← Quay lại trang sách

Chương 26 PHÒNG THÍ NGHIỆM

– Bà Qui-ri có ở đây không?

– Tôi tìm bà Qui-ri, bà đã đến chưa?

– Anh có trông thấy bà Qui-ri không?

Những nhân viên phòng thí nghiệm – cả nam lẫn nữ – mặc áo blu trắng, hỏi thăm nhau trong gian phòng mà nữ bác học phải đi qua khi vào viện Ra-đi-om. Sáng nào cũng vậy, thường có từ năm đến mười người đứng trực sẵn ở đó. Ai cũng muốn hỏi một câu, xin một lời chỉ bảo mà không “làm phiền” đến Ma-ri, bà thường gọi đùa đó là ban “Xô-viết” của Viện. Đúng chín giờ, chiếc xe hơi cũ lướt sau hàng rào phía đường Pi-e Qui-ri; quay vào trong sân. Tiếng cửa xe đóng sập. Bà Qui-ri xuất hiện giữa khung cửa của Viện mở ra vườn. Mọi người vui vẻ vây chung quanh Ma-ri. Với những giọng kính cẩn rụt rè người thì báo rằng đã “đo” xong hoặc cho biết tin về dung dịch “pô-lô-ni”, người thì gợi ý mời Ma-ri đến xem máy Uyn-xơn, sẽ thấy kết quả khả quan.

Ma-ri rất thích những câu hỏi dồn dập đầy nghị lực và lòng hăng say như thế mở đầu cho một ngày làm việc. Chưa kịp đi cất áo mũ, bà cứ đứng giữa những người đồng sự. Mỗi nét mặt đăm chiêu lại nhắc nhở cho Ma-ri một thí nghiệm mà trong những lúc yên tĩnh bà đã để tâm suy nghĩ.

– Anh Phuốc-ni-ê, tôi đã nghĩ đến việc anh nói với tôi. Ý hay đấy, nhưng phương pháp đề ra không dùng được. Tôi đã tìm ra cách làm khác để có thể dẫn đến kết quả. Ta sẽ bàn thêm. Thế nào chị Cốt-ten? Chị tìm ra số mấy? Chị chắc tính đúng chứ? Tối hôm qua, tôi làm lại bài tính và đáp số hơi khác. Thôi để rồi xem.

Trong những nhận xét ấy, không hề có chỗ nào nhầm lẫn hoặc đại khái. Những phút mà Ma-ri dành cho ai, hoàn toàn được dồn vào vấn đề mà người ấy đang tìm tòi suy nghĩ, vấn đề mà bà biết rõ từng chi tiết một. Ngay sau đấy, bà lại chuyển sang vấn đề khác với một người học trò khác. Bộ óc Ma-ri thích hợp một cách kỳ lạ với môn thể thao đặc biệt đó. Ở phòng thí nghiệm, nơi tập trung biết bao trí tuệ miệt mài, bà cũng ví như những kiện tướng đánh cờ, không nhìn bàn cờ, vẫn theo dõi được cùng một lúc ba, bốn ván cờ khác nhau.

Nhiều người đi qua, chào và dừng lại. Cuộc họp không hẹn mà đông. Ma-ri ngồi ngay xuống bậc cầu thang và tiếp tục cuộc giải đáp không chút nghi thức này. Ngồi thấp phải ngẩng đầu lên những người làm việc đứng ngay bên cạnh hay dựa vào tường, trông bà không có tư thế cổ điển của một thủ trưởng. Thế nhưng!...

Những sinh viên thực tập ở phòng thí nghiệm đều do Ma-ri chọn sau khi đã sát hạch cặn kẽ. Và công việc của họ cũng do Ma-ri chỉ định. Gặp khó khăn gì họ đến hỏi Ma-ri và tin tưởng là bà sẽ tìm ra sai lầm trong thí nghiệm đã làm cho họ lạc hướng.

Sau bốn mươi năm trời làm công tác khoa học, nhà nữ bác học tóc bạc ấy đã tích lũy được một vốn hiểu biết rộng lớn đã trở thành kho sách sống của Viện Ra-đi-om. Bà đã đọc tất cả các bài báo có dính líu đến những thí nghiệm ở Viện, bằng năm thứ tiếng bà nắm rất vững.

