm. Dì bây giờ còn rất ốm yếu, và trong hàng tuần lễ buộc lòng phải nghỉ ngơi, dì xem rất lâu cách tằm kéo kén. Thật vô cùng hấp dẫn. Những con sâu rất hoạt bát, cần mẫn ấy làm việc rất chăm chỉ, kiên trì đã làm cho dì cảm kích thật sự. Nhìn ngắm chúng sao mà cảm thấy mình cùng loại với chúng như vậy. Tuy rằng có lẽ không được tổ chức khéo bằng chúng để lao động. Dì cũng vậy, lúc nào cũng hướng tới một mục đích duy nhất. Dì làm như thế mà không hề dám quả quyết rằng đó là chân lý và biết rằng cuộc đời ngắn ngủi và mỏng manh, trôi qua không để lại cái gì, và sẽ được lớp người đến sau quan niệm hoàn toàn khác. Dì làm thế nào có lẽ do một cái gì đó thúc đẩy cũng như con tằm phải làm cái kén. Con sâu đáng thương này phải khởi đầu kết kén dù cho không thể nào xong, nó vẫn làm việc chăm chú như thế. Và nếu không xong công việc đến cùng thì nó chết chẳng được biến dạng”.