← Quay lại trang sách

Chương 1 Người thợ đốt lò

Khi Karl Roßmann tiến vào cảng New York trên con tàu đã chạy chậm lại (cha mẹ khốn khổ của chàng trai mười bảy tuổi[2] này đã tống cổ cậu sang Mỹ, vì cậu bị một ả người làm quyến rũ và có con với ả), cậu thấy pho tượng Nữ thần Tự do, mà cậu đã quan sát một lúc lâu, như đứng trong một bầu trời đột nhiên chói lọi hơn. Cánh tay cầm kiếm[3] như vừa mới vung lên và những làn không khí tự do đang thổi quanh thân tượng.

“Cao thế!” cậu nhủ thầm và không nghĩ gì đến chuyện rời khỏi chỗ nên bị đám phu khuân vác, đang kéo qua mặt càng lúc càng đông hơn, đẩy dần tới lan can tàu.

Một anh chàng cậu quen sơ trên chuyến tàu, hỏi khi đi ngang qua:

“Này, cậu chưa có hứng xuống tàu à?”

“Tôi xong rồi đây,” Karl mỉm cười nói với anh ta và, vì cậu là một chàng trai khỏe mạnh, hào hứng nhấc rương lên vai. Nhưng khi thấy chàng thanh niên quen biết kia vung vẩy ba toong đi khỏi cùng với những người khác, cậu điếng người nhận ra mình đã bỏ quên chiếc dù dưới tàu. Cậu vội nhờ anh chàng vui lòng chờ bên chiếc rương một lúc (anh chàng có vẻ không mấy hào hứng), quan sát vị trí để hình dung lối về, rồi đâm bổ chạy. Dưới boong tàu cậu buồn phiền thấy cái lối đi tắt đã bị chặn lại, lẽ ra nó có thể rút ngắn đường cho cậu rất nhiều; đây là lần đầu tiên nó bị chặn, hẳn có liên quan đến việc đưa mọi hành khách lên bờ, và cậu phải vất vả tìm đường qua những cầu thang nối tiếp nhau không ngớt, qua những hành lang quanh co liên tục, qua một căn phòng trống với chiếc bàn giấy bỏ không, cho đến khi cậu thật sự bị lạc hoàn toàn, vì trước đây cậu chỉ đi lối này một hoặc hai lần và lần nào cũng cùng với khá nhiều người nữa. Đang hoang mang sẵn, thêm không gặp một ai, lại còn nghe trên đầu tiếng lạo xạo của cả nghìn bàn chân người và tiếng chuyển động cuối cùng như một hơi thở hắt của những cỗ máy đã bị tắt từ phía xa, cậu liền đập bừa lên một cánh cửa nhỏ nào đấy gặp phải lúc đi lạc lòng vòng.

“Cửa mở mà,” có tiếng đáp từ bên trong và Karl mở ra, thở phào nhẹ nhõm.

“Làm gì mà cậu đập cửa như điên khùng thế?” một người đàn ông to như hộ pháp hỏi, khi vừa nhìn thấy Karl. Một luồng ánh sáng, từ ô cửa sổ nào đó trên cao, đã bị tiêu hao ở các tầng trên, khi xuống đến đây trở nên mờ đục, rọi vào căn buồng tồi tàn ấy, nơi một chiếc giường, một cái tủ, một chiếc ghế và người đàn ông đứng sát bên nhau như được chất trong kho.

“Tôi bị lạc,” Karl nói, “trong chuyến đi tôi đâu để ý rằng chiếc tàu này to khủng khiếp thế.”

“Phải, cậu nói đúng,” người đàn ông đáp với đôi chút tự hào và mải miết hí hoáy với ổ khóa của một chiếc hòm con mà hai tay ông ta không ngớt đóng khóa lại để lắng nghe tiếng chốt sập vào.

“Nhưng cậu vào đi thôi!” người đàn ông nói tiếp, “cậu không định đứng ngoài mãi chứ!”

“Tôi có làm phiền ông không đấy?” Karl hỏi.

“Chậc, cậu làm phiền tôi thế nào được!”

“Ông là người Đức à?” Karl hỏi để được yên tâm, vì cậu đã nghe nói về nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt từ bọn Ireland, đe dọa những người mới di dân tới Mỹ.

“Đích thị, đích thị,” người đàn ông đáp.

Karl vẫn còn ngần ngại. Đột nhiên người đàn ông nắm quả đấm cửa, kéo cánh cửa cùng với Karl vào trong và lẹ làng đóng lại.

“Tôi không chịu nổi khi có người đứng ngoài hành lang nhìn vào,” người đàn ông vừa nói vừa tiếp tục hí hoáy chiếc hòm, “ai đi qua cũng ngó vào thì trong mười người họa may mới có một người chịu đựng nổi!”

“Nhưng hành lang trống trơn mà,” Karl nói, đứng lúng túng như bị ép gí vào chân giường.

“Phải rồi, bây giờ thì trống,” người đàn ông nói.

“Thì mình đang nói về bây giờ mà,” Karl nghĩ, “trò chuyện với ông này khó gớm.”

“Cậu lên giường nằm đi, trên đó rộng rãi hơn,” người đàn ông nói.

Karl cố sức bò vào trong giường và cười phá lên vì lần đầu thử đu lên không được. Nhưng vừa ngồi trên giường cậu đã kêu lên: “Chúa ơi, tôi quên khuấy chiếc rương rồi!”

“Nó đang ở đâu thế?”

“Ở trên boong, một người quen trông giúp. Anh ta tên gì nhỉ?”

Và cậu móc ra một tấm danh thiếp từ cái túi bí mật mẹ cậu đã may vào lớp vải lót áo vét cho chuyến đi này. “Butterbaum, Franz Butterbaum.”

“Cậu cần chiếc rương lắm à?”

“Tất nhiên.”

“Thế sao cậu lại đưa nó cho người lạ?”

“Tại tôi quên cái dù dưới này nên chạy xuống lấy, nhưng không muốn kéo theo rương. Rồi tôi còn bị lạc ở đây nữa.”

“Cậu đi một mình? Không có ai đi cùng sao?”

“Vâng, một mình.”

“Có lẽ mình nên bám theo ông này,” Karl thầm nghĩ, “mình tìm đâu ngay được một người bạn tốt hơn?”

“Và bây giờ cậu mất luôn cả rương nữa. Ấy là chưa kể cái dù.”

Và người đàn ông ngồi lên ghế, như thể lúc này câu chuyện của Karl đã trở nên thú vị đôi chút đối với ông ta.

“Nhưng tôi tin rằng cái rương chưa mất.”

“Có tin có lành,” người đàn ông vừa nói vừa ra sức gãi mái tóc đen, ngắn và dày, “đạo đức trên tàu cũng thay đổi theo bến cảng. Ở Hambourg có thể gã Butterbaum của cậu canh giữ cái rương giúp cậu, nhưng ở đây rất có thể cả gã lẫn rương đều không cánh mà bay.”

“Thế thì tôi phải lên ngay xem sao,” Karl nói và nhìn quanh tìm lối ra.

“Ở lại đây thôi,” người đàn ông vừa nói vừa đưa tay ấn khá thô bạo lên ngực Karl, đẩy cậu vào giường trở lại.

“Tại sao chứ?” Karl bực tức hỏi.

“Vì làm thế là vô nghĩa,” người đàn ông nói, “lát nữa tôi cũng đi, ta sẽ cùng đi. Hoặc chiếc rương đã bị mất cắp thì vô phương, hoặc gã kia để lại đó thì khi tàu trống hết rồi ta càng dễ tìm. Cả cái dù của cậu nữa.”

“Ông rành con tàu này nhỉ?” Karl nghi ngờ hỏi và cảm thấy cái ý tưởng, bình thường rất thuyết phục, rằng trên con tàu trống sẽ dễ tìm đồ đạc của mình nhất có ẩn giấu một cạm bẫy.

“Tôi là thợ đốt lò[4] của tàu này mà,” người đàn ông nói.

“Ông là thợ đốt lò trên tàu!” Karl thích thú kêu lên, như thể điều này vượt quá mọi sự chờ đợi của mình và tựa trên khuỷu tay nhìn người đàn ông kỹ hơn. “Ngay trước phòng ngủ của tôi với gã người Slovak có một cửa khoang, có thể nhìn qua vào phòng máy được.”

