← Quay lại trang sách

Chương 6

Con đường lờ mờ hiện hình giữa một vùng cỏ dại tràn chiếm. Cỏ dầy đặc ở phía bên kia hàng rào kẽm gai ngăn chia con đường cụt với một bãi hoang, ở đó là một rừng cỏ um tùm cao ngang tầm người.

Chiếc xe jeep của Vận vừa ngừng lại trước cái cổng gạch xiêu đổ. Bánh xe lún sâu vào lòng đất ẩm ướt. Vận để yên cho máy nổ.

- Tôi chờ Ngọc không?

Tôi chưa kịp trả lời Vận. Rừng cỏ bên kia hàng rào kẽm gai, con đường cụt không một bóng người, cái cổng gạch xiêu đổ đang vây bọc lấy tôi trong một cảnh tượng hoang vu rùng rợn làm ngừng đứng hơi thở. Tôi có cảm tưởng như chiếc xe vừa ngừng lại bên cạnh một lòng huyệt, một nghĩa địa, đây chỉ là khúc đường cụt trước chỗ ở của Dã Thụy. Tôi ngồi lặng. Tâm trạng ngẩn ngơ. Cái nhìn bàng hoàng. Vận đập vào cánh tay tôi nhắc lại câu hỏi. Tôi giật mình, trả lời:

- Không. Nhưng lát nữa anh trở lại được không?

Vận gật:

- Được. Chừng bao nhiêu lâu?

- Một tiếng hay hơn gì đó. Tôi không muốn về ngay.

- Tôi cũng vừa định nói với Ngọc như thế. Đừng về ngay. Nó đang mong gặp Ngọc và chắc có nhiều điều muốn dặn dò Ngọc.

Tôi lo lắng:

- Dặn dò?

Vận gật:

- Phải. Dặn dò trước khi đi.

Tôi nhăn mặt:

- Dã Thụy đau nặng đến thế kia ư?

Vận lại gật:

- Và lần này không như các lần trước. Điều duy nhất Dã Thụy làm tôi ngạc nhiên là điều gì Ngọc biết không?

- Làm sao tôi biết được.

Vận nhún vai:

- Điều mọi người đều biết từ lâu. Là chẳng hiểu tại sao Dã Thụy còn sống đến bây giờ. Tôi gặp nó ban nãy rồi. Thôi lát nữa tôi quay lại đón.

Tôi xuống xe. Vận xoay hết một vòng lái. Chiếc xe lượn một vòng. Những thân cỏ bị nghiền nát kêu lạt sạt. Tôi cất bước đi qua cái cổng gạch. Chỗ ở của Dã Thụy trên lều hết như mấy lần tôi tới đây. Căn vườn bỏ hoang. Cỏ trong vườn um tùm như cỏ ngoài đường. Mặt đất rêu phong từng quãng. Những cái rãnh bị nước soi mòn vẽ thành từng vệt ngoằn ngoèo trên lối đi. Đất ở đây cũng chằng chịt những nếp nhăn phiền muộn. Tim tôi thắt lại khi tôi đứng trước cánh cửa khép hờ của căn lều gỗ ở cuối vườn. Tôi gõ cửa. Không có tiếng ai trả lời:

- Anh Thụy, NGọc đến thăm anh đây.

Tôi nói lớn và đẩy cửa bước vào. Túp lều gỗ được ngăn chia làm hai phần bằng một bức vách mỏng cao tới đầu người. Phần ngoài dùng làm xưởng họa. Thoạt đầu tôi không nhìn thấy gì. Một thứ bóng tối ngưng đọng đã lâu ngày bao phủ căn phòng kín mít. Phải nhíu mày, định thần, căn phòng mới lờ mờ hiện ra.

Đó là một căn phòng trống trơn, không có một đồ đạc nào hết ngoài cái giá vẽ và những bức họa. Cái giá vẽ đổ nghiêng, mặt giá úp vào mặt vách. Những bức họa ngổn ngang cùng khắp. Trên những bức vách, trong những xó góc, trên nền nhà, một mùi ẩm mốc lên, thứ ẩm mốc làm bằng những lớp bụi âm thầm không biết tự bao giừ và cỏ cây rữa nát tràn vào trong nhà qua những bức vách mỏng mảnh.