Bà khám phá ra những phát triển mới của các hiện tượng, và phát minh ra những kỹ thuật mới. Và sau cùng, Ma-ri có một đức tính vô cùng quý báu để gỡ rối cho mớ bòng bong giữa kiến thức và giả thuyết, đó là “đầu óc thực tế”. Những thuyết lung bung, những giả định hấp dẫn của một vài thực tập sinh đều bị bà Qui-ri vận dụng lý lẽ sắc bén bác bỏ. Làm việc với một người thầy như thế, vừa mạnh dạn, vừa thận trọng thật an toàn biết bao!

Nhóm tụ tập ở đầu cầu thang lại tan dần. Ai may mắn được Ma-ri gợi ý phấn khởi trở về nơi làm việc. Bà Qui-ri đi với một người trong bọn họ đến “phòng vật lý” hay “phòng hóa học” và tiếp tục bàn luận trước các dụng cụ thí nghiệm. Sau đó, bà mới được giải phóng để về phòng riêng, mặc áo blu đen, và chăm chú vào các thí nghiệm của mình. Nào bà có tập trung tư tưởng được lâu!

Lại có tiếng gõ cửa. Một nghiên cứu sinh trẻ xuất hiện, tay cầm một tập bản thảo. Sau anh còn một người nữa đợi. Cứ ngày thứ hai Hàn lâm khoa học họp để thông báo. Các tác giả có công trình được báo cáo ở hội nghị ngay chiều hôm ấy, thường đến xin bà Qui-ri ý kiến trước.

Ma-ri sang một phòng thật sáng để đọc các bản báo cáo đó. Một bàn làm việc to bằng gỗ sồi, một ngăn tra cứu sách, nhiều tủ sách, một máy chữ đã cũ, một ghế bành bọc da làm cho phòng có một vẻ nhã nhặn, kín đáo. Trên bàn, một lọ mực bằng đá hoa, nhiều chồng sách, một cốc vại đựng một lô bút máy và bút chì vót nhọn, một “mỹ nghệ phẩm” do một hội sinh viên tặng; một cái bình nhỏ khảo cổ đào được ở It-si-a, màu nâu rất xinh.

Những bàn tay đến nộp những báo cáo sắp trình bày ở Viện hàn lâm, run lên vì cảm động. Các tác giả biết rằng công trình của họ sẽ được đọc rất cẩn thận. Dưới con mắt nghiêm khắc của Ma-ri, bao giờ câu văn cũng chưa thật sáng, đoạn viết vẫn chưa thật gọn. Bà không chỉ tìm ra những sai lầm về nội dung kỹ thuật, mà còn thảo lại từng câu, chữa lại từng lỗi văn phạm.

– Tôi nghĩ thế này mới gọi là tạm được.

Rồi bà đưa lại bản thảo – mà anh đã phải trầy trật lắm mới hoàn thành – cho nhà nghiên cứu trẻ đang toát mồ hôi vì lo lắng.

Gặp một công trình làm cho mình hài lòng, Ma-ri tươi cười khen:

– Được lắm! Rất tốt!

Người làm báo cáo như được chắp cánh mà bay đến tận phòng thí nghiệm của gíáo sư Pe-ranh, có nhiệm vụ trình bày trước Viện Hàn lâm khoa học những thông báo của Viện Ra-đi-om.

Giáo sư không ngớt lời khen:

– Bà Qui-ri chẳng những là một nhà vật lý học lừng danh, mà còn là vị giám đốc phòng thí nghiệm giỏi nhất mà tôi biết.

Bí quyết của tài năng ấy ở đâu? Trước hết là do tinh thần trách nhiệm hiếm có của Ma-ri. Bà là người đầy tớ trung thành, người bảo vệ nhiệt tình uy tín và lợi ích của Viện Ra-đi-om.

Ma-ri Qui-ri kiên trì thu thập dự trữ chất phóng xạ cần cho những công trình nghiên cứu quy mô. Thư từ trao đổi giữa Ma-ri và các giám đốc nhà máy Ra-đi-om Bỉ và Hội liên hiệp các mỏ ở Ca-tăng-ga luôn luôn kết thúc như sau: Hội Liên hiệp mỏ gửi biếu bà Qui-ri mấy tấn phế liệu. Và Ma-ri hăng hái bắt tay ngay vào việc khai thác chất phóng xạ đang thiếu...

Năm này qua năm khác, phương tiện của phòng thí nghiệm giàu thêm. Người ta thường thấy bà cùng giáo sư Pe-ranh đến các bộ xin thêm trợ cấp và học bổng. Vì là “bà Qui-ri” nên ai cũng đều lắng nghe. Năm 1930, bà giành được một ngân sách đặc biệt là năm trăm nghìn quan cho việc nghiên cứu.

Cũng có lúc mệt nhọc và hơi bực vì cứ phải chạy chọt, bà kể lại cho E-vơ những buổi chầu chực ở phòng đợi, những nỗi lo âu bực bội và nói đùa:

– Không biết chừng đến lúc họ đuổi mình ra khỏi cửa như những kẻ ăn mày.

Được một tay lái vững vàng như vậy, phòng thí nghiệm Qui-ri dần dần đi vào khám phá tất cả các lĩnh vực của khoa phóng xạ còn bí ẩn.

Từ 1919 đến 1934, những nhà hóa học và vật lý ở Viện Ra-đi-om cho đăng bốn trăm tám mươi ba báo cáo khoa học, gồm ba mươi luận án. Trong số bốn trăm tám mươi ba thông báo đó, ba mươi mốt bài là của bà Qui-ri.

Con số dù cao vẫn được chú thích thêm – về cuối đời mình, bà Qui-ri chuẩn bị cho tương lai với một tinh thần hy sinh cao cả, và dành phần lớn thời giờ vào nhiệm vụ lãnh đạo và giảng dạy. Nếu bà cũng có thể để mỗi phút của mình vào công việc nghiên cứu của mình như những anh em trẻ cùng làm việc, thử hỏi sự nghiệp sáng tạo của bà còn tiến triển đến đâu? Và ai có thể nói được phần đóng góp của Ma-ri vào bao công trình nghiên cứu mà bà đã gợi ý, dìu dắt từng bước?

Ma-ri không hề đặt cho mình hai câu hỏi đó. Bà lấy làm mừng về những thắng lợi đạt được do tập thể những nhà bác học mà bà gọi với một giọng tự hào kín đáo là “Phòng thí nghiệm”.

Những khiếu về tâm lý và lòng nhân đạo đã giúp nhà nữ bác học vốn cô độc, trở thành một người có tài cổ vũ. Bình thường rất ít thân mật, bà Qui-ri đã giành được lòng quý mến tận tụy của người cùng làm việc mà sau bao nhiêu năm cộng tác hằng ngày, bà vẫn trân trọng gọi là “cô” hay “ông”.

Nếu Ma-ri mải bàn về một vấn đề khoa học mà ngồi ngoài trời quá lâu trên cái ghế dài ngoài vườn thì lập tức giọng lo âu của một chị phụ tá nhắc nhở:

– Mời bà vào ngay cho kẻo bị lạnh!

Và nếu Ma-ri mải làm việc quên cả ăn, cũng có những bàn tay kín đáo đặt một ít bánh mì, hoa quả ngay bên cạnh bà.

Anh em “lao công” ở phòng thí nghiệm và những công nhân cảm thấy quý bà vô hạn. Khi Ma-ri mượn một lái xe riêng, thì người ta thấy anh Gioóc Boa-tơ từ trước vẫn kiêm lao công, thợ máy, lái xe, làm vườn, rưng rưng nước mắt vì từ nay sẽ không được đưa bà Qui-ri từ phố Pi-e Qui-ri đến bến Bê-tuyn.

Một lòng thương yêu vô hạn, tuy không bộc lộ ra, gắn bó Ma-ri với những người cùng đấu tranh và giúp bà thấy được trong gia đình lớn này những tâm hồn nồng nhiệt cao quý nhất. Chưa lần nào mẹ tôi buồn như hồi tháng chín năm 1932 khi được tin một trong những học trò giỏi của bà bị chết đột ngột.

Bà viết cho tôi:

“Đến Pa-ri mẹ bị một nỗi buồn lớn. Nhà hóa học trẻ Ray-mông mà mẹ rất mến chết đuối ở một sông nhỏ vùng Ác-đéc sơ. Mẹ đã xúc động đến bàng hoàng. Bà mẹ anh viết thư nói rằng những năm trời làm việc ở phòng thí nghiệm là những năm quý nhất trong đời anh. Nhưng có ích gì nếu cuộc đời kết thúc như thế. Một tuổi trẻ đầy hứa hẹn, một thanh niên khôi ngô, tuấn tú đáng yêu, những năng khiếu đặc sắc – tất cả đều mất đi chỉ vì một cuộc tắm sông tai hại”.

Cặp mắt sáng suốt của Ma-ri phân biệt cái kém và cái giỏi, nghiêm khắc nhìn ra chỗ mắc mớ thường làm cho người nghiên cứu không vươn lên thành nhà bác học được. Bà sợ nhất những ai vụng về. Còn sợ hơn cả kẻ hay khoe khoang. Một bàn tay lóng ngóng làm đổ vỡ cả một công trình lắp máy trong phòng thí nghiệm làm bà phát bực. Một hôm, bà thân mật nói về một người làm thí nghiệm không có tài:

– Nếu ai cũng như anh ta, thì môn vật lý khó mà tiến được.

Mỗi lần một đồng sự trình bày xong một luận án, một đề tài tốt nghiệp hoặc được một giải thưởng thì cả phòng thí nghiệm thường tổ chức ăn mừng. Mùa hạ, làm ở ngoài trời, dưới bóng những cây trà ở ngoài vườn. Mùa đông, tiếng bát đĩa loảng xoảng bỗng làm rối loạn sự yên tĩnh của thư viện, gian phòng rộng rãi nhất của Viện Ra-đi-om. Bát đĩa thật kỳ dị! Cốc kết tủa được dùng làm chén nước trà và ly rư ợu sâm banh, đũa khuấy bằng thủy tinh thay cho thìa.

Chị em sinh viên bưng bánh mời các bạn, các thầy và các công nhân viên. Đến dự có Ăng-đrê Đờ-biếc-nơ, giáo sư phụ trách các buổi thuyết trình của Viện; Phéc-năng Hô-nếch, trưởng phòng thí nghiệm và một bà Qui-ri hoạt bát, vui tươi, tay cứ phải giữ cốc nước trà cho khỏi bị đám đông va chạm.

Bỗng ai nấy im lặng. Bà Qui-ri sắp chúc mừng người trúng tuyển. Vài lời nói ấm áp, khen ngợi công trình độc đáo, và nêu bật khó khăn đã vượt qua. Cả phòng hoan hô nhiệt liệt khi bà chúc mừng cha mẹ nhân vật chính của bữa tiệc, hay nếu là một người nước ngoài thì thăm hỏi tổ quốc xa xôi của anh: “Trở về đất nước tươi đẹp của anh, đất nước mà tôi biết rất rõ, và đã được đồng bào của anh đón tiếp ân cần, mong anh sẽ giữ mãi một kỷ niệm tốt đẹp ở Viện Ra-đi-om. Anh sẽ thấy rằng chúng ta làm việc rất nhiều, làm hết sức mình”.

Có một vài bữa tiệc trà đã làm Ma-ri cảm động đặc biệt. Đó là hai lần ăn mừng luận án tiến sĩ khoa học của con gái và con rể.

Ma-ri thấy rõ sự phát triển thiên tư của hai nhà bác học trẻ tuổi ấy, dưới sự chỉ đạo của mình. Năm 1934, hai vợ chồng I-ren đạt được một thành công rực rỡ: Sau nhiều năm nghiên cứu về sự biến chất nguyên tử, I-ren và Phrê-đê-rích Giô-li-ô đã tìm ra được “phóng xạ nhân tạo”: đem bắn phá hạt nhân của một vài chất như nhôm (Al), họ đã có thể biến chất này thành những chất phóng xạ mới, chưa có trong thiên nhiên, từ nay sẽ là những nguồn phóng xạ. Có thể dễ dàng đoán được tác dụng của sự cấu tạo nguyên thủy lạ lùng đó trong các lĩnh vực hóa học, sinh lý học, y học. Rồi đây người ta sẽ chế tạo trong công nghiệp hàng loạt các chất có tính phóng xạ giống như Ra-đi để đáp ứng nhu cầu trị bệnh bằng phóng xạ.

Trong một buổi họp ở Hội vật lý mà con gái và con rể trình bày công trình của họ, Ma-ri chăm chú tự hào, ngồi lẫn với thính giả. Gặp An-be La-boóc, khi xưa là phụ tá của mình và của Pi-e Qui-ri, bà niềm nở khác thường.

– Thế nào? Chúng nói tốt đấy chứ? Tôi nhớ lại cái thời oanh liệt của chúng mình ở phòng thí nghiệm cũ.

Bà xúc động quá, say sưa quá, ngồi mãi trong buổi liên hoan. Lúc về, đi bộ dọc bến tàu cùng với nhiều bạn đồng nghiệp, câu chuyện vẫn xoay quanh thành công của đôi trẻ.

Bên kia vườn của Viện ở phố Pi-e Qui-ri, nhóm cộng tác của giáo sư Rơ-gô mà Ma-ri thường thân mật gọi là “những người đàng trước mặt” đang lao vào tìm tòi cách trị bệnh ung thư. Từ 1919 đến 1935, tám nghìn ba trăm mười chín bệnh nhân được chữa ở Viện Ra-đi-om.

Clốt Rơ-gô, một nòng cốt của phòng thí nghiệm, cũng ra sức tập trung phương tiện cần thiết cho sự nghiệp của mình: chất Ra-đi, máy móc điều trị, các phòng làm việc, một bệnh viện. Trước con số rất lớn những ca khỏi bệnh và do nhu cầu khẩn cấp, ông phải đi vay Ra-đi – Hội liên hiệp mỏ ở Ca-tăng-ga Thượng cho mượn đến mười gam Ra-đi – và vận động nhà nước và tư nhân trợ cấp. Có một nhà hảo tâm biếu hội Qui-ri ba triệu bốn trăm nghìn Phơ-răng mà tế nhị giữ kín, không cho biết tên.

Trung tâm chữa bệnh theo phương pháp Qui-ri nổi tiếng nhất nước Pháp thành hình. Uy tín của nó rất lớn. Rồi đây, hơn hai trăm thầy thuốc ở năm châu sẽ đến xin thực tập để học cách chữa bệnh ung thư.

Tuy không tham dự vào công việc sinh lý học và y học, bà Qui-ri rất chăm chú theo dõi bước tiến của hai ngành này. Bà rất tâm đồng ý hợp với giáo sư Rơ-gô, người đồng sự có một ý thức phục vụ cao cả và một tinh thần vô tư tuyệt đối. Cũng như Ma-ri, ông luôn luôn gạt bỏ những lợi nhuận vật chất. Giá đi vào khám bệnh tư, ông có thể giàu to, nhưng riêng ý nghĩ đó cũng không hề nẩy ra trong tâm trí ông.

Bà Qui-ri và ông Rơ-gô rất đỗi kinh ngạc về sự hiệu nghiệm của cách chữa bệnh theo phương pháp Qui-ri, khi có bàn tay chuyên môn giỏi, nhưng cũng chung một lo lắng. Họ vô cùng lo ngại, và bất lực trước tệ lạm dụng chất Ra-đi thiếu lương tâm, đang lan tràn trên thế giới. Chỗ này, những thầy thuốc vì chưa hiểu, cứ dùng bừa chất phóng xạ đối với người bệnh, mà không hề nghĩ đến nguy cơ của lối “điều trị” đó. Nơi kia bán thuốc men hoặc mỹ phẩm “có chất Ra-đi” đôi khi còn lấy cả tên Qui-ri để làm quảng cáo...

Nhưng mẹ tôi, gia đình Qui-ri, giáo sư Rơ-gô và Viện Ra-đi-om tuyệt đối xa lạ với những việc làm đó.

*

– Bác xem hộ có gì quan trọng không? – Ma-ri bận rộn chỉ cho bà Ra-đê thư ký riêng tập thư từ báo chí đến hôm trước.

Những phong bì thường chỉ ghi vắn tắt “Bà Qui-ri Pa-ri” hay “Bà Qui-ri, nữ bác học Pháp”. Một nửa là thư xin chữ ký.

Với loại này đã có một phiếu in sẵn câu trả lời: Vì không muốn cho chữ ký, hoặc ký vào ảnh, bà Qui-ri xin lỗi... Đối với hạng cuồng nhiệt, viết tám hay mười trang, bằng nhiều thứ mực, điên rồ, dớ dẩn, thì chỉ có một cách trả lời là im lặng.

Các trường hợp khác, bà Qui-ri cặn kẽ đọc cho thư ký từng bức điện gửi đồng nghiệp ở nước ngoài, từng lá thư trả lời bao tiếng cầu cứu tuyệt vọng của những người cứ nghĩ rằng đã là Ma-ri Qui-ri là có thể cứu chữa được mọi bệnh hoạn, làm nhẹ mọi đau đớn; lại còn thư của mấy nhà chế tạo máy móc, rồi bản giá cả, hóa đơn, phúc đáp công văn, tất cả thành bốn mươi bảy hồ sơ. Nào như thế đã đủ đối với quan hệ rộng lớn của nhà nữ bác học. Khắp nơi gửi đến thư xin gặp. Cứ sáng thứ ba và thứ sáu, Ma-ri mặc cái áo đen lịch sự nhất của mình mà nói:

– Hôm nay là ngày giao thiệp. Ta phải chỉnh tề chứ.

Từ sớm, hành lang phòng thí nghiệm đã đông người ngồi đợi, có cả nhà báo mà một lời dặn trước của bà thư ký Ra-đê làm họ cụt hứng:

– Bà Qui-ri chỉ tiếp những vị nào hỏi về vấn đề kỹ thuật. Xin miễn phỏng vấn riêng.

Ma-ri vốn rất nhã nhặn, nhưng trong gian phòng chật hẹp, nghiêm nghị, với mấy chiếc ghế không đệm, sơ sài, trước sự sốt ruột không giấu nổi của Ma-ri lúc lúc lại đưa mắt lên nhìn đồng hồ, khách đến nói chuyện không tài nào ngồi lâu được.

Cứ đến thứ hai và thứ tư, mới sáng ra Ma-ri đã đứng ngồi không yên. Vì đúng năm giờ chiều phải lên lớp. Sau bữa ăn sáng, bà vào phòng riêng ở bến Bê-tuyn soạn bài giảng. Bà biên sẵn ra một tờ giấy đầu đề từng chương. Khoảng bốn giờ rưỡi, bà đến nơi làm việc và lại ngồi ở một phòng nhỏ để chuẩn bị thêm. Lúc này ai muốn gặp cũng không được.

Hai mươi nhăm năm dạy học, thế nhưng mỗi khi bước lên bục giảng đường nhỏ, trước mặt ba mươi bảy, bốn mươi học trò, bà vẫn không khỏi xúc động.

Một nếp hoạt động căng thẳng đáng sợ. Ma-ri còn viết báo, soạn sách khoa học. Một quyển nói về “Sự đồng vị và chất đồng vị”, một tiểu sử Pi-e Qui-ri xúc tích và cảm động, một quyển sách thu gọn toàn bộ bài giảng của Ma-ri Qui-ri với một hình thức hoàn hảo.

Những năm trời trong sáng và phong phú đó cũng là những năm chiến đấu dũng cảm! Ma-ri có nguy cơ bị hỏng cả hai mắt.

Kể từ năm 1920, thầy thuốc đã báo động là cả hai mắt có triệu chứng thành màng, và sẽ hoàn toàn không nhìn thấy gì. Ma-ri không để cho ai đoán biết nỗi thất vọng của mình. Bà nói thẳng với hai con cái tai họa ấy và bàn ngay đến cách chữa; độ hai, ba năm nữa sẽ mổ mắt. Từ nay nhãn mắt mờ dần, như đặt một đám sương mù vĩnh viễn giữa bà và thế giới bên ngoài, với công việc nghiên cứu.

Ma-ri viết cho Brô-ni-a, 10 tháng 11 năm 1920:

“Em bị rầy rà nhất về hai mắt và hai tai. Mắt kém lắm rồi, và có điều trị chắc cũng chẳng ăn thua gì. Tai cứ ù suốt ngày, có khi đến nhức óc. Em rất lo, công việc có thể bị trở ngại, thậm chí gián đoạn hẳn. Mấy triệu chứng trên có lẽ do chất Ra-đi gây ra, nhưng không khẳng định hẳn đư ợc.

Đó là những nỗi buồn của em. Chị đừng nói với ai, để cho khỏi lan ra ngoài. Thôi, ta bàn chuyện khác”.

“Đừng nói với ai”, với I-ren và E-vơ, Ma-ri cũng dặn như thế, với các anh chị, với anh ruột là những người tâm sự duy nhất của mình. Ma-ri chỉ có một lo ngại là, nếu không giữ kín, để tin này lan ra, và một ngày kia, báo sẽ đăng “Bà Qui-ri bị tàn phế”.

Hai bác sĩ điều trị cho bà Qui-ri, cũng lo như vậy. Người bệnh lấy một tên khác. Đó là bà Ca-rê nào đó bị mắt có màng. Và mỗi lần E-vơ vào hiệu thuốc hỏi mua kính, cũng là mua cho bà Ca-rê đó thôi.

Ma-ri viết cho E-vơ ngày 13 tháng 7 1923:

“Mẹ định đi mổ mắt vào ngày 18, sáng thứ tư. Con chỉ cần về từ tối hôm trước. Với cái nóng khủng khiếp này e rằng con mệt. Con nói hộ với bạn bè ở Lác-cu-ét rằng mẹ đang bận về một cuốn sách mà hai mẹ con ta cùng làm, do đó mẹ cần đến con vì người ta giục gấp.

Mẹ hôn con

Nói càng ít càng hay con nhé!”

Những ngày nóng nực nằm bệnh viện, E-vơ phải bón súp bằng thìa cho bà Ca-rê im lặng, đầu quấn toàn băng. Mối lo ngại bệnh có thể trở chứng gây xuất huyết, hàng tuần lễ làm tiêu tan hy vọng khỏi bệnh.

Hai lần mổ mắt nữa vào tháng ba 1924. Một lần thứ tư vào năm 1930. Vừa mới được tháo băng, Ma-ri đã tập dùng đôi mắt không bình thường, đã mất nhân, không còn điều tiết được nữa.

Ma-ri viết cho E-vơ, từ nơi điều dưỡng ở Ca-va-le vài tháng sau lần mổ thứ nhất:

“Mẹ cố tập đi lại không dùng kính có tiến bộ. Đã hai lần đi chơi núi, đường hiểm, sỏi đá gập ghềnh, thế mà vẫn bước nhanh, không có chuyện gì. Cái khó khăn hiện nay là cứ nhìn một hóa hai, thành thử không nhận ra được ai đến gần. Mỗi ngày mẹ tập đọc và tập viết. Đến nay việc đó còn khó hơn tập đi. Có lẽ con sẽ phải giúp mẹ biên soạn bài cho Bách khoa Toàn thư Anh quốc”.

Dần dần Ma-ri đã thắng số mệnh. Nhờ đeo thêm kính to bà đã có thể nhìn gần như bình thường, đi ra phố một mình, lái xe lấy và ở phòng thí nghiệm lại làm được việc cân đo tỉ mỉ. Một sự kỳ diệu của bà! Ma-ri lại thoát khỏi bóng tối, lại có đủ ánh sáng để làm việc, làm việc cho đến hết đời.

Một bức thư nhỏ, Ma-ri viết cho Brô-ni-a, từ tháng chín 1927, cho bà biết bí quyết của thắng lợi này:

“Nhiều lúc em không còn đủ can đảm nữa và tự nhủ rằng có lẽ đến phải nghỉ hẳn, về sống ở thôn quê vui với vườn tược. Nhưng trăm nghìn dây ràng buộc, biết bao giờ mới thu xếp được như thế. Em cũng chẳng rõ, mà dù chỉ viết sách khoa học, chả chắc mình đã có thể rời được và thí nghiệm”.

*

“Chả chắc mình có thể rời được phòng thí nghiệm...”

Muốn hiểu được lời thốt từ đáy lòng ấy, phải thấy Ma-ri trước những dụng cụ thí nghiệm của mình mỗi khi xong sự vụ hàng ngày là bà lại có thể say sưa nghiên cứu. Không cứ phải một thí nghiệm quan trọng, khuôn mặt gày gò mới tỏ ra đăm chiêu ngây ngất. Chỉ việc thổi thủy tinh được Ma-ri làm với một bàn tay nghệ sĩ, hoặc cân đo chính xác cũng làm cho bà sung sướng hân hoan. Sau này, một cô phụ tá chăm chú và nhậy cảm tên là Sa-mi-ê sẽ nhớ lại miêu tả bà Qui-ri hằng ngày, tiếc rằng không có một bức ảnh nào ghi lại vẻ say sưa ngây ngất ấy:

“Bà ngồi trước máy, làm cái việc đo lường trong ánh sáng mập mờ của một phòng không sưởi ấm, để tránh những thay đổi nhiệt độ. Mọi thao tác như mở máy bấm đồng hồ đo, nhấc quả cân v.v... đều được Ma-ri làm với một kỷ luật và một sự nhịp nhàng đáng phục. Một nhạc sĩ đánh dương cầm cũng không sử dụng đôi tay nhịp nhàng đến vậy. Đó là một kỹ xảo tuyệt trần, xuống mức thấp nhất hệ số sai lầm của bản thân”.

Sau khi tính toán rất nhanh để so sánh kết quả, bà tỏ ra vui sướng thật sự vì sai số còn thấp hơn giới hạn cho phép rất nhiều, đảm bảo rằng đo lường đã chính xác.

Ma-ri thường làm việc rất say sưa. Có lần, vào năm 1927, I-ren ốm nặng, làm bà lo lắng mất ăn mất ngủ, nhưng khi đã đứng trước máy trong phòng thí nghiệm, thì bà như quên tất cả, người quen đến hỏi tin về I-ren chỉ được trả lời vắn tắt, lạnh lùng và sau đó Ma- ri còn tỏ ra bực dọc là “không được yên mà làm việc”.

Ta hãy ngắm Ma-ri đang làm một thí nghiệm cơ bản chế tạo ra Ac-ti-ni X để lấy quang phổ của những tia an-pha, công trình cuối cùng của nhà nữ bác học.

– Phải lấy Ac-ti-ni X nguyên chất ở một trạng thái hóa học làm cho nó không thể tỏa khí được.

Cả một ngày làm việc vẫn chưa thể tách riêng được chất đó, Ma-ri Qui-ri ở lại và thí nghiệm, bỏ bữa ăn chiều. Nhưng chất đó đâu chịu tách ra nhanh, phải làm việc cả đêm cho cái nguồn phóng xạ đang được điều chế không kịp giảm đi nhiều.

Đến hai giờ sáng, vẫn còn một thao tác cuối cùng: phải ly tâm dung dịch trong một giờ, trên một cái giá đặc biệt. Tiếng máy ly tâm chạy nghe rất mệt. Nhưng Ma-ri cứ đứng cạnh nó, không chịu rời căn phòng. Mắt bà gắn với cái máy, tưởng chừng như lòng tha thiết mong cho thí nghiệm có kết quả có thể bất chấp Ac-ti-ni X kết tủa.

Lúc này, đối với bà Qui-ri, ngoài máy ly tâm ra, không còn gì trên đời nữa; cả cuộc sống ngày mai, cả cái mệt cơ thể. Thật là một sự tập trung cao độ vào việc đang làm…

Khi thí nghiệm không đạt kết quả mong muốn, trông Ma-ri thật thiểu não. Ngồi trên ghế, hai tay khoanh lại, lưng khom, mắt nhìn trống rỗng, Ma-ri giống như một bà cụ thôn quê, rất già, mặt buồn rầu trước một cái tang lớn. Ai nấy tưởng như một tai họa gì xảy ra. Hỏi thì được câu trả lời thống thiết:

– Thế là không lấy được chất Ac-ti-ni!

Hoặc bà đổ lỗi:

– Chất Pô-lô-ni nó thù tôi!

Nhưng nếu có kết quả thì lòng nhẹ nhõm, vui vẻ ríu rít, Ma-ri ra dạo vườn hoa, như muốn thổ lộ với những khóm hồng, mấy gốc trà, với mặt trời tất cả niềm vui sướng của mình. Ma-ri lại làm lành với khoa học rồi, lại cười nói vui vẻ.

Nếu một người nghiên cứu, nhân lúc đó, ngỏ ý muốn để bà xem một thí nghiệm đang làm, lập tức bà cùng đi đến tận cái máy đang đếm nguyên tử để ngắm quặng uy-lê-mít đang phát quang, do ảnh hưởng của Ra-đi.

Trước những sự kỳ diệu quen thuộc đó, đôi mắt màu tro sáng lên vì sung sướng, dường như Ma-ri đang ngắm một bức họa của Bô-ti-xê-li[56] hoặc của Véc-me[57] vậy.

Chú thích:

[56] Botticelli, họa sĩ Ý thời trước Phục Hưng

[57] Vermeer Van Delft, họa sĩ Hà Lan (1622-1675)