“Đúng, tôi đã làm việc ở đó,” người thợ đốt lò nói.

“Xưa nay tôi vốn luôn thích kỹ thuật,” Karl nói và tiếp tục thả hồn trong ý nghĩ của mình, “và chắc chắn sau này tôi sẽ trở thành kỹ sư, nếu tôi không phải đi qua Mỹ.”

“Sao cậu lại phải qua Mỹ?”

“Chậc!” Karl tặc lưỡi và vừa phẩy tay bỏ qua câu chuyện, vừa mỉm cười nhìn người thợ đốt lò, như thể yêu cầu ông ta thông cảm cho việc cậu không thể tiết lộ.

“Chắc phải có lý do,” người thợ đốt lò nói, chẳng rõ ông ta đòi được biết hay ngăn cản cậu kể nguyên nhân.

“Bây giờ tôi cũng có thể trở thành thợ đốt lò, nếu được,” Karl nói, “bây giờ tôi làm gì thì bố mẹ tôi cũng chẳng quan tâm.”

“Chỗ làm của tôi sẽ khuyết người đấy,” người thợ đốt lò vừa nói với vẻ chắc chắn vừa thọc hai tay vào túi chiếc quần màu xám thép, nhăn nhúm giống như da, rồi gác và duỗi hai chân trên giường. Karl phải dịch sát hơn vào tường.

“Ông bỏ con tàu này à?”

“Đúng vậy, hôm hay tôi sẽ rút lui.”

“Sao thế? Ông không thích công việc này à?”

“Chà, hoàn cảnh mà, có phải lúc nào cũng do mình thích hay không đâu. Với lại cậu nói đúng, tôi cũng không thích nữa. Hẳn cậu không thật tâm muốn trở thành thợ đốt lò, nhưng chính vì thế mà người ta dễ trở thành thợ đốt lò nhất. Tôi dứt khoát khuyên cậu bỏ ý định đó đi. Nếu cậu từng muốn học đại học ở châu Âu, tại sao cậu lại không muốn học ở đây? Các trường đại học Mỹ hơn hẳn ở châu Âu chứ.”

“Có thể như thế thật,” Karl nói, “nhưng tôi hầu như không có tiền để học. Tuy tôi có đọc về người nào đó ban ngày làm việc trong một cửa hàng, ban đêm học đại học cho tới khi đỗ tiến sĩ và tôi tin là ông ấy đã trở thành thị trưởng, nhưng như thế cần kiên nhẫn lắm, nhỉ? Tôi e mình thiếu đức tính ấy. Ngoài ra tôi không phải là học sinh đặc biệt xuất sắc, vì thế việc bỏ học đối với tôi quả thật không có gì ghê gớm. Và các trường học ở đây có lẽ còn khó khăn hơn. Tiếng Anh hầu như tôi chẳng biết gì. Nhất là ở đây người ta có thành kiến với dân ngoại quốc.”

“Cậu cũng biết thế rồi à? Thế thì hay lắm. Vậy cậu đúng là người tôi đang cần. Cậu nghĩ xem, mình đang ở trên một chiếc tàu Đức, chạy tuyến Hambourg-Mỹ, tại sao trên tàu không phải toàn người Đức? Tại sao trưởng cơ khí là một tay Rumani? Tên hắn là Schubal. Thật không tin nổi. Và tên vô lại này ngược đãi người Đức chúng ta trên một chiếc tàu Đức! Cậu đừng nghĩ rằng” - ông ta hết hơi, tay phẩy phẩy - “tôi phàn nàn chỉ để phàn nàn. Tôi biết cậu chẳng có ảnh hưởng gì và cũng chỉ là một gã khốn khổ thôi. Nhưng mà chuyện này tồi tệ quá mức!”

Ông ta đấm liên tu bất tận lên bàn và trong lúc ấy mắt không rời nắm tay.

“Tôi từng làm trên nhiều tàu rồi chứ” - và ông ta kể ra một loạt hai mươi chiếc tàu như thể đó là một tên, khiến Karl hoang mang - “tôi xuất sắc, được khen ngợi, là một công nhân hợp ý các thuyền trưởng, thậm chí tôi đã phục vụ vài năm trên một tàu buôn.” Ông ta đứng dậy, như thể chuyện đó là đỉnh cao của cuộc đời mình. “Còn ở đây, trên con tàu này, nơi mọi việc được định sẵn đâu vào đấy, nơi chẳng cần gì đến tài cán thì tôi lại vô dụng, luôn luôn cản trở Schubal, tôi là thằng trây lười, đáng bị đuổi cổ và tôi được trả lương vì thương hại. Cậu hiểu điều này không? Tôi chịu.”

“Ông không được cam chịu chứ,” Karl khích động nói. Cậu quên bẵng mình đang ở trên những tấm ván không chắc chắn của một con tàu tại bờ biển của một lục địa lạ, cái giường của người thợ đốt lò đã khiến cậu thấy thân thuộc như ở nhà.

“Ông gặp thuyền trưởng chưa? Ông đã đòi hỏi ông ta về quyền lợi của mình chưa?”

“Thôi cậu đi đi, cậu làm ơn đi đi. Tôi không muốn có cậu ở đây nữa. Cậu không lắng nghe tôi nói, mà lại khuyên này khuyên nọ. Làm sao tôi gặp được thuyền trưởng chứ!” Và người thợ đốt lò lại mệt mỏi ngồi xuống, úp mặt vào hai bàn tay.

“Mình đâu thể khuyên ông ta điều gì hay hơn,” Karl tự nhủ. Và cậu thấy nên đi tìm rương hơn là ngồi đây đưa ra những lời khuyên chỉ bị coi là ngớ ngẩn. Khi cho đứt cậu cái rương, bố cậu hỏi đùa: “Con sẽ giữ nó được bao lâu?” và bây giờ có lẽ cậu đã thật sự mất chiếc rương khá quý giá này. Điều an ủi duy nhất là bố cậu không thể biết được hoàn cảnh của cậu hiện giờ, cho dù nếu ông dò hỏi. Công ty đường biển chỉ có thể trả lời rằng cậu đã tới New York thôi. Nhưng Karl thấy tiếc vì chưa hề dùng tới món nào trong đó, dù lẽ ra chẳng hạn cậu phải thay sơ mi từ lâu rồi. Nghĩa là cậu đã tiết kiệm không đúng chỗ; bây giờ, đúng lúc bắt đầu cuộc đời mới của mình, cần ăn mặc sạch sẽ tinh tươm thì cậu sẽ phải xuất hiện trong chiếc áo bẩn thỉu. Nếu không thì việc mất rương cũng chẳng có gì ghê gớm, vì bộ quần áo cậu đang mặc còn tốt hơn bộ trong rương, thật ra chỉ để phòng khi cần thiết mà mẹ cậu đã phải may nó sát trước ngày cậu đi. Bây giờ cậu cũng nhớ ra trong rương còn cả một khúc xúc xích Verona mẹ cậu đã đặc biệt gói thêm, mà cậu mới chỉ ăn một mẩu, vì suốt chuyến đi cậu không thấy ngon miệng và với cậu thì món xúp người ta phân phát cho hành khách ở khoang hạng chót cũng thừa đủ rồi. Nhưng bây giờ cậu ước ao có khúc xúc xích đó trong tay để biếu người thợ đốt lò. Vì rất dễ giành được cảm tình của những người như thế này, khi ta có món gì đấy nho nhỏ giúi cho họ. Cậu biết điều này từ bố cậu, qua việc ông lấy lòng mọi người làm thuê bằng cách cho họ thuốc xì gà. Bây giờ cậu chỉ còn tiền là thứ có thể tặng được mà cậu tạm thời không muốn đụng tới, phòng trường hợp cái rương bị mất thật. Đầu óc cậu quay trở lại với cái rương và cậu quả tình không thể hiểu nổi tại sao trong chuyến đi cậu chăm chú canh chừng nó đến hầu như không ngủ, vậy mà bây giờ cậu lại để cho cũng cái rương ấy bị lấy mất dễ dàng đến thế. Karl nhớ tới năm đêm cậu không ngớt nghi ngờ một gã Slovak nhỏ con, nằm cách cậu hai giường về phía trái, đã nhắm cái rương của cậu. Gã Slovak này chỉ rình Karl cuối cùng chợp mắt trong một khoảnh khắc vì mệt, để gã có thể kéo nó về phía gã bằng một cây que dài mà gã luôn dùng để chơi hay tập dượt trong ngày. Ban ngày trông gã Slovak này thật hồn nhiên, nhưng khi bóng đêm vừa buông xuống, gã thỉnh thoảng đứng lên khỏi giường, buồn rầu nhìn về phía cái rương của Karl. Karl có thể nhận thấy rất rõ điều này, vì thỉnh thoảng lại có một người di dân nào đấy trong lòng hồi hộp bất an thắp nến lên, bất chấp nội quy trên tàu cấm, để cố giải mã những tập sách mỏng khó hiểu của các cơ quan di dân. Nếu ngọn nến này gần giường Karl, cậu có thể chợp mắt một lúc, nhưng nếu nó ở xa hoặc tối thì cậu phải cố chong mắt thức. Nỗ lực ấy đã khiến cậu rất kiệt sức và bây giờ có lẽ nó hoàn toàn vô ích. Gã Butterbaum này, nếu có lần nào cậu còn gặp gã ở đâu đó mà xem!