Tôi lần bước trong bóng tối, tới cánh cửa nhỏ ở cuối phòng. Tôi đẩy cánh cửa bước vào. Ánh lửa leo lét từ một cây nến phơi bầy trước mắt tôi cảnh tượng thê thảm. Dã Thụy nằm trên chiếc giường sắt cũ. Một tấm chăn dạ đắp ngang ngực, mép chăn rớt xuống mặt đất. Căn phòng nhỏ cũng trống trơn gần như căn phòng bên ngoài. Đồ đạc thu gọn trong một cái tủ đứng và một cái bàn viết. Trên bàn, những hộp mầu và những ống thuốc. Thêm cái ghế đẩu ở đầu giường. Trên mặt đẩu một cái ly, một hộp sữa và một cái bình thủy.

Tôi lại gần. Không cần nhìn kỹ người bệnh, tôi cũng biết Vận nói đúng. Bệnh hoạn chung sống thường trực với Dã Thụy. Nhưng lần đau này không giống với những lầ n đau trước. Mùa đông này với Dã Thụy là mùa đông cuối cùng.

- Ngọc đấy à.

Tiếng nói Dã Thụy yếu hụt. Chỉ còn như một hơi gió thoảng. Tiếng nói cũng thoi thóp như cái thân hình Dã Thụy dưới lớp chăn mỏng. Một thân hình gầy đét, mỏng tanh, dán chặt xuống mặt đệm.

Tôi ngồi ghé xuống thành giường:

- Ngọc đây. Anh thấy trong người thế nào?

- Như thường, như mọi ngày.

Dã Thụy cố trả lời tôi bằng một giọng khôi hài. Tấm chăn động đậy. Người bệnh cố gắng ngồi lên. Tôi đặt tay lên ngực Dã Thụy, xúc động:

- Anh cứ nằm yên như thế.

Dưới bàn tay tôi, lồng ngực Dã Thụy chợt vơi hẳn đi. Thụy vừa thở ra một hơi thật dài.

- Ngọc đặt lại cho tôi cái gối.

Tôi luồn tay dưới gáy Thụy, mang cái gối cho cao hơn. Dã Thụy nhìn tôi đăm đăm. Da mặt Thụy xanh mét. Tròng mắt lờ đờ, sâu trũng. Nhưng từ phút tôi ngồi xuống thành giường, tròng mắt ấy đã ngời lên một ánh mừng rỡ.

- Ai đưa Ngọc đến?

- Anh Vận.

- Nó đâu rồi?

- Lát nữa Vận sẽ trở lại. Anh cần gì Vận không?

Thụy lắc đầu:

- Hỏi thế thôi. Tôi chỉ cần gặp Ngọc. Cám ơn Ngọc đã tới.

Tôi nghe và tôi chảy nước mắt. Trong đám bạn hữa hằng ngày lui tới quán Nhớ, trước sau Dã Thụy vẫn là người tôi quý mến nhất. Quý mến nhất và cũng thân thiết nhất. Nhiều lần, tôi đã tự hỏi. Tại sao giữa Dã Thụy và tôi lại có sự thân thiết đặc biệt này. Phút này tôi mới tìm được câu trả lời. Tình bạn giữa hai chúng tôi thắm thiết bởi vì nó ngắn ngủi. Tôi thân nhất với Dã Thụy. Bởi vì một ngày tôi sẽ khóc Thụy, sẽ đưa bạn đến nơi an nghỉ cuối cùng. Cái ngày ấy đã gần tới. Đã thấp thoáng.

Tôi khóc không tiếng. Trời Pleiku của những người trẻ tuổi lạc lõng là bọn chúng tôi đã buồn, tới buổi sáng hôm nay càng buồn thảm hơn. Chúng tôi sống cô đơn và không ai làm được gì cho ai hết. Thụy nhìn thấy những giọt nước mắt tôi chảy đều đều xuống hai gò má. Thụy chưa chết, tôi đã khóc. Chưa có đám táng, tôi đã ở đằng sau một linh cửu tưởng tượng. Thụy nằm trên giường. Tôi ngồi trên thành giường. Chúng tôi đang trò chuyện với nhau. Nhưng tôi có cảm tưởng như tôi còn ở lại mà Thụy thì đã đi rồi. Thật xa. Vào cái phía bên kia của một thế giới khác.

- Tại sao Ngọc khóc?

Tôi gắt lớn:

- Anh còn phải hỏi.

Thụy ôn tồn:

- Hỏi chút. Tại sao Ngọc khóc? Việc phải đến sớm muộn với tôi thì đến lúc nào cũng thế mà thôi. Hãy nhìn tôi như thế.

- Anh không thể để mặc anh như thế này. Lát nữa Vận đến, chúng tôi sẽ đưa anh đi bác sĩ.

- Bệnh tôi không chữa được nữa. Tôi cũng không muốn kéo dài thêm nữa tình trạng này.

- Anh có muốn về Quy Nhơn với gia đình anh không?

Thụy ngẫm nghĩ, cặp mắt nhìn thẳng lên trần nhà. Một phút im lặng. Gió thổi rào rào trên mái. Đó là thứ gió khô buốt lạnh, từng đợt trùng trùng kéo chạy trong những khoảng không gian dài rộng. Thứ gió sẽ thổi suốt một mùa đông Pleiku. Thứ gió làm xác xơ những phố thấp, lồng lộng trên những phố cao. Giọng Dã Thụy đều đều, rất nhỏ, tôi phải lắng tai mới nghe thấy:

- Tôi đã nghĩ tới chuyện đó. Là về Quy Nhơn. Nhìn biển cũ một lần cuối cùng. Chết dưới mái gia đình mình. Nhưng tôi không có can đảm chết giữa những người xa lạ. Căn lều nhỏ thân thiết với tôi hơn mái gia đình tôi. Ngọc và những người bạn tôi gặp ở đây cũng vậy. Thân thiết hơn là những người thân trong gia đình tôi.

Lại một phút im lặng. Trời Pleiku cuối năm chỉ còn một tiếng động. Đó là tiếng gió, chung quanh, cùng khắp. Tôi kéo tấm chăn lên sát cằm Thụy. Thụy đẩy tấm chăn ra.

- Đỡ một tay cho tôi ngồi dậy.

Tôi làm theo. Thụy ngồi tựa vào thành giường, nhắm nghiền mắt lại. Chỉ cái việc ngồi, Thụy chừng như đã đứt hơi. Tôi không biết làm gì hơn là chờ đợi, Thụy mở mắt:

- Ngọc tới mở dùm tôi cái ngăn kéo kia.

Tôi đi tới cái bàn nhỏ, mở ngăn kéo, Thụy nhìn theo hỏi:

- Trong đó có một bì thư. Ngọc nhìn thấy không?

Tôi gật:

- Thấy.

- Mang lại đây cho tôi.

Tôi mang phong thư tới. Phong bì đề tên tôi. Lúc bình thường, Thụy có một nét chữ rất cứng cáp, khỏe mạnh - Là nét chữ thường ở một họa sĩ. Thụy đau, gân tay không còn nữa, nét chữ trên mặt phong bì run rẩy lệch lạc.

- Trong này là một lá thư tôi viết cho Ngọc. Mới viết đêm qua. Những gì tôi muốn nhờ Ngọc đã ghi sẵn trong này. Cũng không có gì quan trọng. Nhưng tôi muốn nhờ Ngọc và không muốn nhờ một người nào khác. Ngọc nhận lời không?

Tôi gật, cố cầm nước mắt. Đón lấy phong thư, tôi hỏi:

- Coi ngay bây giờ được không?

Thụy lắc cười:

- Không được.

- Bao giờ?

Thụy đáp, bình tĩnh:

- Sau khi tôi chết. Chúc thư để lại cho đời, cho người thân của người chết đó.

Tôi cúi đầu, nhìn lá thư nằm trên tay. Tiếng Thụy:

- Nghĩ lại, tôi cũng chẳng ân hận điều gì.

Rồi như chợt nhớ ra:

- Ngoại trừ một điều. Ngọc ra phòng ngoài, lấy cái khung vải đựng ở cạnh giá vẽ đưa vào đây cho tôi.

Tôi đi ra phòng ngoài và trở vào với khung vải đã tìm thấy. Thụy bảo tôi đưa cây nến tới gần rồi lật lưng tranh, đặt bức tranh vào thành giường. Là một bức tranh vẽ dở. Tranh vẽ một người con gái ngồi sau cái quầy cao, trong một căn phòng thiếu ánh sáng. Căn phòng là quán Nhớ. Người con gái trong tranh là tôi. Thụy vẽ tôi trong một dáng ngồi thẳng cứng, hai mắt mở lớn nhìn thẳng, với một mái tóc thật dài xõa trùm hai bờ vai. So với tôi, người con gái trong tranh gầy hơn, nhiều tuổi hơn, và có một đôi mắt thật buồn. Đã lâu lắm tôi không nhìn thấy mình. Hay chỉ nhìn thấy qua những hình dáng lung linh mờ nhạt. Tôi chợt thấy lại tôi. Trong nét vẽ Dã Thụy. Tôi lặng người đi.

- Ngọc đó.

Tôi gật:

- Thấy. Anh vẽ cái quán Nhớ tối thui à.

- Nó sáng láng hơn sao?

Tôi lắc đầu:

- Anh nhìn đúng lắm. Quán Nhớ tối thui trên mọi phương diện. Người của quán Nhớ cũng vậy. Anh vẽ hồi nào?

- Tuần trước. Tuần trước nữa, không nhớ. Đây là bức tranh cuối cùng của Dã Thụy. Chỉ tiếc nó là một bức tranh bỏ dở.

Tôi nắm lấy bàn tay gầy guộc của Dã Thụy.

- Cứ coi như anh đã vẽ xong.

Đôi mắt Thụy sáng lên:

- Tôi cũng vừa định nói với Ngọc như thế. Phải, chúng mình cứ coi như bức tranh đã vẽ xong. Tôi đã vẽ Ngọc một lần rồi, nhớ không?

- Nhớ chứ.

- Lần đó, Ngọc ngồi làm mẫu cho tôi vẽ. Lần này, tôi vẽ bằng trí nhớ, bằng tưởng tượng. Ngọc có thấy một sự khác biệt nào?

Tôi gật:

- Bức tranh lần trước đẹp hơn. Nhưng bức tranh lần này thật hơn.

- Tôi cũng nghĩ vậy. Tặng Ngọc đó. Lát nữa, Ngọc có thể đem nó về quán Nhớ, treo ở chỗ Ngọc thích.

- Tấm tranh này sẽ treo ở chỗ anh thường tới ngồi.

Thụy mỉm cười:

- Một ý kiến hay. À, quán Nhớ hồi này ra sao?

- Bình thường vậy, chỉ thiếu anh thôi.

- Chuyện Khoa với Ngọc đi tới đâu rồi.

Tôi thở dài:

- Chưa tới đâu hết.

- Vậy mà có tin sắp cưới đồn ầm lên.

Tôi nhún vai:

- Bao giờ chẳng thế. Lời đồn bao giờ cũng đi trước sự thật.

Thụy bật lên một tiếng cười ngắn, nói tiếp.

- Chắc cũng đã có tin đồn về tôi. Chắc thiên hạ cũng đồn rằng tôi đã chết.

Tôi dịu dàng:

- Anh mong chết lắm sao?

Thụy gật:

- Trường hợp tôi, cái chết là một giải thoát nhẹ nhõm. Cho tôi. Cho tất cả mọi người.

Thụy chỉ tấm tranh:

- Vẽ cũng là một giải thoát. Nhưng sự giải thoát chỉ có lúc tôi ngồi trước giá vẽ. Một giải thoát chốc lát, không toàn vẹn.

Chúng tôi cùng im lặng. Cái nhìn của Thụy, thoát đắm lại trong mơ màng. Tôi biết trong đầu óc lâm chung của Dã Thụy, nhưng hình ảnh nào đang hiện lên, như những điểm lân tinh sáng lên từ một đáy biển tối thẳm, một lần cuối cùng. Đó là những ngọn đồi, những thung lũng, những cánh rừng thưa, những bóng cây, những bóng lá của những buổi trưa Thụy lang thang giữa tạo vật, với cái giá vẽ trên vai gầy và những hình thể, những màu sắc trong tâm hồn.

Tôi đã có mặt vài lần, những buổi trưa ấy. Cùng với Thụy. Giữa cái nắng đồi hoang vu. Trong thu núi thiêm thiếp. Chúng tôi yên lặng đi. Trên những con đường cỏ. Bên cạnh những giòng suối. Hoặc là ngồi nghỉ chân dưới một gốc cây, nhìn xuống Biển Hồ xanh biếc dưới thấp. Những buổi trưa ấy, tôi biết Dã thụy đã sung sướng. Đó là những buổi trưa hạnh phúc duy nhất của Thụy. Thụy tỏ tình. Cũng không hề đề cập tới tình yêu một lần nào. Tình yêu thăm thẳm, cao quý là thứ tình yêu không bao giờ tỏ lộ. Nhưng chỉ nhìn bức tranh Thụy vẽ tôi, ở đó toát ra một âu yếm khác thường không thấy ở tất cả những họa phẩm khác của Thụy, tôi biết thứ tình cảm nào. Thụy yêu tôi. Thầm lặng. Mãnh liệt. Một tình yêu bên trong, không một lần nói ra. Cho đi và không đòi nhận lại. Như thế, từ đầu. Như thế, mãi mãi. Tôi không xúc động, không chảy nước mắt sao được.

- Rồi Ngọc sẽ gặp gia đình tôi.

- Anh muốn báo tin cho gia đình ở Quy Nhơn không?

Thụy lắc đầu:

- Ý tôi muốn là Ngọc sẽ về Quy Nhơn. Đó là một trong mấy điều tôi ghi trong thư. Đó cũng là điều tôi nhờ cậy Ngọc.

Nói nhiều, Thụy đã mệt. Tôi mở nắp bình thủy, đổ nước nóng vào một cái khăn mặt, lau trán, lau cổ cho Thụy. Thụy đón nhận những cử chỉ săn sóc muộn màng của tôi, hai mắt nhắm nghiền lại. Tôi ôn tồn:

- Anh nằm xuống kẻo mệt.

Trên nền gối, nét mặt Thụy nhẹ nhõm, thư thái. Thụy đang đợi chờ cái chết tới. Đối diện với nó, không khiếp đảm, không chạy trốn. Căn phòng đột nhiên lặng như tờ. Tiếng gió ngớt. Sự yên lặng càng đầy càng lớn. Những cơn gió phút này đang tạm dừng chân ở những đáy lũng, nhưng lưng đồi. Tạm dừng chân thôi. Gió thổi suốt một mùa đông Pleiku. Lát nữa gió lại lên đường. Ném cái buốt lạnh vào những cuộc đời chông chênh bằng những ném tới bão táp. Và như thế cho tới sang năm, cho tới mùa xuân.

- Ngọc muốn nói chuyện gì với tôi không?

- Anh nên nằm nghỉ.

Thụy nhếch mép cười:

- Đừng lo cho tôi, cái chuyện nằm nghỉ. Chuyện đó sẽ tới. Bây giờ tôi muốn nghe chuyện Ngọc.

- Chuyện tôi với Khoa các anh biết cả rồi mà.

Thụy lắc đầu:

- Không phải chuyện đó.

Tôi ngạc nhiên:

- Còn chuyện gì khác nữa đâu.

- Có, Ngọc dấu. Tôi biết. Người sắp chết sáng suốt lắm. Nó biết được rất nhiều điều những người khác không biết được. Tôi biết Ngọc có chuyện riêng. Đời Ngọc có một người đàn ông khác. Người đó không phải là Khoa.

Tôi tròn mắt:

- Đúng. Nhưng sao anh biết?

Thụy không trả lời thẳng vào câu hỏi của tôi. Chỉ hỏi lại:

- Chuyện buồn lắm phải không?

Tôi gật, nghĩ đến cuộc tình khó hiểu, lạ lùng giữa tôi và Đạo:

- Buồn và không ra làm sao hết.

- Tôi đã gặp người đó lần nào chưa?

- Chưa.

- Sao vậy?

- Y ở xa. Không phải ở đây.

- Tôi cũng đoán thế. Không một người đàn ông nào ở Pleiku có thể làm Ngọc bận tâm như tôi đang nhìn thấy sự bận tâm đó trên nét mặt Ngọc. Phải là một người ở xa.

Tôi không muốn tỏ lộ chuyện tôi và Đạo với bất cứ một người nào. Đó là sự bí mật tuyệt đối của đời tôi, bao nhiêu lần tôi đã nhủ thầm với tôi vậy. Tại sao, phút này tôi lại muốn tâm sự, muốn tỏ lộ, muốn cái sự bí mật ấy không còn bí mật nữa? Không hiểu được. Chỉ biết tôi đã kể, kể chuyện riêng của mình, đột nhiên như thế, cho một người sắp chết nghe. Tôi ngồi thu chân lên giường. Tôi tỳ cằm vào đầu gối, và bằng một giọng đều đều, tôi kể lại từ đầu.

- Năm ngoái đó anh Thụy. Cũng vào dịp này. Mùa mưa rồi mùa đông. Những trận đánh khốc liệt diễn ra ở Khôngntum, trên ngọn đồi Chu Pao. Thị xã đầy đặc những đoàn người chạy loạn. Chuyến máy bay chở tôi và Huyền về Sàigòn. Tôi đã gặp người đàn ông trong chuyến bay đi lánh nạn ấy. Gặp y trước một quầy hàng khách sạn. Gặp lại y nữa, trên một hành lang khách sạn. Chuyện tưởng chốc lát thôi, vậy mà đã hơn một năm rồi, tôi vẫn không quên. Người đàn ông ấy hiện có mặt ở thị xã này. Tôi muốn lánh mặt y mà không được. Tôi nhủ thầm với tôi là phải chấm dứt, phải đoạn tuyệt, rồi tôi đã hành động ngược lại. Tôi biết tôi đang lao đầu xuống một vực thẳm không đáy. Vậy mà tôi cứ lao đầu xuống, không kìm giữ được..

Tôi ngừng kể. Suốt thời gian tôi nói, Thụy nằm yên lặng nghe, không tỏ một thái độ nào.

Tiếng máy xe ngừng ngoài cổng. Vận đã trở lại. Vận vào với một gói thuốc. Thấy Vận là thấy sự ồn ào. Bầu không khí riêng đây, thân mật giữa Dã Thụy và tôi đã bị phá vỡ. Vận đặt gói thuốc xuống mặt bàn, nói với Thụy.

- Thuốc lấy ở tiệm bào chế của ông Khoa về cho cậu đây. Phải chịu khó uống mới khỏi bệnh được.

Thụy đưa mắt nhìn gói thuốc như nhìn một thứ đồ vật xa lạ và kỳ quái. Với Dã Thụy là thế. Chỉ có chứng bệnh kéo dài tới trạng thái trầm trọng, vô phương cứu chữa chứ không có vấn đề chống bệnh, vấn đề thuốc thang. Thụy đau tim, đau phổi, thật nặng. Cả Pleiku đều biết. Thụy không chịu uống thuốc, không chịu đi nằm bệnh viện, điều này mọi người cũng đều rõ. Một vài hộp thuốc gởi tới muộn màng còn dùng để làm gì? Tuy vậy, tôi vẫn hỏi:

- Anh uống thuốc nhé?

Thụy nhìn tôi gật đầu. Chỉ là chiều ý nhau, một lần cuối cùng. Chờ cho Thụy uống thuốc xong, Vận hỏi tôi:

- Ngọc thấy thế nào?

Tôi nghiêm trang:

- Thụy không sao hết. Thôi, chúng mình về cho anh ấy nằm nghỉ.

Vận cười:

- Chớ không phải là nó sắp chết?

- Anh tưởng chết dễ dàng lắm sao?

Thụy hiểu ý nghĩa câu nói của tôi. Nhìn tôi Thụy gật:

- Phải. Chết không phải là một chuyện dễ dàng.

Tôi đặt tay lên tay Thụy:

- Chiều tôi sẽ đến thăm anh

Thụy xua tay:

- Để sáng mai đi.

Tôi ngạc nhiên:

- Anh không chịu gặp ai chiều nay?

- Không. Sáng mai. Cám ơn hai người đã tới thăm tôi.

Thụy không nhìn chúng tôi nữa. Mà nằm quay lưng trở lại xây mặt vào tường. Tôi đưa mắt nhìn Vận. Chúng tôi cùng yên lặng đi ra. Phòng ngoài không sáng được chút nào. Nó vẫn tối thẳm và ẩm thấp như lúc tôi đến. Cầm bức tranh trong tay, tôi đi qua những khung vải nằm lăn lóc và lãng quên ở những chân tường. Những bức tranh của Thụy cũng là hình ảnh con người và cuộc đời Thụy. Chúng thu hình trong một đời sống riêng, như những vật thể hèn mọn nhưng cực kỳ kiêu hãnh, bởi không có với chung quanh một điểm đồng nhất nào. Tôi chợt nhớ đến cuộc triễn lãm năm ngoái của Thụy. Nhớ và vừa muốn bật cười vừa muốn chảy nước mắt. