← Quay lại trang sách

Chương 5 Khách sạn Occidental

Tới khách sạn Karl được dẫn ngay vào một căn buồng, một loại văn phòng, ở đó bà bếp trưởng đang tay cầm quyển sổ đọc cho một cô nhân viên trẻ viết một bức thư bằng máy chữ. Cách đọc hết sức chính xác, tiếng phím gõ điềm tĩnh và linh hoạt đuổi theo tiếng tích tắc thỉnh thoảng mới nghe thấy của chiếc đồng hồ treo tường lúc ấy đã chỉ gần mười một giờ rưỡi.

“Xong!” bà bếp trưởng nói, gập quyển sổ, cô nhân viên đánh máy nhảy bật lên và đậy cái nắp gỗ lên máy chữ, cô vừa làm một cách máy móc vừa không rời mắt khỏi Karl. Trông cô vẫn như một nữ sinh, tấm tạp dề của cô được là rất cẩn thận, chẳng hạn xếp nếp trên hai vai, mái tóc bới cao, và sau những chi tiết này, cậu hơi ngạc nhiên khi thấy gương mặt cô thật nghiêm trang. Cô cúi chào bà bếp trưởng trước, sau đến Karl, rồi bỏ đi và Karl bất giác nhìn bà bếp trưởng với ánh mắt dò hỏi.

“Cuối cùng cậu cũng đã đến, thế là hay lắm,” bà bếp trưởng nói. “Thế còn các bạn cậu?”

“Cháu không dẫn họ theo,” Karl nói.

“Hẳn là họ sẽ lên đường rất sớm,” bà bếp trưởng nói, như tự giải thích chuyện này.

“Chẳng lẽ bà nghĩ mình cũng sẽ đi cùng ư?” Karl tự hỏi và nói để tránh mọi hiểu lầm: “Chúng cháu chia tay nhau vì bất hòa.”

Có vẻ bà bếp trưởng xem đây là một tin tức vừa ý. “Tức là cậu tự do?” bà hỏi.

“Vâng, cháu tự do,” Karl nói và đối với cậu không gì vô giá trị hơn.

“Thế này, cậu có muốn một chỗ làm trong khách sạn đây không?” bà bếp trưởng hỏi.

“Cháu muốn lắm,” Karl nói, “nhưng cháu ít kiến thức khủng khiếp. Chẳng hạn cháu không hề biết đánh máy.”

“Đó không phải là điều quan trọng nhất,” bà bếp trưởng bảo. “Trước mắt cậu sẽ nhận được một cương vị hết sức nhỏ, rồi phải cô gắng, qua chăm chỉ và chu đáo mà tiến lên. Dẫu sao tôi nghĩ rằng cậu ổn định ở đâu đó thì tốt và thích hợp hơn là lang thang như thế trên cõi đời. Theo tôi thấy thì cậu sinh ra không phải để sống như vậy.”

“Ông bác mình cũng sẽ ký ngay vào tất cả những điều bà nhận định này,” Karl tự nhủ và gật đầu đồng ý. Đồng thời cậu sực nhớ rằng mình, người được bà quan tâm như thế, vẫn chưa tự giới thiệu. “Cháu xin lỗi,” cậu nói, “chưa tự giới thiệu, cháu tên là Karl Roßmann.”

“Cậu là người Đức, đúng không?”

“Vâng,” Karl nói, “cháu ở Mỹ chưa lâu.”

“Quê cậu ở đâu vậy?”

“Ở Praha, vùng Boheme,” Karl nói.

“Hay chưa kìa,” bà bếp trưởng kêu lên bằng một thứ tiếng Đức nặng âm sắc Anh và gần như giơ cao hai tay, “vậy chúng ta là đồng bào, tôi tên là Grete Mitzelbach, đến từ Vienna. Tôi rành rẽ Praha lắm, tôi từng làm việc nửa năm ở quán Ngỗng Vàng trên quảng trường Wenzel mà. Cậu thử nghĩ xem.”

“Bao giờ thế ạ?” Karl hỏi.

“Đã nhiều năm lắm rồi.”

“Quán Ngỗng Vàng cũ,” Karl nói, “đã bị phá sập cách đây hai năm.”

“Phải, đúng thế,” bà bếp trưởng nói, ngơ ngẩn nhớ về những thời đã qua. Nhưng rồi đột nhiên sống động trở lại, bà vừa nắm hai tay Karl vừa kêu lên: “Nay hóa ra cậu là đồng hương của tôi thì dù thế nào cậu cũng không được bỏ đây đi. Cậu không được làm thế với tôi. Cậu có muốn làm người trực thang máy không? Cậu chỉ cần nói muốn là xong ngay. Nếu cậu đi đây đi đó chút ít, cậu sẽ thấy rằng không dễ mà nhận được những việc làm như thế này, vì chúng là bước khởi đầu tốt nhất mà ta có thể nghĩ tới. Cậu sẽ gặp mọi người khách, người ta luôn trông thấy cậu, người ta giao cho cậu những việc nho nhỏ; nói tóm gọn, ngày nào cậu cũng có cơ hội để đạt được gì đấy khá hơn. Mọi chuyện còn lại cậu cứ để tôi lo.”

“Cháu rất muốn làm người trực thang máy,” Karl nói sau một lúc im lặng. Sẽ là cực kỳ vớ vẩn, nếu vì tiếc nuối năm năm trung học mà đắn đo trước công việc của một người trực thang máy. Ở Mỹ này thì năm năm trung học là lý do để xấu hổ có lẽ đúng hơn. Vả lại xưa nay Karl vẫn thích những người trực thang máy, đối với cậu họ giống như đồ trang trí của khách sạn.

“Có đòi hỏi biết nhiều thứ tiếng không ạ?” Karl hỏi thêm.

“Cậu nói tiếng Đức và kha khá tiếng Anh, thế là hoàn toàn đủ.”

“Mãi đến khi sang Mỹ cháu mới học tiếng Anh, trong hai tháng rưỡi,” Karl nói, cho rằng không được giấu giếm ưu điểm duy nhất của mình.

“Thế là cậu khá rồi,” bà bếp trưởng nói. “Khi tôi nghĩ tới hồi đó đã gặp khó khăn nhường nào với tiếng Anh. Tuy nhiên đã ba mươi năm rồi. Tôi vừa nhắc tới chuyện này hôm qua. Vì hôm qua là sinh nhật thứ năm mươi của tôi mà.” Và bà mỉm cười thử tìm trên nét mặt Karl ấn tượng mà uy quyền của tuổi tác bà đã gây trên cậu.

“Vậy cháu chúc bà nhiều may mắn,” Karl nói.

“Ta luôn có thể cần đến nó,” bà nói, bắt tay Karl và lại hơi buồn về câu thành ngữ xưa từ quê hương, mà bây giờ bà sực nhớ ra trong lúc nói tiếng Đức.

“Nhưng tôi giữ chân cậu mất rồi,” bà kêu lên. “Chắc chắn cậu đang rất mệt và chúng ta có thể bàn bạc mọi chuyện tốt hơn vào ban ngày. Nỗi vui được gặp đồng hương đã làm tôi vô ý vô tứ. Nào, tôi sẽ dẫn cậu tới phòng cậu.”

“Cháu còn một yêu cầu, thưa bà bếp trưởng,” Karl nói khi thấy cái điện thoại trên bàn, “có lẽ ngày mai, có thể rất sớm, các bạn cũ của cháu mang tới cho cháu một bức ảnh mà cháu rất cần. Bà có thể vui lòng gọi điện cho người gác cửa bảo ông ta chỉ họ đến gặp cháu hoặc cho gọi cháu xuống, được chứ ạ?”

“Đương nhiên,” bà bếp trưởng nói, “nhưng nếu ông ta nhận bức ảnh thì không đủ à? Ảnh gì mới được chứ, nếu tôi được phép hỏi?”

“Đó là ảnh của bố mẹ cháu,” Karl nói. “Không, cháu phải trực tiếp nói chuyện với họ.”

Bà bếp trưởng không nói gì thêm và gọi điện ra lệnh cho phòng trực, lúc ấy bà nêu số 536 là số phòng của Karl. Rồi họ đi qua một trong những khung cửa ngược hướng cửa vào, tới một hành lang hẹp, ở đấy một gã trực thang máy thấp bé đang tựa vào chấn song của một thang máy và ngủ.