Cho đến lúc ấy trong buồng hoàn toàn yên ắng, chợt đâu những tiếng khua ngắn và nhỏ vang lên từ xa, nghe như tiếng chân trẻ con, khi tới gần chúng trở nên mạnh hơn và giờ đây là tiếng bước đều của nhiều người đàn ông. Hẳn là họ đi hàng một, điều bình thường trong hành lang hẹp, nghe như có tiếng vũ khí loảng xoảng. Đang sắp nằm duỗi dài trên giường ngủ một giấc để thoát khỏi mọi âu lo về cái rương cùng gã Slovak, Karl giật nẩy mình, huých người thợ đốt lò để lưu ý ông ta, vì đoàn người dường như vừa tới ngay trước cửa buồng.

“Ban nhạc của tàu đấy,” người thợ đốt lò nói, “họ chơi trên kia, giờ họ về thu dọn hành trang. Bây giờ mọi việc đã xong và chúng ta có thể đi được rồi. Nào cậu!”

Ông ta nắm tay Karl, phút chót còn tháo tấm hình lồng khung Đức Mẹ treo tường trên đầu giường, cất vào ngực áo, cầm cái hòm và vội vã cùng với Karl rời căn buồng.

“Bây giờ tôi tới văn phòng và sẽ nói cho các quý ông biết tôi nghĩ gì. Không còn hành khách nào nữa, ta chẳng cần phải khoan nhượng.”

Người thợ đốt lò lặp lại câu này theo nhiều kiểu và trong lúc đi còn định tạt chân đạp bẹp một con chuột chạy ngang đó, song chỉ khiến nó lủi nhanh hơn vào cái hốc nó gặp kịp thời. Nói chung ông ta cử động chậm chạp, vì chân ông ta tuy dài nhưng lại quá nặng nề.

Họ đi ngang một phòng của nhà bếp, nơi vài cô gái khoác tạp dề bẩn thỉu đang rửa chén đĩa trong những chậu gỗ to - các cô ả cố ý làm bắn nước lên tạp dề. Người thợ đốt lò gọi một cô nàng Line nào đó lại, quàng tay quanh hông cô và dìu cô đi một khúc, trong lúc cô không ngớt làm duyên làm dáng nép người vào cánh tay ông ta.

“Bây giờ đi lĩnh lương, em đi cùng không?” ông ta hỏi.

“Việc gì em phải tốn công, tốt hơn anh hãy mang tiền về cho em,” cô đáp, rồi luồn dưới cánh tay ông ta và chạy đi. “Anh vớ được cậu bé xinh trai này ở đâu thế?” cô gọi với theo, nhưng không chờ được trả lời.

Có tiếng các cô cười ồ, họ đã ngừng rửa chén từ nãy rồi.

Hai người tiếp tục đi, tới một cái cửa mà bên trên là một vòm nhỏ tựa lên một chiếc cột con mang hình tượng người đàn bà giát vàng. Trên một con tàu mà trang trí như thế này thì rõ là hoang phí. Karl nhận thấy mình chưa tới khu này lần nào; trong chuyến đi có lẽ nó dành riêng cho hành khách hạng nhất và hạng nhì, còn bây giờ các cửa ngăn đã được mở để tổng vệ sinh tàu. Quả thật họ đã gặp vài người đàn ông vai vác chổi và chào người thợ đốt lò. Karl ngạc nhiên về sự nhộn nhịp này, ở boong giữa dĩ nhiên cậu đâu biết gì nhiều. Cậu thấy những đường dây điện chạy dọc theo các hành lang và nghe tiếng một cái chuông nho nhỏ rung liên tục.

Người thợ đốt lò kính cẩn gõ cửa và, khi nghe tiếng “Vào đi,” ông ta huơ tay bảo Karl vào, đừng sợ. Karl cũng bước vào, nhưng dừng lại ở cửa. Qua ba cửa sổ của căn phòng cậu nhìn thấy sóng biển và ngắm chúng tung tăng chuyển động mà tim rộn ràng, như thể cậu không hề nhìn biển suốt năm ngày liên tục. Những chiếc tàu lớn cắt ngang đường của nhau và tùy trọng tải mà chúng trồi lên sụt xuống nhiều ít theo con sóng. Nếu nheo mắt, ta có cảm tưởng những con tàu này tròng trành chính vì trọng tải của chúng. Trên các cột buồm, những lá cờ hẹp nhưng dài, mặc dù căng phồng theo gió lúc tàu chạy song vẫn phất phới. Tiếng súng chào mừng vang rền, hẳn là từ các tàu chiến; một chiếc tàu ấy chạy qua gần đấy, những nòng đại bác loáng ánh nắng phản chiếu trên lớp vỏ thép, như được vuốt ve bởi sự di chuyển vững chãi, uyển chuyển nhưng dập dềnh. Ta chỉ thấy được, ít nhất là từ cửa phòng, các tàu nhỏ và thuyền nơi phía xa, khi chúng chạy thành đoàn vào những khoảng trống giữa các con tàu lớn. Đứng sau tất cả những cái này là New York và nó nhìn Karl với hàng trăm nghìn cửa sổ của những tòa nhà chọc trời. Phải, trong căn phòng này ta biết ta đang ở đâu.

Tại một chiếc bàn tròn có ba ông đang ngồi, người mặc đồng phục xanh lơ là sĩ quan của tàu, hai người kia là viên chức cơ quan quản lý bến cảng trong đồng phục đen của Mỹ. Trên bàn chất thành chồng những hồ sơ đủ loại mà viên sĩ quan với cây bút trên tay xem lướt qua trước rồi trao cho hai người kia, khi thì họ đọc, lúc thì họ trích dẫn, khi thì họ cất vào cặp, nếu người có hàm răng gần như liên tục gây ra tiếng kêu lách cách không đọc gì đấy để đồng sự ghi vào biên bản.

Ngồi tại một chiếc bàn giấy bên cửa sổ, quay lưng ra cửa là một ông hơi nhỏ người, đang bận bịu với những quyển sách khổ to đặt cạnh nhau ngang tầm mắt ông ta, trên một kệ sách kiên cố. Cạnh ông ta là một cái két để mở, thoạt nhìn dường như trống trơn.

Cửa sổ thứ hai trống và nhìn ra rõ nhất. Nhưng gần cửa sổ thứ ba có hai ông đang đứng trò chuyện khe khẽ. Người đứng tựa bên cửa sổ cũng mặc đồng phục của tàu, tay mân mê đốc kiếm. Người đang trò chuyện với ông ta đứng quay về phía cửa sổ, thỉnh thoảng lại cử động làm hiện ra phần nào hàng huân chương trên ngực ông kia. Ông này mặc thường phục, cầm một cây gậy trúc mỏng và nó cũng dựng đứng tựa thanh kiếm, vì hai tay ông ta chống trên hông.

Karl không có nhiều thì giờ để nhìn hết tất cả, vì một gã giúp việc đã nhanh chóng tiến về phía họ, ngó người thợ đốt lò như thể ông ta không thuộc về nơi này và hỏi ông ta muốn gì. Người thợ đốt lò trả lời, cũng khẽ như khi được hỏi, rằng muốn nói chuyện với chánh thủ quỹ. Gã giúp việc, về phần mình, phẩy tay từ khước lời yêu cầu, nhưng vẫn nhón chân đi vòng thật xa tránh chiếc bàn tròn, tới bên người đàn ông với những quyển sách khổ to. Ông này - ta thấy rõ ràng - gần như sững người trước lời lẽ của gã giúp việc, nhưng cuối cùng đã quay về phía người đàn ông muốn được nói chuyện với mình, rồi phất tay nghiêm khắc xua đuổi người thợ đốt lò và, để chắc chắn, luôn cả gã giúp việc. Gã giúp việc liền quay lại người thợ đốt lò, nói bằng giọng như thể tiết lộ với ông ta điều gì đấy: “Ông xéo ngay khỏi phòng đi thôi!”

Nghe câu trả lời này người thợ đốt lò liền cúi nhìn Karl, như thể cậu là trái tim của ông ta, để ông ta lặng lẽ than thở tình trạng đáng thương của mình. Không nghĩ ngợi gì thêm, Karl liền rời chỗ, chạy xuyên qua phòng, chạm cả vào chiếc ghế của viên sĩ quan; gã giúp việc lom khom chạy theo, dang hai tay trong tư thế ôm, như thể đang đuổi bắt sâu bọ, nhưng Karl đã đến bàn của chánh thủ quỹ trước gã, cậu nắm chặt chiếc bàn, phòng trường hợp gã giúp việc tìm cách kéo cậu đi.

Tất nhiên cả căn phòng lập tức nhốn nháo. Viên sĩ quan ở bàn nhảy dựng lên, hai viên chức bến cảng bình thản nhìn nhưng chăm chú, hai ông ở cửa sổ bước lại cạnh nhau; gã giúp việc liền lùi lại, vì cho rằng khi các ông lớn đã quan tâm thì gã đứng đó chỉ gây phiền toái. Còn người thợ đốt lò đứng ở cửa, căng thẳng chờ giây phút sự hỗ trợ của mình được cần đến. Cuối cùng viên chánh thủ quỹ xoay mạnh người sang bên phải trên cái ghế tựa của hắn.

Karl moi trong cái túi bí mật - mà cậu không ngần ngại trước ánh mắt của những người này - lấy hộ chiếu của mình, mở ra đặt lên bàn thay cho lời tự giới thiệu dông dài. Viên chánh thủ quỹ dường như coi hộ chiếu này là chuyện vặt vãnh, vì hắn đẩy nó sang bên bằng hai ngón tay; Karl liền cất nó vào túi trở lại, cho rằng chuyện thủ tục đã được giải quyết thỏa đáng.

Rồi cậu lên tiếng: “Tôi xin được nói rằng theo ý tôi thì ông thợ đốt lò đã bị đối xử bất công. Ở đây có một người tên Schubal nào đấy đã xử ép ông. Bản thân ông đã phục vụ trên nhiều tàu, mà ông có thể nêu tên ra hết với quý vị, và được hoàn toàn hài lòng; ông chăm chỉ, trân trọng công việc, nên thật sự không thể nào hiểu nổi tại sao trên chính con tàu này, nơi công việc không khó khăn quá mức, như chẳng hạn trên những tàu buôn, ông lại phục vụ kém. Vậy đó chỉ có thể là sự vu khống nhằm cản trở bước đường thăng tiến cũng như sự khen ngợi mà lẽ ra chắc chắn ông phải được hưởng. Tôi chỉ nói đại để về chuyện này thôi, còn ông sẽ tự trình bày cùng quý vị những khiếu nại riêng của mình.”

Karl hướng những lời lẽ này tới mọi người, vì quả thật ai nấy đều lắng nghe và hẳn là trong số tất cả những người này cậu dễ tìm được người công minh hơn là ở chính viên chánh thủ quỹ. Ngoài ra Karl đã khôn ngoan giấu nhẹm việc mình quen biết người thợ đốt lò chỉ mới đây thôi. Lẽ ra Karl còn ăn nói lưu loát hơn nhiều, nếu không bị gương mặt đỏ au của ông già cầm gậy trúc làm xao xuyến, gương mặt mà cậu lần đầu tiên trông thấy từ chỗ cậu hiện đang đứng.

“Đúng từng chữ một,” người thợ đốt lò nói, dù chưa có ai kịp hỏi, thậm chí trước khi người ta kịp nhìn về phía ông ta. Sự quá nhanh nhảu này của người thợ đốt lò lẽ ra sẽ là một sai lầm lớn, nếu như người đàn ông đeo huân chương (chắc chắn là thuyền trưởng, điều này vừa lóe lên trong đầu Karl) không tự nhủ lòng phải lắng nghe người thợ đốt lò trình bày. Ông chìa tay ra và gọi người thợ đốt lò: “Ông lại đây!” với giọng chắc nịch, như lấy búa nện lên được. Bây giờ tất cả tùy thuộc vào thái độ ứng xử của người thợ đốt lò, vì cậu không nghi ngờ gì về những chuyện liên quan đến sự công bình trong vụ việc của ông ta.

May thay lúc này mới thấy là người thợ đốt lò đã đi nhiều nơi trên thế giới. Với một sự bình thản mẫu mực, ông ta lấy ra ngay từ cái rương con một bó nhỏ giấy tờ cùng một sổ ghi chú, rồi - hoàn toàn không chú ý tới viên chánh thủ quỹ, như thể đó là chuyện đương nhiên - cầm tới chỗ thuyền trưởng, trải bằng chứng của mình lên thành cửa sổ. Viên chánh thủ quỹ không còn cách nào khác hơn là cũng phải cất công đi tới đó.

“Anh này nổi tiếng là vua kiện cáo,” hắn giải thích, “anh ta thường ở quầy chi thu hơn là trong buồng máy. Anh ta đã khiến Schubal, con người điềm đạm ấy, phát điên lên được. Anh nghe này!” hắn nói với người thợ đốt lò, “quả thật anh đã quấy rầy quá mức rồi đấy. Đã bao lần người ta tống cổ anh ra khỏi các phòng phát lương, xứng đáng với những đòi hỏi rặt phi lý, không có ngoại lệ, của anh! Đã bao lần anh chạy từ đó tới quầy thu ngân chính! Đã bao lần người ta thân ái bảo anh rằng Schubal là cấp trên trực tiếp của anh, anh là cấp dưới thì phải tự thỏa thuận với ông ta! Và bây giờ thậm chí anh còn tới đây, khi có mặt ngài thuyền trưởng; chẳng những không xấu hổ vì đã quấy rầy ngài, anh lại còn không ngần ngại dẫn theo cậu bé này, mà đây là lần đầu tiên tôi thấy trên tàu, làm kẻ phát ngôn như vẹt cho những cáo buộc tào lao của anh!”

Karl cố kiềm chế không xông tới. Nhưng thuyền trưởng đã lên tiếng: “Chúng ta hãy nghe người này nói đã. Dẫu sao tôi thấy Schubal càng ngày càng quá tự chuyên, tôi nói thế không phải thiên về ông đâu nhá.” Câu sau nhắm vào người thợ đốt lò, tất nhiên thuyền trưởng không thể lập tức can thiệp cho ông ta được, nhưng mọi chuyện có vẻ tiến triển tốt. Người thợ đốt lò bắt đầu giải thích và ngay từ đầu đã biết tự kiềm chế, khi gọi Schubal bằng “ông”. Đứng bên chiếc bàn giấy đã bỏ trống của viên chánh thủ quỹ Karl vui xiết bao, cậu luôn tay ấn cái cân thư một cách thích thú. - Ông Schubal không công bằng! Ông Schubal thiên vị người ngoại quốc! Ông Schubal tống người thợ đốt lò ra khỏi buồng máy, bắt ông ta cọ nhà vệ sinh, mà chắc chắn đó không phải là công việc của người thợ đốt lò! Có lúc ông ta thậm chí còn hoài nghi năng lực của ông Schubal, bảo đó chỉ là bề ngoài chứ không thực chất. Nghe thế, Karl đăm đăm nhìn thuyền trưởng, vẻ tin cậy, như thể ông là đồng nghiệp của cậu, chỉ để ông đừng bị ảnh hưởng bất lợi cho người thợ đốt lò vì cách diễn đạt hơi kém khéo léo của ông ta. Dẫu sao người ta không biết được gì cụ thể từ những lời lẽ dông dài này và tuy thuyền trưởng vẫn còn nhìn thẳng phía trước, lần này trong đôi mắt hiện nét quyết tâm nghe người thợ đốt lò cho đến cuối, các ông kia đã trở nên sốt ruột và chẳng bao lâu sau tiếng nói của người thợ đốt lò không còn ngự trị tuyệt đối trong căn phòng nữa, thì điều này khiến cậu lo ngại. Mới đầu người đàn ông mặc thường phục cầm gậy trúc gõ gõ lên sàn gỗ, cho dù rất khẽ. Các ông kia dĩ nhiên thỉnh thoảng lại nhìn về phía đó; những viên chức bến cảng, hẳn là bị thôi thúc, lại vớ lấy các tập hồ sơ và bắt đầu xem qua, tuy vẫn còn hơi lơ đãng; viên sĩ quan xích lại gần bàn[5]; còn viên chánh thủ quỹ thở dài châm biếm, cho rằng đã thắng keo này. Dường như chỉ có gã giúp việc thoát khỏi tình trạng lơ đãng nói chung ấy, gã thông cảm phần nào với nỗi khốn khổ của người đàn ông đáng thương giữa đám tai to mặt lớn và nghiêm trang gật đầu với Karl, như thể muốn qua hành động này giải thích điều gì đó.

Trong khi đó cuộc sống nơi bến cảng vẫn tiếp tục bên ngoài các khung cửa sổ tàu; một chiếc tàu hàng thấp bè bè chở một núi thùng phuy (hẳn chúng phải được chất một cách tuyệt khéo nên mới không bị lăn) kéo qua khiến căn phòng gần như bị tối sầm; những xuồng máy nhỏ phóng băng băng sau những cái nhích tay của một người đàn ông đứng thẳng nơi bánh lái, nếu lúc này có thì giờ Karl sẽ có thể nhìn ngắm chúng thật kỹ! Đây đó những vật thể nổi hình thù kỳ dị tự động trồi lên khỏi mặt biển luôn xao động, rồi tức khắc bị nước tràn lên và chìm xuống trước ánh mắt ngạc nhiên của Karl; thuyền chở đầy hành khách của những con tàu xuyên đại dương được các thủy thủ ra sức chèo vào bờ; họ ngồi yên chờ đợi, như thể họ đã như thế rồi ngay từ lúc bị nhét vào đó, tuy cũng có một số người không nhịn được, cứ quay đầu nhìn theo những cảnh trí đổi thay. Một sự chuyển dịch không ngừng, một tình trạng náo động, do thiên nhiên hiếu động truyền sang những con người bất lực cùng các công trình của họ!

Nhưng mọi thứ nhắc nhở phải gấp gáp, phải rõ ràng, phải diễn tả thật chính xác; thế mà người thợ đốt lò đang làm gì? Ông ta vừa nói vừa mướt mồ hôi, đã một hồi lâu đôi bàn tay run rẩy không còn giữ nổi những giấy tờ trải trên thành cửa sổ; những cáo buộc về Schubal từ mọi hướng ập tới ông ta, mà theo ông ta thì mỗi cáo buộc riêng lẻ ấy đủ để chôn vùi hoàn toàn tay Schubal này, song những gì ông ta có thể trình bày với thuyền trưởng lại chỉ là một mớ hổ lốn đáng buồn của tất cả những điều ấy. Một hồi lâu rồi người đàn ông cầm gậy trúc đã vừa nhìn lên trần vừa khẽ huýt sáo; các viên chức bến cảng đã giữ viên sĩ quan ở bàn của họ và chẳng hề tỏ vẻ sẽ buông tha ông ta vào lúc nào đấy; viên chánh thủ quỹ rõ ràng không can thiệp vào, chỉ vì hắn bị sự bình thản của thuyền trưởng ngăn lại; trong tư thế đứng nghiêm gã giúp việc sẵn sàng chờ đợi mệnh lệnh của thuyền trưởng ban ra bất cứ lúc nào đối với người thợ đốt lò.

Thế là Karl không thể bàng quan được nữa. Cậu liền chậm chạp đi tới nhóm người, vừa đi vừa cân nhắc thật nhanh nên can thiệp vào câu chuyện sao cho khéo nhất. Quả thật đã đến lúc quyết định rồi, chậm chút nữa thôi là hai người hoàn toàn có thể bị tống ra khỏi phòng. Thuyền trưởng có thể là người tốt và hơn nữa đúng lúc này, theo Karl thấy, ông ta có lý do đặc biệt nào đấy để tỏ ra là một cấp trên công bằng, nhưng dẫu sao ông ta cũng không phải là một công cụ để ta muốn đập cho tơi tả thế nào cũng được - song người thợ đốt lò, tất nhiên vì lòng căm hận vô biên, lại đã cư xử với ông ta y như thế.

Thế nên Karl nói với người thợ đốt lò: “Ông phải kể gọn hơn, rõ ràng hơn, chứ như nãy giờ thì ngài thuyền trưởng không hiểu đúng được đâu. Chẳng lẽ ngài rành hết tên họ hoặc thậm chí tên thánh của mọi thợ máy và tùy phái để ngài biết được ngay người đó là ai, khi ông nêu tên? Ông hãy xếp thứ tự các điều ông khiếu nại, nói những điều quan trọng nhất đã rồi mới đến những điều kia, như thế có thể sẽ không cần phải đề cập đến phần lớn những điều đó. Ông kể với tôi luôn rành mạch lắm mà!”

“Ở Mỹ, khi người ta có thể ăn cắp rương, thì đôi lúc ta cũng có thể nói dối được chứ,” cậu lấy đó làm cớ để biện minh.

Giá mà điều cậu vừa nói giúp được việc! Hay đã quá muộn rồi? Tuy người thợ đốt lò ngừng nói lập tức, sau khi nghe giọng nói quen thuộc, nhưng ông không thể nhận ra Karl rõ ràng được nữa bằng đôi mắt bị mờ bởi những giọt lệ của danh dự người đàn ông bị nhục mạ, của những hồi tưởng khủng khiếp, của sự khốn quẫn tột cùng hiện tại. Làm sao giờ đây ông có thể đột nhiên thay đổi cách nói năng của mình, Karl lặng lẽ nhận thấy rõ điều ấy ở con người đang nín lặng này, vì dường như ông cho rằng đã trình bày hết mọi điều cần nói mà không được mảy may đồng tình, nhưng mặt khác lại như thể chưa nói gì hết thảy và bây giờ ông không thể đòi hỏi mọi người nghe lại tất cả. Và trong một thời điểm như vậy thì Karl, người duy nhất ủng hộ ông, lại còn đến, định giúp ông một lời khuyên tốt, nhưng thay vì thế lại cho ông thấy rằng mọi chuyện, mọi chuyện đã hỏng cả rồi.

“Giá mà mình can thiệp sớm hơn, thay vì ngó ra ngoài cửa sổ!” Karl tự nhủ, cúi mặt trước người thợ đốt lò và chập hai tay vào đường may nối ống quần, cho thấy rằng mọi hy vọng thế là hết.

Nhưng người thợ đốt lò hiểu nhầm, tưởng Karl có gì đấy thầm tự trách móc, nên giờ đây đỉnh cao hành động của ông, với hảo ý để cậu nói ra hết những điều ấy, là ông lại còn gây sự với Karl nữa. Giờ đây, khi mà những người ngồi ở chiếc bàn tròn từ lâu đã phẫn nộ về sự ồn ào vô ích, quấy rầy công việc quan trọng của họ, khi mà viên chánh thủ quỹ dần dần cảm thấy sự nhẫn nại của thuyền trưởng là không hiểu được và chỉ chực lập tức nổi trận lôi đình, khi mà gã giúp việc lại hoàn toàn chịu ảnh hưởng của các cấp trên, nhìn người thợ đốt lò với ánh mắt giận dữ và khi mà cuối cùng người đàn ông với cây gậy trúc - thỉnh thoảng ông ta vẫn được thuyền trưởng nhìn thân thiện - đã hoàn toàn trở nên thờ ơ đối với người thợ đốt lò, thậm chí ác cảm, lôi ra một quyển sổ nhỏ và hết đưa mắt ngó Karl lại nhìn vào quyển sổ, hiển nhiên ông bận rộn với những chuyện gì khác hẳn.

“Tôi biết chứ,” Karl vừa nói vừa vất vả chống đỡ những lời lẽ liên tu bất tận của người thợ đốt lò giờ đây trút vào cậu, song tuy tranh cãi cậu vẫn giữ được nụ cười thân thiện với ông, “ông có lý, có lý, tôi không hề nghi ngờ mà.” Cậu rất muốn giữ đôi bàn tay đang vung vẩy, sợ bị đánh trúng, hơn nữa cậu còn muốn đẩy ông vào một góc phòng để thì thầm vào tai ông đôi lời trấn an mà không ai khác phải nghe. Nhưng người thợ đốt lò đã mất bình tĩnh rồi. Giờ đây Karl thậm chí còn nảy ra ý nghĩ, như một kiểu an ủi, rằng trong cơn cùng quẫn người thợ đốt lò có thể chế ngự tất cả bảy người đàn ông hiện diện bằng sức mạnh tuyệt vọng của ông. Dẫu sao một cái liếc mắt về phía chiếc bàn giấy cũng đủ thấy trên đó có một thiết bị với rất nhiều nút bấm điện và chỉ cần một bàn tay nhấn lên thôi là cả con tàu với mọi hành lang của nó, vốn đầy những con người thù địch, sẽ loạn ngay.

Lúc đó người đàn ông hết sức thờ ơ nọ cầm gậy trúc tiến lại gần Karl và hỏi, không quá lớn, nhưng đủ rõ để át tiếng la lối của người thợ đốt lò: “Cậu tên gì nhỉ?”

Ngay lúc ấy có tiếng gõ cửa, như thể ai đó đứng bên ngoài chỉ chờ ông ta thốt ra câu hỏi này. Gã giúp việc nhìn thuyền trưởng, ông ta gật đầu. Thấy thế gã liền ra mở cửa. Một người đàn ông tầm thước khoác chiếc áo cũ kiểu rất oách[6] đang đứng bên ngoài, hình dáng y trông quả thật không thích hợp với công việc máy móc, song đó lại chính là Schubal. Giả thử Karl không nhận ra đó là y, qua một sự hài lòng nào đấy biểu hiện trong ánh mắt mọi người, kể cả của thuyền trưởng, cậu cũng sẽ phải nhận thấy điều đó qua hình ảnh đã khiến cậu kinh hoàng ở người thợ đốt lò: đôi cánh tay ông ta gồng lên nắm thật chặt, như thể sự dồn sức này là điều quan trọng nhất ở ông ta, và ông ta sẵn sàng vì nó mà hy sinh tất cả mọi thứ có được trên đời. Lúc này người thợ đốt lò dồn mọi sức lực của mình vào đấy, kể cả sức lực đã giữ cho ông ta đứng thẳng được.

Hóa ra đó là kẻ thù, tự do và linh lợi trong bộ lễ phục, tay kẹp sổ kế toán, hẳn là với sổ lương và chứng chỉ lao động của người thợ đốt lò; y không ngần ngại lần lượt nhìn vào mắt từng người để xác định tâm trạng của họ. Tất cả bảy người này từng là bạn của y, và tuy vừa rồi thuyền trưởng đã phản bác y gì đấy, hoặc có lẽ chỉ làm ra vẻ thế thôi, thì sau những buồn phiền mà người thợ đốt lò đã gây cho ông ta, dường như ông ta chẳng thấy Schubal có gì đáng phàn nàn nữa. Đối xử với một kẻ như tay thợ đốt lò thì nghiêm khắc bao nhiêu cũng không đủ và nếu Schubal có điều gì đáng khiển trách thì đó là trong thời gian qua y đã không bẻ gãy được tính ngang bướng của tay thợ đốt lò, khiến cho hôm nay hắn còn dám xuất hiện trước mặt thuyền trưởng.

Có thể ta sẽ nghĩ rằng sự đối chất giữa người thợ đốt lò và Schubal trước đám người này cũng có tác dụng không kém trước một hội nghị cao hơn, vì dù cho Schubal giỏi vờ vĩnh thì y cũng không thể vờ vĩnh đến cuối được. Sự đê tiện của y chỉ thoáng lộ ra cũng đủ để đám người này nhận thấy và Karl sẽ nỗ lực để làm cho điều ấy xảy ra. Cậu đã ngẫu nhiên biết được sự sắc sảo, nhược điểm, tính khí của từng người và như thế thì quãng thời gian trôi qua ở đây không uổng phí. Giá mà người thợ đốt lò ở trong tư thế vững mạnh hơn một tí, nhưng ông dường như hoàn toàn không có khả năng chiến đấu. Giả thử ta giữ tên Schubal trước mặt ông, hẳn ông sẽ có thể dùng nắm đấm đập vỡ cái sọ đáng ghét của y. Nhưng chỉ nguyên việc tiến vài bước tới gần y thôi, thì ông hầu như không có khả năng. Tại sao Karl lại không thấy trước cái điều dễ tiên liệu đến thế, rằng cuối cùng Schubal cũng phải tới, nếu không tự ý thì cũng do thuyền trưởng gọi? Tại sao trên đường đi tới đây cậu không bàn bạc với người thợ đốt lò một phương án đấu tranh kỹ lưỡng, thay vì như họ thật sự đã làm, đó là không chuẩn bị mà cứ đâm đầu thẳng vào nơi nào có cánh cửa? Người thợ đốt lò còn nói, còn trả lời có hoặc không được nữa chăng, như phải có trong cuộc đối chất? Song tất nhiên may mắn lắm mới có được cuộc hỏi cung chéo này. Ông đứng đó, hai chân giạng, đầu gối hơi cong, đầu hơi ngẩng và không khí ra vào qua cái miệng há, như thể trong ngực ông không còn lá phổi nào để hấp thụ nữa.

Thế nhưng Karl cảm thấy mình khỏe và khôn ngoan, có lẽ còn hơn ở nhà. Giá mà bố mẹ cậu có thể thấy được cậu bênh vực điều phải tại một đất nước xa lạ trước những nhân vật có máu mặt và tuy chưa đưa được cuộc đấu tranh này đến thắng lợi, nhưng cậu đã hoàn toàn sẵn sàng giành chiến thắng cuối cùng! Lúc ấy bố mẹ cậu có thay đổi cái nhìn về cậu không? Họ có cho cậu ngồi giữa họ và khen ngợi cậu không? Họ có nhìn một lần, một lần thôi, vào đôi mắt đầy phục tùng của cậu không? Những câu hỏi thiếu tự tin và đặt ra hết sức không đúng lúc!

“Tôi đến, vì tôi tin rằng người thợ đốt lò cáo buộc tôi không lương thiện sao đó. Một cô trong nhà bếp bảo tôi rằng cô ấy thấy anh ta đi tới đây. Thưa thuyền trưởng cùng toàn thể quý vị, tôi sẵn sàng bác bỏ mọi cáo buộc, dựa trên sổ sách của tôi và, trong trường hợp cần thiết, qua lời khai của những nhân chứng vô tư và không bị ảnh hưởng hiện đang đứng ngoài cửa.” Schubal đã nói như thế.

Tất nhiên đó là những lời lẽ rành mạch của một người đàn ông và qua sự đổi thay trên nét mặt của đám người nghe thì ta có thể sẽ nghĩ rằng lần đầu tiên, sau một thời gian dài, họ mới lại được nghe giọng nói của con người. Dĩ nhiên họ không nhận thấy rằng chính những lời lẽ hoa mỹ này cũng có lỗ hổng. Tại sao “không lương thiện” lại là từ cụ thể đầu tiên y nghĩ ra? Phải chăng có lẽ nên bắt đầu sự cáo buộc từ điều này thay vì ở sự thiên vị mang tính dân tộc của y? Một cô gái của nhà bếp thấy người thợ đốt lò tới văn phòng và Schubal lập tức hiểu có chuyện gì ư? Không phải ý thức tội lỗi đã khiến đầu óc y nhạy bén ư? Và y đã dẫn ngay nhân chứng theo, lại còn bảo rằng họ vô tư và không bị ảnh hưởng? Bịp bợm, không gì khác hơn là bịp bợm! Quý ông đây đã cho phép và xác nhận thái độ này là đúng đắn? Tại sao từ lúc được cô gái báo y đã chờ rất lâu, rõ ràng là thế, mới đến đây? Chắc chắn không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho người thợ đốt lò làm quý ông đây mệt mỏi đến mất dần sự xét đoán sáng suốt, điều mà Schubal đặc biệt sợ. Há không phải y, chắc chắn y đã đứng chờ từ lâu ở ngoài, chỉ gõ cửa đúng lúc ông cầm gậy trúc nọ hỏi một câu chẳng ăn nhập gì, cho phép y hy vọng rằng người thợ đốt lò đã tiêu đời?

Mọi chuyện thật sáng tỏ và đã được Schubal vô tình thể hiện ra như thế, nhưng ta phải chỉ cho quý ông đây thấy điều đó bằng cách khác, rõ ràng hơn nữa. Họ cần được làm cho tỉnh ra. Cho nên Karl cấp tốc tận dụng thời gian, ít nhất là thế, trước khi các nhân chứng xuất hiện làm hỏng hết cả!

Nhưng thuyền trưởng vừa mới phẩy tay bảo Schubal ngừng nói, y lập tức bước tránh sang bên - vì vụ việc của y có vẻ phải dời lại một lúc - và bắt đầu trò chuyện khe khẽ với gã giúp việc; gã về hùa ngay với y và trong lúc cùng không ngớt liếc về phía người thợ đốt lò và Karl, họ vung vẩy tay rất là thuyết phục. Dường như Schubal chuẩn bị cho lời phát biểu sắp tới của y như thế đấy.

“Không phải ngài định hỏi chàng trai này điều gì ư, thưa ngài Jakob?” thuyền trưởng nói với ông cầm gậy trúc trong sự im lặng chung.

“Có chứ,” ông này vừa đáp vừa hơi cúi đầu cám ơn sự lưu tâm của thuyền trưởng. Rồi ông ta hỏi Karl lần nữa: “Cậu tên gì nhỉ?”

Cho rằng sẽ có lợi cho việc lớn quan trọng, nếu cậu giải quyết chóng vánh chuyện rắc rối của con người tò mò bướng bỉnh này, Karl trả lời cộc lốc, chứ không xuất trình hộ chiếu theo thói quen mà cậu sẽ phải tìm trước đó: “Karl Roßmann.”

“Nhưng mà,” người được gọi là Jakob nói rồi lùi lại, mỉm cười gần như không tin. Cả thuyền trưởng, chánh thủ quỹ, viên sĩ quan tàu, thậm chí gã giúp việc rõ ràng đều tỏ ra quá mức ngạc nhiên khi nghe tên họ của Karl. Chỉ hai viên chức bến cảng và Schubal vẫn giữ vẻ dửng dưng.

“Nhưng mà,” ông Jakob lặp lại và bước những bước cứng nhắc tới bên Karl, “thế thì ta là bác Jakob của cậu, còn cậu là cháu yêu quý của ta. Tôi cứ ngờ ngợ suốt nãy giờ!” ông nói với thuyền trưởng, rồi mới ôm hôn Karl, còn cậu cứ lặng thinh để mọi chuyện diễn ra.

“Ngài tên gì ạ?” Karl hỏi - sau khi cảm thấy đã được buông ra - tuy rất lễ phép, nhưng không mảy may xúc động và cậu cố dự đoán những hệ quả mà sự kiện mới mẻ này có thể sẽ gây ra cho người thợ đốt lò. Tạm thời chưa có gì cho thấy Schubal có thể trục lợi từ chuyện này.

“Bạn trẻ ạ, cậu phải hiểu rằng cậu may mắn lắm đấy,” thuyền trưởng nói, cho rằng câu hỏi của Karl đã xúc phạm phẩm giá của cá nhân ngài Jakob, lúc này đang đứng cạnh cửa sổ, hẳn là để những người khác khỏi trông thấy gương mặt khích động mà ngài đang chấm nhẹ bằng khăn tay. “Người vừa xưng là bác của cậu chính là thượng nghị sĩ[7] Edward Jakob. Một tương lai xán lạn đang chào đón cậu, hẳn là trái ngược hoàn toàn với những gì cậu chờ đợi đến nay. Giờ cậu hãy cố nhận ra điều ấy và trấn tĩnh lại!”

“Tất nhiên tôi có một ông bác Jakob ở Mỹ,” Karl quay qua nói với thuyền trưởng, “nhưng nếu tôi hiểu đúng thì Jakob là họ của ngài thượng nghị sĩ.”

“Đúng vậy,” thuyền trưởng trịnh trọng nói.

“Nhưng bác của tôi, tức là anh của mẹ tôi, tên rửa tội là Jakob, còn tất nhiên cũng phải cùng họ Bendelmayer như mẹ tôi.”

“Thưa các ông!” Thượng nghị sĩ kêu lên trước lời giải thích của Karl, ông đã từ chỗ nghỉ bên cửa sổ vui vẻ quay lại. Mọi người, trừ hai viên chức bến cảng, đều ồ lên cười, một số như vì xúc động, một số khác lại khôn dò.

“Mình có nói gì nực cười đâu nào,” Karl nghĩ.

“Thưa các ông,” thượng nghị sĩ lặp lại, “các ông đang tham dự vào một màn kịch gia đình nho nhỏ, trái ngược với ý muốn của tôi và của các ông, và vì vậy tôi không thể tránh khỏi giải thích, vì, tôi tin thế, chỉ có ngài thuyền trưởng” - điều này đã khiến cả hai ngài cúi đầu trước nhau - “là được thông báo đầy đủ.”

“Bây giờ mình phải thật sự chú ý từng lời,” Karl tự nhủ và khi liếc nhìn người thợ đốt lò cậu vui mừng nhận thấy sự sống bắt đầu trở lại trên khuôn mặt ông ta.

“Suốt những năm tháng dài tôi lưu trú trên nước Mỹ - từ ‘lưu trú’ tất nhiên không thích hợp cho một công dân Mỹ với tất cả tâm hồn như tôi - suốt những năm tháng dài ấy tôi sống hoàn toàn cách trở với họ hàng của tôi ở châu Âu, vì những lý do một là không thuộc vào đây, hai nữa tôi sẽ phiền muộn rất nhiều nếu phải kể. Tôi thậm chí sợ cả giây phút mà có thể tôi buộc phải kể cho cháu trai yêu quý của tôi, mà rất tiếc tôi sẽ không tránh khỏi phải nói thẳng về bố mẹ nó và người trong gia đình họ.”

“Ông là bác mình rồi, không hoài nghi gì nữa,” Karl tự nhủ và lắng nghe, “chắc ông đã đổi họ.”

“Nay cháu trai yêu quý của tôi bị bố mẹ nó - chúng ta cứ dùng thẳng cái từ diễn tả đúng sự kiện - tống cổ, giống như ta tống cổ con mèo ra khỏi cửa, khi nó làm phiền. Tôi hoàn toàn không muốn che đậy cho việc cháu tôi đã làm, khiến nó bị trừng phạt như vậy - che đậy không phải là kiểu của người Mỹ[8] - nhưng lỗi lầm của nó thuộc loại mà chỉ nêu tên ra thôi cũng đủ hàm chứa lời xin lỗi rồi.”

“Bác nói nghe được quá,” Karl thầm nghĩ, “song mình không muốn bác kể ra hết. Với lại bác cũng không thể biết hết được. Từ đâu chứ? Nhưng rồi mình sẽ thấy bác có thật sự biết hết không.”

“Chẳng qua là cháu tôi,” ông bác nói tiếp và hơi cúi người, tì lên cây gậy trúc đang chống trước mặt và qua đó ông quả thật đã làm cho sự vụ mất đi vẻ trịnh trọng không cần thiết, mà bình thường nhất định sẽ có, “chẳng qua nó bị một ả giúp việc tên Johanna Brummer, chừng ba mươi lăm tuổi, dụ dỗ. Tôi hoàn toàn không muốn làm tổn thương cháu tôi với từ ‘dụ dỗ’, nhưng thật khó tìm ngay được một từ khác thích hợp.”

Karl, bấy giờ đã đến khá gần ông bác, quay lại để suy đoán ấn tượng mà câu chuyện đã để lại trên nét mặt những người hiện diện. Không một ai cười, mà mọi người đều kiên nhẫn và nghiêm trang lắng nghe. Vả chăng đâu ai nỡ cười cháu trai của một thượng nghị sĩ ngay khi có dịp. Tối đa người ta có thể nói rằng người thợ đốt lò đã mỉm cười với Karl, dù chỉ chút ít, nhưng một là điều này đáng mừng vì nó là dấu hiệu mới của sự sống nơi ông ta, hai là thông cảm được, vì khi ở trong buồng của ông ta Karl đã muốn giấu nhẹm câu chuyện mà giờ đây đã trở thành công khai.

“Nay ả Brummer này,” bác cậu nói tiếp, “có với cháu tôi một đứa con, một thằng nhỏ khỏe mạnh, được đặt tên rửa tội là Jakob, hiển nhiên để tưởng nhớ đến kẻ hèn này, người hẳn đã để lại nơi cô gái một ấn tượng lớn, dù chắc chắn cháu tôi chỉ đề cập phớt qua về tôi thôi. May mắn thay, tôi tự nhủ. Vì bố mẹ nó trốn tránh việc trả tiền nuôi thằng nhỏ hoặc tai tiếng nào khác lan tới chính họ - tôi phải nhấn mạnh rằng tôi không biết luật lệ ở đó cùng những hoàn cảnh khác của bố mẹ nó, tôi chỉ biết qua hai bức thư xin xỏ của họ ngày trước, mà tôi tuy không hồi âm nhưng vẫn giữ và chúng là sự liên lạc thư từ duy nhất, hơn nữa lại đơn phương, với họ suốt từ đó đến nay[9] - nghĩa là để tránh việc trả tiền nuôi thằng nhỏ và tai tiếng nên họ đã cho con trai họ, cháu trai yêu quý của tôi, đáp tàu qua Mỹ, họ đã vô trách nhiệm trang bị không đầy đủ cho nó, thành ra như ta thấy - nếu ta không tính đến những dấu hiệu sinh động của những kẻ làm ăn phất và những phép mầu[10] hiện vẫn còn thấy ở Mỹ - thì thằng bé này, một thân một mình, hẳn sẽ bỏ xác lập tức tại một con hẻm nào đấy ở bến cảng New York, nếu ả giúp việc nọ không cho tôi biết tất cả câu chuyện cũng như mô tả diện mạo cháu tôi và khôn ngoan kể ra cả tên chiếc tàu thủy trong một bức thư mà vòng vo mãi hôm qua mới đến tay tôi. Nếu tôi có ý định giúp quý vị tiêu khiển thì tôi có thể đọc vài đoạn của bức thư này” - ông rút từ túi áo hai tờ thư lớn chi chít chữ và phe phẩy - “ở đây. Chắc chắn quý vị sẽ mủi lòng, vì nó được viết khá chất phác, tuy luôn ranh mãnh nhưng với hảo ý và nhiều tình thương yêu dành cho bố đứa bé. Nhưng tôi không muốn giúp quý vị tiêu khiển nhiều hơn cần thiết để quý vị được sáng tỏ, cũng không muốn làm tổn thương những tình cảm còn lại của cháu tôi đối với cô gái, khi đón nhận thư này. Nếu muốn, nó có thể đọc thư để học hỏi trong sự yên tĩnh của căn phòng riêng đang chờ đợi nó.”

Nhưng Karl đâu có cảm tình nào cho cô gái. Trong những hình ảnh chen chúc của một quá khứ càng lúc càng lùi xa có hình ảnh cô ngồi trong bếp, bên cạnh cái chạn, hai khuỷu tay tì lên mặt chạn. Cô nhìn Karl, khi thỉnh thoảng cậu vào bếp lấy một ly nước cho bố cậu hoặc làm một việc gì đấy cho mẹ cậu. Đôi khi cô ngồi một bên chạn viết thư trong tư thế vặn vẹo và tìm cảm hứng từ khuôn mặt Karl. Đôi lúc cô lấy tay che mắt, thì chẳng lời chào hỏi nào lọt tới cô được. Đôi khi cô quỳ trong căn buồng chật hẹp của mình cạnh nhà bếp và cầu nguyện trước một thập giá gỗ; lúc ấy Karl rụt rè quan sát cô qua khe cửa mở hé khi đi ngang qua. Đôi khi cô lùng sục quanh nhà bếp và giật mình vừa lùi vừa cười như mụ phù thủy, khi vướng phải Karl. Đôi khi cô khóa cửa bếp lúc Karl bước vào và giữ nắm đấm cửa mãi cho đến lúc cậu đòi ra. Đôi khi cô lấy những thứ cậu hoàn toàn không muốn và lặng lẽ ấn vào tay cậu. Nhưng một lần cô đã gọi “anh Karl” và thở dài cau mặt dẫn cậu, còn đang kinh ngạc về cách xưng hô bất ngờ này, vào buồng mình rồi khóa lại. Cô ôm chặt cổ cậu và trong lúc cô yêu cầu cậu cởi quần áo cô thì thật ra chính cô đã cởi quần áo cậu và kéo cậu lên giường, như thể từ nay cô không buông cậu cho ai nữa cả, cô sẽ vuốt ve và săn sóc cậu đến ngày tận thế. “Karl, ơi anh Karl của em!” cô kêu lên, như thể cô trông thấy được cậu và khẳng định cậu là sở hữu của mình, trong khi cậu chẳng nhìn thấy tí gì và cảm thấy không thoải mái trong đống chăn nệm quá nóng mà dường như được cô chất đống cho riêng cậu. Rồi cô cũng nằm xuống với cậu và muốn biết từ cậu những bí mật nào đấy, nhưng cậu chẳng biết nói gì với cô và cô nổi nóng, vừa đùa vừa thật, lay mạnh cậu, nghe tiếng tim cậu đập, chìa ngực cô cho cậu nghe nữa, nhưng Karl không chịu, cô áp bụng trần truồng vào thân thể cậu, tay lần mò giữa hai đùi cậu, ghê tởm đến nỗi đầu và cổ Karl vật vã khỏi gối, rồi cô thúc bụng vài lần vào cậu - cậu cảm thấy như cô là một phần của bản thân cậu và có lẽ chính vì thế mà một sự khốn khổ ghê gớm đã đè nén cậu. Cuối cùng cậu khóc lóc về lại giường mình, sau khi nghe cô thốt ra bao lời ước mong gặp lại. Tất cả chỉ có vậy thôi, thế mà ông bác đã biết thêu dệt thành cả một câu chuyện. Tức là cô bếp cũng đã nghĩ đến cậu và báo cho ông bác về việc cậu đến. Cô đã cư xử đẹp và hẳn là sẽ có lần cậu đền ơn.

“Và bây giờ,” thượng nghị sĩ kêu lên, “ta muốn nghe cháu nói công khai rằng ta có phải là bác của cháu hay không.”

“Bác là bác của cháu,” Karl nói và hôn tay ông và được ông hôn lại lên trán. “Cháu rất mừng đã gặp bác, nhưng bác nhầm rồi nếu cho rằng bố mẹ cháu chỉ nói xấu về bác. Ngoài điều đó ra thì trong những lời bác vừa nói cũng có vài chi tiết không đúng, có nghĩa là cháu nghĩ rằng chúng không diễn ra thật như vậy. Nhưng mà quả tình từ nơi xa xôi này bác cũng không thể xét đoán vụ việc thật đúng được; ngoài ra cháu cho rằng nếu quý vị đây được thông báo hơi thiếu chính xác về chi tiết những vụ việc mà họ thật ra không quan tâm nhiều thì cũng chẳng hại gì đặc biệt.”

“Cháu nói hay lắm,” thượng nghị sĩ nói, dẫn Karl tới trước thuyền trưởng, ông ta tỏ rõ sự đồng cảm, và hỏi: “Không phải tôi có một đứa cháu tuyệt vời sao?”

“Thưa ngài thượng nghị sĩ,” thuyền trưởng vừa nói vừa cúi đầu như chỉ thấy ở những người được đào tạo về quân sự, “tôi sung sướng được quen biết cháu của ngài. Thật là một vinh dự đặc biệt cho tàu của tôi, được ch?