“Ta tự phục vụ được mà,” bà bếp trưởng nói khẽ và bảo Karl bước vào thang máy. “Làm việc mỗi ngày từ mười đến mười hai tiếng đồng hồ là hơi quá nhiều cho một thanh niên như thế này,” rồi bà nói, trong lúc thang máy đưa họ lên trên. “Nhưng đó là điều độc đáo ở Mỹ. Chẳng hạn cậu bé này, cũng mới cùng bố mẹ sang đây được nửa năm, cậu ta là người Ý. Hiện giờ trông cậu ta như thể không chịu đựng nổi công việc, mặt chẳng còn tí thịt nào, ngủ trong giờ làm việc, tuy tính tình cậu ta rất sốt sắng - nhưng cậu ta chỉ cần làm việc thêm sáu tháng nữa tại đây hoặc nơi nào khác ở Mỹ, cậu ta sẽ chịu đựng mọi thứ dễ dàng và năm năm nữa cậu ta sẽ trở thành một người đàn ông lực lưỡng. Tôi có thể kể với cậu hàng giờ liền về những ví dụ như thế này. Song tôi chẳng phải lo cho cậu, vì cậu là một thanh niên cường tráng; cậu mười bảy tuổi, phải không?”

“Tháng tới đây cháu tròn mười sáu tuổi,” Karl đáp.

“Thậm chí mới mười sáu!” bà bếp trưởng nói. “Vậy hãy mạnh dạn lên!”

Lên tới trên bà dẫn Karl vào một căn phòng, tuy là phòng áp mái có một bức tường nghiêng, nhưng trông rất ấm cúng dưới ánh sáng của hai ngọn đèn điện.

“Cậu chớ hốt hoảng về sự bố trí,” bà bếp trưởng nói, “vì đây không phải là phòng trọ của khách sạn, mà một phòng trong căn hộ của tôi; nó gồm ba phòng, thành ra cậu không làm phiền tôi chút nào. Tôi sẽ khóa cái cửa thông, để cậu được hoàn toàn tự nhiên. Ngày mai, là nhân viên mới của khách sạn, tất nhiên cậu cũng sẽ nhận được một buồng riêng nho nhỏ. Nếu như cậu đến với các bạn thì tôi đã bảo dọn giường cho các cậu trong phòng ngủ tập thể của người giúp việc, nhưng vì cậu có một mình, tôi nghĩ cậu ở đây thích hợp hơn, tuy rằng cậu phải ngủ trên sofa. Còn bây giờ cậu hãy ngủ ngon, để lấy sức cho công việc. Ngày mai chưa căng thẳng lắm đâu.”

“Cháu cám ơn rất nhiều vì sự ân cần của bà.”

“Khoan,” bà dừng lại và nói lúc đang bước ra, “thế này thì cậu sẽ bị đánh thức sớm mất.” Rồi bà đi tới một cửa bên của căn buồng, gõ và gọi: “Therese!”

“Dạ, thưa bà bếp trưởng,” tiếng cô đánh máy nhỏ nhắn trả lời.

“Sáng sớm mai khi qua đánh thức tôi, em phải đi lối hành lang, vì trong phòng này có khách ngủ. Cậu ấy mệt lử.” Bà vừa nói vừa mỉm cười với Karl. “Em hiểu không?”

“Dạ hiểu, thưa bà bếp trưởng.”

“Vậy ngủ ngon nhé!”

“Chúc bà ngủ ngon.”

“Chẳng là vì,” bà bếp trưởng nói để giải thích, “từ vài năm nay tôi ngủ rất tệ. Giờ đây tôi quả tình có thể hài lòng với chức vụ của mình và thật ra không cần lo lắng gì. Nhưng hẳn đó phải là hệ quả của những lo âu trước kia đã khiến tôi bị chứng mất ngủ này. Nếu tôi thiếp đi được vào lúc ba giờ sáng là mừng rồi. Nhưng vì đến năm giờ, hoặc muộn nhất năm rưỡi tôi lại phải có mặt ở chỗ làm, tôi phải nhờ đánh thức và, nói cho đúng, hết sức khéo, để tôi khỏi căng thẳng thần kinh hơn mức tôi đã vốn thế rồi. Chính Therese đánh thức tôi đấy. Nhưng bây giờ cậu đã thật sự biết hết mọi chuyện rồi, mà tôi thì chưa chịu đi. Ngủ ngon nhé!” Và tuy thân thể đẫy đà, bà gần như lướt ra khỏi phòng.

Karl vui mừng sắp được ngủ, vì ngày hôm nay đã làm cậu kiệt sức. Và cho một giấc ngủ dài, thanh thản thì cậu không thể mong ước gì hơn là môi trường thoải mái này. Căn buồng tuy không thích hợp để dùng làm phòng ngủ (dường như nó là phòng sinh hoạt, hoặc đúng hơn nữa, phòng tiếp khách đặc biệt của bà bếp trưởng) và vì cậu mà một bồn rửa được đem tới cho riêng tối nay, tuy vậy Karl không cảm thấy mình là kẻ đột nhập, mà chỉ là được chu cấp tốt hơn thôi. Cái rương của cậu đã được khôi phục đàng hoàng và hẳn đã lâu rồi nó không tìm được chỗ nào chắc chắn hơn đây. Trên một chiếc tủ thấp có ngăn, phủ tấm khăn len đan thô, để nhiều bức ảnh lồng khung kính; trong lúc quan sát căn phòng Karl dừng lại ở đó và ngắm nhìn chúng. Phần lớn là những ảnh cũ và đa số chụp các cô gái trong những bộ áo quần không mấy tân thời và gò bó, đội hờ những cái mũ nhỏ nhưng cao, tay phải chống dù, quay về hướng người ngắm ảnh, thế nhưng ánh mắt vẫn né tránh. Trong số những bức chân dung đàn ông Karl chú ý đặc biệt đến tấm hình một người lính trẻ, anh ta đặt mũ kê pi lên một chiếc bàn con, đứng nghiêm với mái tóc đen rối bời và một nụ cười đầy kiêu hãnh nhưng cố nén. Những chiếc khuy trên bộ quân phục của anh ta được tô thêm trông như bằng vàng. Tất cả những tấm ảnh này hẳn là chụp ở châu Âu, có thể đọc được chính xác điều này ở mặt sau, nhưng Karl không muốn cầm chúng lên. Cậu cũng rất muốn trưng bày hình bố mẹ trong căn phòng tương lai của mình giống như những tấm ảnh để ở đây.

Karl đang nằm duỗi dài trên trường kỷ thưởng thức giấc ngủ đang dần tới, sau khi rửa ráy kỹ lưỡng khắp cả người, mà vì lưu tâm đến cô hàng xóm cậu đã hết sức cô gắng làm thật khẽ, chợt cậu cho rằng vừa nghe thấy tiếng gõ cửa khe khẽ. Cậu không xác định ngay được tiếng gõ ấy ở cửa nào, cũng có thể chỉ là một tiếng động ngẫu nhiên. Nó cũng không lặp lại ngay và Karl đã gần thiếp đi thì lại nghe thấy. Lần này không còn nghi ngờ gì nữa, đó là tiếng gõ cửa và từ phía của cô đánh máy. Karl nhón chân chạy tới đó và hỏi khẽ đến mức, nếu người bên cạnh ngủ rồi thì dù thế nào cũng không thể bị cậu đánh thức: “Cô cần gì chăng?”

Lập tức có tiếng đáp lại và cũng khẽ như thế: “Anh mở cửa được không? Chìa khóa cắm bên phía anh.”

“Được,” Karl nói, “tôi phải mặc quần áo[22] đã.”

Sau một lúc giọng kia lại nói: “Không cần đâu. Anh mở cửa rồi nằm lên giường, tôi sẽ chờ một tí.”

“Được,” Karl nói và làm theo, ngoài ra cậu còn bật cả đèn. “Tôi nằm rồi,” rồi cậu nói lớn hơn một chút.

Lúc ấy cô đánh máy nhỏ nhắn cũng đã bước ra từ căn phòng tối của mình, ăn mặc hệt như lúc ở dưới văn phòng, hẳn là suốt từ bấy đến giờ cô không nghĩ đến đi ngủ.

“Xin lỗi anh vô cùng,” cô nói và đứng hơi lom khom trước chỗ Karl nằm, “và xin anh đừng tiết lộ chuyện này, xin anh đừng. Tôi cũng không muốn quấy rầy anh lâu đâu, tôi biết anh đang kiệt sức mà.”

“Không thảm hại đến thế đâu,” Karl nói, “nhưng nếu tôi ăn mặc nghiêm chỉnh thì có lẽ tốt hơn.” Cậu phải nằm duỗi thẳng người để có thể che chăn kín tới cổ, vì không có áo ngủ.

“Tôi chỉ ở đây một lát thôi,” cô nói và đưa tay nắm chiếc ghế. “Tôi ngồi trên trường kỷ được chứ?”

Karl gật đầu. Cô ngồi ép người trên trường kỷ đến nỗi Karl phải xích vào tường để có thể ngước nhìn cô. Cô có khuôn mặt bầu bĩnh, cân đối, chỉ phải cái trán cao khác thường, song cũng có thể đó chỉ là do mái tóc không thật hợp với cô. Cô ăn mặc rất sạch sẽ và chu đáo. Cô vò một chiếc khăn mùi soa trong tay trái.

“Anh ở lại đây lâu không?” cô hỏi.

“Cũng chưa chắc chắn lắm,” Karl đáp, “nhưng tôi nghĩ là sẽ ở lại.”

“Nếu thế thì tốt lắm,” cô nói và đưa khăn tay lau mặt, “chẳng là vì ở đây tôi cô đơn quá.”

“Lạ nhỉ,” Karl nói. “Bà bếp trưởng rất tử tế với cô mà. Bà đối xử với cô hoàn toàn không như một nhân viên. Tôi lại cứ nghĩ cô có họ hàng với bà.”

“À không,” cô nói, “tôi tên là Therese Berchtold, quê ở Pomerania[23].”

Karl cũng tự giới thiệu. Thế rồi lần đầu tiên cô nhìn kỹ cậu, như thể qua việc xưng danh tính cậu đã trở nên hơi xa lạ đối với cô. Rồi cô nói: “Anh không được nghĩ rằng tôi vô ơn bạc nghĩa. Nếu không có bà bếp trưởng có lẽ tôi sẽ khốn khổ hơn nhiều. Trước kia tôi là đầu bếp trong khách sạn này và sắp bị đuổi việc đến nơi, vì tôi không kham nổi công việc nặng. Ở đây người ta đòi hỏi nhiều lắm. Tháng trước một cô đầu bếp bị ngất đi vì làm việc quá sức, phải nằm nhà thương mười bốn ngày. Mà tôi đâu có khỏe gì lắm, xưa kia tôi cực khổ nhiều, thành thử hơi bị còi cọc; hẳn anh hoàn toàn không ngờ được là tôi đã mười tám tuổi rồi đấy. Nhưng nay tôi đã khỏe mạnh hơn rồi.”

“Công việc ở đây thật sự hẳn rất vất vả,” Karl nói. “Tôi vừa mới thấy ở dưới kia một cậu gác thang máy ngủ đứng.”

“Mà các cậu gác thang máy làm việc nhàn nhất đấy,” cô nói, “họ được nhiều tiền boa và còn lâu mới phải quần quật như những người trong nhà bếp. Nhưng quả thật tôi cũng được một lần may mắn; có lần bà bếp trưởng cần một cô sắp xếp khăn ăn cho một bữa tiệc chiêu đãi, bà xuống tìm trong đám đầu bếp chúng tôi, ở đây có tới năm mươi cô, lúc đó tôi đang rảnh và tôi đã khiến bà rất hài lòng, vì tôi luôn rành rẽ chuyện sắp xếp khăn ăn. Và thế là từ đó bà giữ tôi ở bên cạnh và từ từ đào tạo tôi thành thư ký của bà. Qua đó tôi học được rất nhiều.”

“Có nhiều thứ để viết thế sao?” Karl hỏi.

“Chậc, nhiều lắm,” cô đáp, “hẳn anh không hình dung nổi đâu. Anh đã thấy hôm nay tôi làm việc đến mười một giờ rưỡi, mà hôm nay không phải là một ngày đặc biệt. Tất nhiên không phải tôi chỉ viết suốt, mà cũng có nhiều việc phải làm trong thành phố.”

“Thành phố tên gì vậy?” Karl hỏi.

“Anh không biết à?” cô hỏi, “Ramses.”

“Có lớn không?” Karl hỏi.

“Rất lớn,” cô đáp, “tôi không thích đi tới đó. Nhưng có thật anh chưa muốn ngủ không?”

“Thật, thật,” Karl nói, “tôi còn chưa biết tại sao cô vào đây mà.”

“Vì tôi không có ai để trò chuyện. Tôi không hay than van, nhưng khi ta quả thật không có ai để trò chuyện, thì cuối cùng có người chịu nghe mình nói là sung sướng rồi. Tôi đã thấy anh trong sảnh dưới kia rồi đấy chứ; lúc bà bếp trưởng dẫn anh vào kho thực phẩm thì tôi cũng vừa tới để tìm bà.”

“Cái sảnh ấy thật là khiếp,” Karl nói.

“Tôi chẳng còn để ý nữa,” cô đáp. “Nhưng tôi chỉ muốn nói rằng bà bếp trưởng quá tử tế với tôi không khác bà mẹ đã quá cố của tôi. Nhưng địa vị quá chênh lệch, khiến tôi không thể ăn nói tự do với bà được. Trước kia tôi cũng có những cô bạn tốt trong số các đầu bếp, nhưng đã từ lâu họ không còn ở đây nữa mà những cô mới tôi hầu như không quen. Cuối cùng đôi lúc tôi cảm thấy công việc hiện giờ của mình căng thẳng hơn ngày trước và tôi thực hiện kém hơn hồi trước và bà bếp trưởng giữ tôi ở vị trí chỉ vì thương hại. Dù sao học vấn cũng phải khá hơn mới trở thành thư ký được. Nói thế này thật là tội lỗi, nhưng càng lúc tôi càng sợ rằng mình hóa điên. Lạy Chúa,” đột nhiên cô nói nhanh hơn hẳn và nắm nhẹ vai Karl, vì hai tay cậu ở dưới chăn. “Nhưng anh không được tiết lộ một lời nào với bà bếp trưởng đấy, kẻo tôi tiêu đời thật sự. Nếu ngoài chuyện làm bà buồn phiền qua công việc của mình, tôi còn làm khổ bà thêm nữa thì quá tệ.”

“Tôi sẽ không nói gì hết với bà ấy, điều đó đương nhiên,” Karl đáp.

“Thế thì tốt,” cô nói, “và anh hãy ở lại đây. Tôi sẽ rất mừng, nếu anh ở lại, và chúng ta sẽ đoàn kết với nhau, nếu điều đó hợp ý anh. Ngay lần đầu trông thấy anh tôi đã tin tưởng ở anh. Tuy vậy - anh nghĩ xem tôi tồi tệ thế nào - tôi cũng đã sợ rằng bà bếp trưởng có thể sẽ cho anh làm thư ký thay tôi và sa thải tôi. Chỉ khi tôi ngồi một mình, trong lúc anh ở dưới văn phòng, tôi mới nghĩ cặn kẽ chuyện này, rằng thậm chí sẽ rất tốt nếu anh đảm trách công việc của tôi, vì chắc chắn anh hiểu nó hơn nhiều. Nếu anh không muốn thực hiện những việc vặt trong thành phố thì tôi có thể làm công việc đó. Nếu không thì dĩ nhiên tôi hữu ích trong bếp hơn nhiều, nhất là vì tôi cũng đã khỏe mạnh hơn chút ít.”

“Vấn đề đã được giải quyết rồi,” Karl nói, “tôi sẽ làm trực thang máy và cô vẫn là thư ký. Nhưng nếu cô chỉ bóng gió chút xíu về kế hoạch của cô với bà bếp trưởng, tôi sẽ tiết lộ mọi điều cô đã nói với tôi hôm nay, dù đáng tiếc tới đâu.”

Giọng điệu này khiến Therese quá lo lắng đến nỗi cô thụp xuống giường, úp mặt vào chăn ga thút thít khóc.

“Tôi không tiết lộ gì đâu,” Karl nói, “nhưng cô cũng không được nói gì hết đấy.”

Bây giờ Karl không thể nằm trốn dưới chăn được nữa, cậu nhẹ vuốt ve cánh tay cô, không tìm được điều gì thích hợp có thể nói với cô và chỉ nghĩ rằng đây là một cuộc đời cay đắng. Cuối cùng cô trấn tĩnh lại, ít nhất đủ để xấu hổ vì đã khóc, cô nhìn Karl vẻ biết ơn, thuyết phục cậu ngày mai hãy ngủ lâu và hứa, nếu sắp xếp được, quãng tám giờ sẽ lên đánh thức cậu.

“Cô đánh thức khéo lắm mà,” Karl nói.

“Đúng, tôi làm được vài chuyện,” cô nói, tay lướt nhẹ lên chăn cậu chào tạm biệt rồi chạy về phòng mình.

Hôm sau Karl đòi được làm việc ngay, dù bà bếp trưởng muốn cho cậu tự do ngày hôm ấy để thăm thú Ramses. Nhưng Karl nói thẳng rằng cho chuyện này sẽ còn nhiều dịp, bây giờ với cậu điều quan trọng nhất là bắt tay vào việc, vì ở châu Âu cậu đã bỏ ngang vô ích một công việc nhắm vào một mục đích khác và nay cậu bắt đầu làm trực thang máy ở một lứa tuổi mà những thanh niên tháo vát, nếu họ cũng bắt đầu bằng công việc này, ít nhất sắp bắt tay vào đảm đương những chức vụ cao hơn. Cậu bắt đầu sự nghiệp bằng việc trực thang máy là hoàn toàn đúng, nhưng việc cậu phải đặc biệt khẩn trương cũng đúng luôn. Trong hoàn cảnh ấy chuyện viếng thăm thành phố đối với cậu hoàn toàn chẳng thú vị gì. Ngay cả một cuộc đi dạo ngắn mà Therese rủ, cậu cũng không nhận lời. Lúc nào trước mắt Karl cũng lởn vởn ý tưởng rằng nếu không chăm chỉ, cuối cùng cậu có thể sẽ sa đọa như Delamarche và Robinson.

Người thợ may của khách sạn thử đồng phục của đám trực thang máy cho cậu, bề ngoài trông rất oách với các cúc vàng chóe và các dây tua vàng chóe, nhưng khi khoác vào Karl hơi rùng mình, vì áo vét lạnh, cứng và ẩm sì, đặc biệt dưới hai nách, do mồ hôi của những gã trực thang máy đã mặc nó trước cậu. Áo cũng phải nới ra ở ngực cho riêng Karl, vì trong mười bộ có sẵn không bộ nào tạm gọi là vừa. Dù việc khâu sửa này cần thiết và tuy người thợ may quá tỉ mỉ - bộ đồng phục được xưởng may gửi tới đã bị ông trả về lại hai lần - mọi việc vẫn xong xuôi trong chưa đầy năm phút, và Karl đã rời ông thợ như một gã trực thang máy trong chiếc quần bó sát và, bất chấp lời cam kết ngược lại của ông thợ, cái áo vét chật căng, nó không ngớt dụ dỗ cậu tập thở, để thường xuyên xem mình còn hô hấp nổi không.

Rồi Karl trình diện với viên trưởng nhóm phục vụ, mà cậu sẽ ở dưới trướng, một người đàn ông cao ráo, đẹp mã mũi to, hẳn là đã ngoài bốn mươi tuổi. Hắn không có thì giờ, dù chỉ để trò chuyện qua loa, mà chỉ bấm chuông gọi một gã trực thang máy tới, ngẫu nhiên đúng gã Karl đã thấy hôm qua. Trưởng nhóm phục vụ chỉ gọi gã bằng tên thánh, Giacomo, mà mãi sau Karl mới biết, vì cậu không nghe ra được cái tên này trong cách phát âm tiếng Anh. Gã được giao nhiệm vụ chỉ dẫn cho Karl những điều cần thiết trong việc trực thang máy; nhưng gã quá nhút nhát và vội vã, đến nỗi Karl hầu như không biết được mấy, dù về cơ bản cũng chẳng có gì nhiều để chỉ. Chắc chắn Giacomo bực mình, hẳn là cũng vì Karl mà gã đã phải bỏ việc trực thang máy và bị điều sang giúp đỡ các cô hầu phòng, mà điều này đối với gã là mất thể diện, qua những kinh nghiệm nào đấy mà gã giấu nhẹm. Nhưng Karl thất vọng trước hết vì người trực thang máy chỉ liên quan tới bộ máy của nó qua việc đơn giản nhấn một cái nút làm cho thang máy vận hành, trong khi chỉ các thợ cơ khí của khách sạn mới được sửa chữa cơ cấu truyền động của nó, khiến Giacomo, chẳng hạn thế, dù đã trực thang máy nửa năm vẫn không được tận mắt thấy động cơ đặt dưới hầm lẫn cơ cấu bên trong thang máy, vì nếu được thấy, như chính gã nhấn mạnh, gã sẽ hết sức vui sướng. Nói chung công việc này đơn điệu và mỗi ca trực kéo dài mười hai tiếng, luân phiên đổi giữa ngày và đêm, khiến nó căng thẳng đến nỗi, theo lời Giacomo, hoàn toàn không chịu đựng nổi, nếu ta không thể ngủ đứng từng phút một. Karl không nói gì về chuyện ấy, nhưng cậu hiểu rằng chính vì nghệ thuật này mà Giacomo đã mất việc.

Karl rất hân hoan vì chiếc thang máy mình phụ trách chỉ dừng cho những tầng cao nhất, như thế cậu không liên quan gì tới những khách giàu vô cùng khó tính. Tuy nhiên ở đây cậu không thể học hỏi được nhiều bằng ở chỗ khác và nó chỉ tốt khi mới vào làm thôi.

Mới sau tuần đầu Karl đã thấy mình hoàn toàn có thể hoàn thành nhiệm vụ. Lớp đồng thau trên thang máy của cậu được lau chùi bóng nhất, không chiếc nào trong ba mươi thang máy khác sánh bằng và có lẽ nó còn sáng loáng hơn nữa nếu gã đồng nghiệp cùng phụ trách cái thang máy này chỉ siêng năng xấp xỉ cậu thôi, thay vì cảm thấy tính chểnh mảng của gã được sự cần mẫn của Karl hỗ trợ. Gã sinh ra ở Mỹ, tên là Renell, một thanh niên tự kiêu, mắt đen, hai má nhẵn nhụi hơi hóp. Gã có một bộ quần áo riêng thanh lịch để diện vào những tối không phải trực, rồi bôi chút nước hoa, hối hả đi vào phố. Thỉnh thoảng gã nhờ Karl trực giúp vào buổi tối, do gã phải đi vì chuyện gia đình và gã chẳng mấy bận tâm rằng sự chưng diện của gã phản bác điều gã nói. Tuy vậy Karl vẫn có thiện cảm với gã và thích thú khi Renell, vào những buổi tối như thế, trước khi đi, đứng lại trước mặt cậu bên chiếc thang máy, trong bộ đồ vía, vừa nói dăm ba lời xin lỗi vừa xỏ găng tay, rồi theo hành lang đi ra. Vả chăng qua việc trực thay này Karl chỉ muốn làm vui lòng gã, mà theo cậu thấy thì đó là chuyện đương nhiên trong thời gian đầu đối với một đồng nghiệp lớn tuổi hơn, nhưng nó sẽ không trở thành một thói quen thường xuyên. Vì tất nhiên việc đi thang máy liên miên này đủ mệt mỏi rồi, nhất là vào buổi tối thì gần như liên tục.

Karl cũng đã nhanh chóng học cách cúi thấp, chào nhanh được đòi hỏi ở đám trực thang máy và cách chụp tiền boa mà người ta tung ra. Nó biến vào trong túi áo gi lê của cậu và không ai có thể nhìn vẻ mặt cậu mà đoán được món tiền boa ấy nhiều hay ít. Cậu mở cửa thang máy cho quý bà với vẻ lịch sự hơn một tí và nhún nhảy chậm rãi vào thang máy sau họ; vì phải chú ý đến váy, mũ và khăn quàng nên quý bà thường bước vào đó lưỡng lự hơn đàn ông. Trong lúc thang máy chạy cậu đứng ngay sát cửa, vì như thế kín đáo nhất, lưng quay về phía khách, tay giữ nắm cửa để đẩy cửa sang bên cạnh ngay khi thang máy ngừng, chứ không hốt hoảng. Họa hoằn mới có một người khách vỗ vai cậu trong lúc thang máy chạy để được chỉ dẫn gì đấy, cậu liền vội vàng quay lại, như thể đã chờ đợi sẵn câu hỏi này, và dõng dạc trả lời. Tuy có nhiều thang máy, nhưng thường đông người chờ, nhất là sau khi vãn kịch hoặc một số chuyến xe lửa tốc hành nào đấy đến, khiến cậu vừa mới để khách ra ở tầng trên, đã lại phải cho thang máy chạy ào xuống dưới đón khách chờ ở đó. Cậu cũng có thể làm cho thang máy chạy nhanh hơn bằng cách kéo một sợi dây cáp gắn xuyên qua thùng thang máy, tuy nhiên quy định của thang máy cấm làm thế và có lẽ cũng nguy hiểm. Karl cũng không bao giờ làm thế khi đi với khách, nhưng khi đã thả họ ở bên trên và người khác chờ bên dưới, cậu cũng chẳng ngần ngại kéo sợi dây cáp mạnh và nhịp nhàng như một thủy thủ. Vả lại Karl biết rằng những gã trực thang máy khác cũng làm thế cả và cậu không muốn mất hành khách vào tay những gã kia. Đôi ba vị khách ở khá lâu trong khách sạn, chuyện khá thông thường ở đây, thỉnh thoảng lại mỉm cười cho thấy họ nhìn nhận Karl là người trực thang máy của họ, Karl đón nhận sự thân thiện này bằng vẻ mặt nghiêm trang, nhưng sung sướng. Thỉnh thoảng, khi việc vận chuyển thưa đi một chút, cậu cũng có thể nhận những nhiệm vụ nho nhỏ đặc biệt, chẳng hạn lấy giúp một người khách ngại lên phòng mình một món lặt vặt ông ta để quên, cậu liền một mình tót lên trên trong cái thang máy đặc biệt thân thuộc đối với cậu trong giây phút ấy, bước vào căn phòng lạ, nơi phần lớn những vật kỳ lạ cậu chưa từng thấy nằm ngổn ngang hoặc treo trên móc quần áo, cảm thấy mùi đặc trưng của một thứ xà phòng lạ, một loại nước hoa, nước súc miệng, rồi không hề nấn ná, vội vàng chạy trở xuống với vật đã tìm thấy, dù phần lớn cậu không được khách chỉ dẫn rõ ràng. Cậu thường tiếc rẻ không thể đảm nhận những công việc lớn hơn, vì cho loại việc này khách sạn sẵn có những gã giúp việc hoặc người đưa tin, họ chạy bằng xe đạp, thậm chí xe gắn máy; chỉ vào những dịp thuận lợi Karl mới được đưa tin từ các phòng tới các sảnh ăn hoặc sảnh đặt các máy chơi giải trí.

Khi hết mười hai giờ làm việc - ba ngày bắt đầu vào lúc sáu giờ tối, ba ngày kế tiếp vào lúc sáu giờ sáng - Karl mệt đến nỗi chẳng quan tâm đến ai khác, đi một mạch vào giường. Giường cậu nằm trong phòng ngủ tập thể của đám trực thang máy. Bà bếp trưởng, mà ảnh hưởng có lẽ không thật lớn như cậu tưởng vào buổi tối đầu tiên, đã cố gắng lo liệu cho cậu một phòng nhỏ riêng và có lẽ bà cũng sẽ thành công đấy, nhưng Karl thấy chuyện này khó khăn sao và vì nó mà bà bếp trưởng đã thường phải điện thoại như thế nào với cấp trên của cậu, cái lão trưởng nhóm phục vụ quá sức bận bịu nọ, nên cậu liền thôi và thuyết phục bà bếp trưởng về sự nghiêm túc trong việc từ bỏ của cậu, với lý do không muốn bị những gã khác ganh tị vì một ưu tiên không được tự cậu thật sự tạo ra.

Tất nhiên phòng ngủ này không phải là một nơi yên tĩnh. Vì ở đó mỗi người chia mười hai giờ rảnh theo cách khác nhau cho việc ăn, ngủ, tiêu khiển và kiếm chác thêm, nên trong phòng ngủ luôn hết sức nhốn nháo. Thành thử một số người nằm ngủ và kéo chăn che tai để khỏi nghe gì hết; nếu có ai đó bị đánh thức, gã sẽ giận dữ hét ầm về tiếng la ó của những người khác, khiến những người còn lại dù dễ ngủ tới đâu cũng không chịu đựng nổi. Hầu như gã nào cũng có ống tẩu, tập sống xa xỉ một chút; Karl cũng đã sắm một cái và nhanh chóng thấy thích. Nhưng vì không được phép hút trong giờ làm việc, nên hậu quả là trong phòng ngủ ai cũng hút, bao lâu chưa nhất thiết phải ngủ. Vì thế giường nào cũng đều ngập ngụa trong đám khói riêng và tất cả trong một màn sương mù chung. Tuy thật ra đa số nói chung tán thành, nhưng không thể thực hiện được chuyện ban đêm chỉ để đèn cháy ở một đầu gian phòng. Nếu đề nghị này được tiến hành thì những kẻ muốn ngủ có thể thản nhiên ngủ trong bóng tối của một nửa phòng ngủ tập thể - đây là một sảnh lớn với bốn mươi giường - trong khi ở phần được chiếu sáng những gã kia có thể chơi đổ xúc xắc hay đánh bài hoặc làm mọi chuyện gì khác cần đến ánh đèn. Nếu ai muốn đi ngủ mà giường mình lại ở trong phần nửa phòng được chiếu sáng, gã có thể nằm ở một trong những giường trống trong phần tối, vì phòng luôn luôn có giường trống và cũng chẳng ai phản đối việc người khác tạm dùng giường của mình theo kiểu ấy. Nhưng chẳng đêm nào việc phân chia này được thi hành. Chẳng hạn không ngừng có chuyện hai gã nào đấy, sau khi đã tận dụng bóng tối để ngủ đôi chút, lại có hứng nằm ở giường chơi bài trên một tấm ván đặt giữa hai gã, dĩ nhiên hai gã ấy sẽ vặn một ngọn đèn điện thích hợp, ánh sáng sẽ chọc vào mắt những người đang ngủ, nếu họ quay về phía đó, khiến họ chồm dậy. Tuy vẫn nằm trăn qua trở lại một chút, nhưng rốt cuộc họ không tìm được việc gì tốt hơn là cũng chơi, dưới một ngọn đèn khác, với gã hàng xóm cùng bị đánh thức. Và tất nhiên mọi ống tẩu lại phả khói. Tuy nhiên cũng có vài người muốn ngủ bằng mọi giá - Karl thường ở trong số này - và thay vì ngả đầu trên gối, họ lấy gối che hoặc quấn quanh đầu; nhưng ta nằm ngủ thế nào được khi gã bên cạnh thức dậy giữa đêm khuya để vào phố vui chơi một chút trước khi làm việc, khi gã ồn ào lau người, nước văng tung tóe ở bồn rửa gắn ngay đầu giường gã, khi gã không chỉ lịch kịch mà còn giậm mạnh chân để xỏ giày bốt được dễ hơn - hầu hết giày bốt của họ đều quá chật, dù mốt Mỹ - để rồi cuối cùng, vì thấy thiếu chút gì đấy ở bộ quần áo, gã nhấc gối của người đang ngủ lên, song người nằm dưới gối đã bị đánh thức từ lâu rồi, chỉ còn chờ nhảy xổ vào gã. Nhưng bọn này đều là những kẻ ham thể thao, trẻ trung, phần đông cường tráng, không muốn bỏ lỡ một cơ hội nào để tập tành. Và khi nửa đêm đang ngủ ta bật dậy vì bị tiếng ồn ào ầm ĩ đánh thức, ta có thể chắc chắn rằng sẽ tìm thấy hai đô vật trên sàn bên cạnh giường của ta và đứng thẳng trên các giường chung quanh, dưới ánh đèn sáng quắc, là các khán giả lão luyện đang mặc quần áo lót. Có lần, trong một trận đấm bốc ban đêm như thế, Karl đang ngủ thì một trong những đấu thủ đã ngã lên cậu và thứ đầu tiên Karl nhìn thấy khi mở mắt là máu tóe ra từ mũi gã và cậu chưa kịp làm gì thì tấm ga giường cậu đã đẫm máu. Karl thường sử dụng gần trọn mười hai giờ này để cố cho được một giấc ngủ lấy vài tiếng đồng hồ, dù cậu cũng rất bị lôi cuốn tham gia vào các trò tiêu khiển của những người khác; nhưng cậu không ngừng cho rằng mọi người kia đã đi trước mình một đoạn đường trong cuộc đời mà cậu phải cân bằng qua làm lụng siêng năng và một ít hy sinh. Cho nên tuy Karl rất phụ thuộc vào chuyện ngủ nghê, chủ yếu vì công việc của mình, cậu vẫn không phàn nàn với bà bếp trưởng lẫn Therese về hoàn cảnh trong phòng ngủ, vì một là nói chung bọn thanh niên đều vất vả gánh chịu, không than vãn gì ghê gớm và hai là nỗi phiền toái trong phòng ngủ là một phần tất yếu của nhiệm vụ trực thang máy mà cậu đã nhận lãnh với lòng biết ơn từ tay bà bếp trưởng.

Mỗi tuần một lần, Karl được nghỉ hai mươi bốn giờ khi đổi ca; cậu dùng một phần thì giờ này để thăm bà bếp trưởng một hoặc hai lần và trò chuyện ngắn ngủi với Therese ở đâu đó, trong một góc phòng, trên một hành lang và rất hiếm khi trong phòng cô; cậu phải căn đúng thì giờ rảnh rỗi ít ỏi của cô. Thỉnh thoảng cậu cũng tháp tùng Therese những khi cô vào phố vì công việc, mà lần nào cũng phải giải quyết vô cùng vội vã. Họ gần như chạy tới trạm tàu điện ngầm gần nhất, Karl cầm túi xách của cô; tàu chạy thoắt cái đã tới nơi, như thể nó được lôi đi mà không gặp sức cản nào; mới đó mà họ đã xuống xe, rồi họ lóc cóc leo bậc thang lên, thay vì đợi thang máy, vì thấy nó quá chậm; những quảng trường lớn - từ đây những con đường tỏa đi như những cánh sao - hiện ra và đưa tới một sự hỗn loạn trong dòng xe cộ thẳng tắp từ mọi hướng; nhưng Karl và Therese bước vội sát bên nhau vào những văn phòng, tiệm giặt ủi, nhà kho và cửa hàng khác nhau, những nơi không dễ đặt hàng hoặc khiếu nại bằng điện thoại, nói chung là những chuyện vặt vãnh. Therese sớm nhận thấy không thể xem thường sự giúp đỡ của Karl trong chuyện này, ngược lại nó làm cho nhiều việc được hoàn thành nhanh chóng. Không lần nào đi với cậu mà cô phải chờ để được trình bày với các nhà buôn quá bận bịu, như bình thường cô hay bị. Cậu tới quầy, gõ đốt ngón tay lên đó cho đến khi được tiếp, cậu réo qua những bức tường người thứ tiếng Anh vẫn luôn còn hơi cường điệu của mình, dễ nhận ra trong cả trăm giọng nói, cậu không ngần ngại đi tới đối tác, cho dù họ đã kênh kiệu rút tít vào trong những gian hàng sâu nhất. Cậu làm thế không phải vì ngông cuồng, cậu quan tâm đến mọi sự phản kháng chứ, nhưng cậu cảm thấy mình ở một vị trí chắc chắn, nó cho cậu quyền làm như đã làm: khách sạn Occidental là một khách hàng mà người ta không được phép nhạo báng và Therese cần được giúp đỡ, tuy cô có kinh nghiệm trong công việc. “Anh luôn nên đi cùng với tôi,” thỉnh thoảng cô vừa cười vừa sung sướng nói, khi họ ra về sau một chuyến đi đặc biệt thành công.

Trong một tháng rưỡi ở Ramses chỉ có ba lần Karl ở trong phòng Therese khá lâu, hơn vài giờ. Tất nhiên nó nhỏ hơn bất cứ phòng nào của bà bếp trưởng; vài đồ đạc trong đó có thể nói là chỉ đặt quanh cửa sổ, nhưng qua kinh nghiệm ở phòng ngủ tập thể Karl hiểu được giá trị của một căn phòng riêng, tương đối yên tĩnh, và tuy cậu không nói thẳng ra, Therese vẫn nhận thấy cậu thích căn phòng của cô xiết bao. Cô không có bí mật nào trước cậu và sau lần thăm hồi đó, vào tối đầu tiên, cô không thể giấu cậu được điều gì nữa. Cô là một đứa con ngoài giá thú, bố cô là đốc công xây dựng và đã xin cho bà mẹ với đứa con từ Pomerania sang theo; song như thể ông cho rằng thế là đã làm tròn bổn phận của mình hoặc là ông chờ đợi những người nào khác với người đàn bà lam lũ và đứa bé ốm yếu mà ông đã đón ở chỗ tàu cập bến, nên không lâu sau khi mẹ con cô đến ông đã di dân sang Canada mà chẳng nhiều lời giải thích và những kẻ ở lại không nhận được một bức thư nào lẫn tin tức gì của ông, điều này cũng không đến nỗi quá ngạc nhiên, vì họ thất lạc, không tìm nổi, trong những trại tạm cư ở phía Đông New York.

Có lần Therese kể về cái chết của bà mẹ, lúc đó Karl đứng cạnh cô bên cửa sổ và nhìn ra ngoài đường. Cảnh bà mẹ và cô - hồi đó chắc cô chừng năm tuổi - mỗi người ôm một tay nải bước vội qua các đường phố tìm chỗ ngủ như thế nào trong một tối mùa đông. Mới đầu bà còn dắt tay cô - lúc ấy có bão tuyết và không dễ tiến lên phía trước - cho tới lúc tay bà tê dại và bà buông Therese ra, không ngoái nhìn cô, lúc ấy cô phải cố tự bám chặt áo mẹ. Therese thường bị vấp, thậm chí ngã nữa, nhưng bà mẹ như hóa cuồng, không dừng lại. Và bão tuyết trên những đường phố New York dài hun hút, thẳng tắp! Karl chưa trải qua mùa đông nào ở New York. Nếu ta đi ngược gió và nó xoay tròn, ta không thể mở mắt một phút giây nào, vì gió không ngừng hắt tuyết vào mặt ta, ta chạy nhưng chẳng được xa, tuyệt vọng thế nào đấy. Dĩ nhiên một đứa bé có lợi thế hơn người lớn, nó chạy bên dưới làn gió và còn thấy vui vui trong mọi chuyện. Cho nên ngày đó Therese không thể hoàn toàn hiểu mẹ và cô tin chắc nếu tối hôm đó cô xử sự khôn ngoan hơn với mẹ - ngày ấy cô chỉ là một đứa trẻ quá nhỏ - hẳn bà sẽ không phải chịu một cái chết thảm thương như thế. Hôm ấy bà mẹ không có việc làm đã hai ngày, chẳng còn đồng xu teng nào, lang thang suốt ngày ngoài trời không được một miếng vào bụng và trong các tay nải họ chỉ vác theo những mảnh giẻ vô dụng song không dám quăng đi, có thể vì mê tín. Bà mẹ được hứa hẹn có việc làm vào sáng hôm sau ở một công trường xây dựng, nhưng, như bà đã cố giải thích cho Therese suốt ngày hôm đó, bà sợ không thể tận dụng dịp may này, vì bà cảm thấy mệt lử; buổi sáng bà đã ho ra nhiều máu khiến người qua kẻ lại trên đường hoảng sợ; khao khát duy nhất của bà là được đến chỗ nào ấm và nghỉ ngơi. Và đúng tối hôm ấy lại không thể có được một chỗ nhỏ nhoi nào. Chỗ nào chưa bị quản gia đuổi ra khỏi cổng (ở đó dẫu sao ta cũng có thể tránh bão và nghỉ ngơi một chút), hai mẹ con liền đi vội qua những hành lang chật hẹp giá lạnh, leo lên những tầng cao, đi quanh những sân có mái che, gõ bừa lên các cửa, có lần không dám nói với ai, rồi lại hỏi bất cứ người nào họ gặp và một hoặc hai lần bà mẹ ngồi xổm ở bậc một cầu thang vắng lặng, kéo ghì Therese vào lòng (cô gần như đã cưỡng lại) và áp chặt môi hôn làm cô đau đớn. Sau này khi biết đó là những nụ hôn cuối cùng, cô không hiểu nổi rằng mình (dù có thể mình là một con sâu nhỏ bé) đã có thể mù quáng đến nỗi không nhận thấy điều đó. Ở một số phòng họ đi ngang qua người ta để cửa ngỏ cho không khí ngột ngạt thoát ra và từ làn khói tựa sương mù tràn ngập căn phòng, như do một đám cháy gây ra, chỉ cần hình dáng một người nào đấy đang đứng ở khung cửa bước ra và rồi hoặc qua sự hiện diện lặng lẽ của y hoặc qua một lời nói ngắn ngủi y cho hai mẹ con thấy là không thể vào trú ẩn trong căn phòng đó được. Bây giờ nhìn lại, Therese thấy rằng bà mẹ chỉ thật sự tìm một chỗ trong những giờ đầu thôi, vì khoảng sau nửa đêm bà không còn hỏi han người nào nữa, tuy hai mẹ con vẫn không ngừng hối hả đi tiếp, trừ những lúc nghỉ ngắn, cho tới rạng đông và tuy trong những ngôi nhà ấy, ở đó cổng vào hay cửa các căn hộ đều không đóng, luôn luôn có sự sống và chỗ nào họ cũng gặp người. Dĩ nhiên, trên thực tế họ không chạy từ chỗ này sang chỗ khác, mà họ chỉ di chuyển với tốc độ tối đa sức lực của họ cho phép, có lẽ thực ra mà nói chỉ ngang với lê bước. Therese cũng không rõ từ nửa đêm tới năm giờ sáng họ đã vào hai mươi ngôi nhà hoặc hai hay chỉ một thôi. Những hành lang của các ngôi nhà này được bố trí theo những đồ án thông minh tận dụng tối đa không gian, nhưng lại không quan tâm đến việc giúp ta định hướng dễ dàng; đã bao lần họ đi qua cũng những hành lang ấy! Therese nhớ mang máng rằng hai mẹ con ra khỏi cổng một ngôi nhà mà họ đã lùng kiếm rất lâu, nhưng cô cũng có cảm tưởng là họ quay ngay lại trên con đường ấy và lại xông vào cũng chính ngôi nhà ấy. Cho đứa bé thì dĩ nhiên đó là một sự đau khổ không hiểu nổi, lúc được mẹ giữ, lúc bám chặt mẹ, bị kéo đi không một lời an ủi và đối với sự khờ dại của nó hồi đó thì tất cả dường như chỉ có một sự giải thích: mẹ nó muốn chạy khỏi nó. Cho nên kể cả khi được mẹ nắm tay, Therese vẫn bám chặt hơn vào áo mẹ bằng tay kia cho bảo đảm, chốc chốc lại gào lên. Cô không muốn bị bỏ lại đây, giữa những con người đang giậm chân leo lên cầu thang phía trước họ, giữa những con người phía sau họ, còn chưa trông thấy, đang tiến tới ở một khúc uốn cầu thang, giữa những con người cãi nhau trên các hành lang trước một khung cửa và xô đẩy nhau vào trong phòng. Những người say rượu đi quanh quất trong nhà, ư ử hát; bà mẹ cùng Therese may mắn chui lọt qua những đám người này. Đương nhiên vào lúc khuya khoắt như thế, khi người ta không còn quá chú ý và chẳng ai khăng khăng bảo vệ quyền lợi của mình nữa, ít ra hai mẹ con cũng có thể chui vào một trong những phòng ngủ tập thể do những người kinh doanh cho thuê, mà họ đã đi qua vài cái, nhưng Therese không biết điều này, còn bà mẹ không muốn nghỉ ngơi gì nữa. Sáng ra, bắt đầu một ngày đẹp trời mùa đông, hai mẹ con tựa vào một bức tường nhà và có lẽ đã ngủ ở đó một lúc, cũng có thể họ chỉ mở mắt thao láo đăm đăm nhìn quanh. Họ phát hiện Therese đã để mất tay nải của mình và bà mẹ liền đánh Therese để trừng phạt tội chểnh mảng, nhưng Therese không nghe thấy tiếng đánh cũng chẳng cảm thấy gì hết. Rồi họ tiếp tục đi qua những con đường đã trở nên sống động, bà mẹ men theo bờ tường, họ đi qua một chiếc cầu, bà mẹ đưa tay vuốt nhẹ lớp sương muối trên thành cầu, cuối cùng họ đến đúng công trường xây dựng mà bà mẹ được gọi tới vào sáng hôm ấy - ngày đó Therese cam chịu, nay cô không hiểu được. Bà không bảo Therese chờ hay đi khỏi và Therese coi như thế là bà ra lệnh chờ, vì điều này hợp ý muốn của cô nhất. Thế là cô ngồi lên một chồng gạch và nhìn mẹ gỡ nút tay nải, lấy ra một mảnh vải màu, quấn quanh tấm khăn đội đầu mà bà đã mang suốt đêm. Therese quá mệt đến không nghĩ nổi là cần giúp mẹ. Không trình diện tại văn phòng công trường như thường lệ, và cũng chẳng hỏi ai, bà mẹ leo lên một cầu thang, như thể tự bà biết mình đã được chia phần việc nào. Therese lấy làm ngạc nhiên, vì bình thường những nữ thợ phụ hồ chỉ ở bên dưới lo trộn vôi, chuyền gạch và làm những việc đơn giản khác. Nên cô nghĩ rằng hôm nay bà mẹ muốn làm một việc được trả công khá hơn và ngẩng đầu ngái ngủ mỉm cười với mẹ. Tòa nhà xây chưa cao, vừa mới tàm tạm xong tầng trệt, tuy những thanh giàn giáo cho việc xây dựng tiếp theo đã chĩa lên bầu trời xanh, song tất nhiên chưa được bắc những tấm ván nối. Ở đấy bà mẹ khéo léo đi quanh những thợ nề đang chồng viên gạch này lên viên gạch kia và chẳng hiểu sao họ không hỏi bà lên đó làm gì; bàn tay mềm mại của bà thận trọng bám vào một chòi gỗ được sử dụng như lan can, còn ở bên dưới, Therese sửng sốt ngắm nhìn trong cơn ngái ngủ sự khéo léo này và cô tin rằng còn nhận được ánh mắt vui vẻ của mẹ. Nhưng bây giờ trên lối đi bà mẹ gặp phải một đống gạch nhỏ, dường như tới đó là hết lan can, cả lối đi nữa, nhưng bà không để ý, cứ xông tới đống gạch, sự khéo léo dường như đã rời bỏ bà, bà xô đổ đống gạch, ngã lộn qua đó xuống dưới sâu. Nhiều viên gạch lăn theo bà và cuối cùng, một lúc lâu sau, một tấm ván nặng ở đâu đó tuột ra, rơi ầm xuống bà. Hồi ức cuối cùng của Therese về mẹ cô là bà dang hai chân nằm đó trong chiếc áo kẻ ô mang từ Pomerania, tấm ván thô đè lên, gần như che kín bà, người ta chạy tới từ mọi phía và bên trên tòa nhà đang xây một người đàn ông nào đó giận dữ gọi với gì đấy xuống dưới.

Therese kể xong thì trời đã muộn. Cô đã kể chi tiết, không như thói quen của cô và chính ở những chỗ không quan trọng, như việc tả những cọc giàn giáo, từng cái chĩa lên trời, cô đã phải tạm dừng, mắt ứa lệ. Giờ đây, sau mười năm[24], cô nhớ như in mọi chuyện nhỏ nhặt xảy ra hồi đó và vì hình ảnh của mẹ cô trên tầng trệt còn chưa xây xong ấy là kỷ niệm cuối cùng về cuộc đời bà và vì cô đã không thể kể đủ rõ ràng cho người bạn trai của mình, nên cô muốn trở lại điều ấy sau khi kết thúc câu chuyện, nhưng cô ngắc ngứ, úp mặt vào hai bàn tay và không nói lời nào nữa.

Nhưng cũng có những quãng thời gian vui vẻ hơn trong phòng của Therese. Ngay lần thăm viếng đầu tiên Karl đã thấy ở đó một quyển sách dạy về giao dịch thương mại bằng thư từ và cậu hỏi mượn. Đồng thời họ thỏa thuận rằng Karl sẽ làm những bài tập trong sách và đưa Therese kiểm tra; cô đã học hết quyển đó rồi, trong chừng mực nó cần cho những công việc lặt vặt của cô. Giờ đây Karl tai nhét bông, nằm suốt những đêm dài trên giường mình trong phòng ngủ tập thể ở tầng dưới, thay đổi đủ mọi thế nằm, đọc quyển sách và ghi chép các bài tập vào một quyển vở bằng chiếc bút máy được bà bếp trưởng tặng thưởng, vì cậu đã lập và viết sạch sẽ một bản liệt kê lớn rất tiện lợi về hàng hóa tồn kho. Cậu đã biến được phần lớn sự quấy rầy của những gã trai kia thành điều lợi ích, bằng cách không ngừng yêu cầu họ cho cậu những chỉ dẫn nho nhỏ bằng tiếng Anh, cho đến khi họ mệt mỏi và để cậu yên. Cậu thường sửng sốt về việc những anh chàng kia hoàn toàn hài lòng với hoàn cảnh hiện tại của họ mà không cảm thấy đó chỉ là tạm bợ - quá hai mươi tuổi không được làm người trực thang máy nữa - họ không thấy cần phải quyết định về nghề nghiệp sau này của mình, họ không lấy việc học của Karl làm gương và chẳng chịu đọc gì khác hơn những quyển truyện trinh thám thời thượng, chuyền từ giường này sang giường khác như những tập giấy vụn bẩn thỉu.

Trong những lần gặp gỡ, Therese sửa bài làm của Karl quá sức tỉ mỉ, kết quả là họ bất đồng quan điểm; Karl viện ra ông thầy đáng kính của mình ở New York làm chứng, nhưng Therese chẳng đếm xỉa gì đến ông ta cũng như những ý kiến về ngữ pháp của đám thanh niên trực thang máy. Cô giật cây bút máy từ tay cậu, gạch những chỗ cô tin chắc là sai, nhưng trong những trường hợp hoài nghi như thế Karl lại gạch những chỗ Therese đã gạch vì nó quá tỉ mỉ, cho dù nói chung cậu không biết ai có thẩm quyền hơn Therese trong lĩnh vực này. Đôi khi bà bếp trưởng đến và quyết định của bà luôn thiên về Therese, nhưng điều này chưa chứng minh được gì cả, vì Therese là thư ký của bà mà. Song nói chung đồng thời bà cũng đem lại hòa giải, vì trà sẽ được pha, bánh ngọt được mang ra và Karl phải kể về châu Âu; tuy nhiên cậu hay bị bà bếp trưởng ngắt lời, bà không ngớt hỏi tới hỏi lui và tỏ vẻ ngạc nhiên, qua đó bà khiến cho Karl hiểu rằng trong thời gian tương đối ngắn châu Âu đã có nhiều điều thay đổi tận gốc rễ và hẳn là từ ngày cậu đi cũng đã có nhiều đổi thay và vẫn đang không ngừng thay đổi.

Karl ở Ramses có lẽ được khoảng một tháng thì một tối nọ Renell đi ngang qua bảo rằng một tay tên Delamarche đã bắt chuyện gã trước khách sạn và gạn hỏi về Karl. Renell không có lý do gì để giấu giếm và đã kể đúng sự thật, rằng Karl là một người trực thang máy, song nhờ có sự bảo trợ của bà bếp trưởng cậu có triển vọng nhận được những công việc khác hoàn toàn. Karl nhận thấy Delamarche đã cư xử với Renell thận trọng như thế nào, thậm chí đã mời gã đi ăn tối hôm đó. “Tớ không liên quan gì nữa với Delamarche,” Karl nói, “bạn hãy thận trọng trước hắn!”

“Tớ á?” Renell nói, vươn vai và bước vội đi. Gã là tay thanh nhã nhất trong khách sạn và trong đám trai kia có tin đồn, không biết từ đâu, rằng gã được một quý bà lịch sự ở trong khách sạn đã khá lâu hôn chùn chụt, ít nhất trong thang máy. Những người biết tin đồn này nhất định sẽ rất ham muốn được nhìn thấy quý bà tự tin nọ (nhìn bề ngoài chẳng có gì chứng tỏ bà có hành vi như thế) đi ngang qua với những bước chân điềm tĩnh, nhẹ nhàng, những tấm khăn choàng mềm mại, eo lưng thắt chặt. Bà ở trên tầng một và thang máy của Renell không phải là cái dành cho bà, nhưng tất nhiên khi những thang máy khác tạm thời bận thì không thể cấm những người khách như bà vào một thang máy khác. Cho nên thỉnh thoảng quý bà này đi trong thang máy của Karl và Renell, và quả thật luôn chỉ khi nào Renell trực thang máy. Có thể chỉ ngẫu nhiên thôi, nhưng chẳng ai tin, và khi thang máy chạy đi với hai người họ, cả lũ trực thang máy xôn xao, phải vất vả mới kìm nén được, thậm chí một trong những trưởng nhóm phục vụ đã phải can thiệp. Dẫu sao Renell cũng đã thay đổi, càng trở nên tự tin hơn hẳn, nguyên nhân có thể là quý bà nọ hoặc tin đồn kia; gã phó mặc việc lau chùi thang máy cho Karl (cậu đã chờ dịp sắp tới để nói rốt ráo với gã về việc này) và hoàn toàn không thấy bóng dáng gã trong phòng ngủ tập thể nữa. Không ai khác rời bỏ hoàn toàn tập thể của những người trực thang máy như thế, vì nói chung họ đoàn kết chặt chẽ với nhau, ít nhất trong những chuyện liên quan đến công việc, và họ có một tổ chức được ban giám đốc khách sạn công nhận.

Karl bình tĩnh suy nghĩ về những chuyện này, nghĩ cả tới Delamarche, ngoài ra cậu vẫn làm việc như bình thường. Gần nửa đêm cậu có một thay đổi nho nhỏ: Therese mang cho cậu một quả táo to và một phong sô cô la (cô thường làm cậu bất ngờ với những món quà nho nhỏ). Họ trò chuyện một chút, không hề phiền hà vì những gián đoạn mà việc trực thang máy của Karl gây ra. Họ cũng nhắc tới Delamarche và Karl nhận thấy thật ra mình đã bị ảnh hưởng từ Therese, khi gần đây cậu cho rằng hắn là một con người nguy hiểm, vì tất nhiên Therese thấy hắn như thế sau khi nghe Karl kể. Song nói chung Karl chỉ coi hắn là một tên vô lại, đã tự để mình thành ra sa đọa qua nỗi bất hạnh nào đấy và ta có thể giao du với hắn được. Therese cực lực phản đối và nói một thôi một hồi đòi Karl hứa sẽ không trò chuyện một lời nào nữa với Delamarche. Thay vì hứa, Karl không ngớt thúc giục cô đi ngủ, vì đã quá nửa đêm lâu rồi, và khi Therese không chịu, cậu dọa sẽ bỏ thang máy, đưa cô về phòng cô. Cuối cùng, khi cô đồng ý đi ngủ, cậu nói: “Sao cô lo lắng không cần thiết vậy, hở Therese? Nếu nhờ thế mà cô ngủ ngon hơn thì tôi sẵn sàng hứa sẽ chỉ nói chuyện với Delamarche nếu không thể tránh được.” Rồi cậu chạy liên miên, vì gã trực thang máy bên cạnh bị điều đi phụ giúp việc gì đấy, nên Karl phải lo luôn cả hai thang máy. Có những vị khách phàn nàn rằng thang máy bị hỗn loạn, một quý ông tháp tùng một quý bà, thậm chí đã chạm nhẹ ba toong vào Karl để hối cậu gấp gáp lên, một lời cảnh báo rất không cần thiết. Giá mà khi thấy thang máy bên cạnh không có người trực, những người khách này đi ngay qua thang máy của Karl, nhưng họ lại không làm thế, mà cứ đi tới thang máy bên cạnh và đứng đó, đặt tay lên nắm cửa, hoặc thậm chí tự vào trong thang máy, một việc mà theo điều khoản khắt khe nhất của điều lệ thì đám trực thang máy phải ngăn ngừa bằng mọi giá. Thành thử Karl cứ phải chạy qua chạy lại rất oải mà không biết đã hoàn thành chu đáo nhiệm vụ của mình chưa. Ngoài ra, lúc gần ba giờ sáng, một phu khuân vác già mà Karl hơi thân muốn c?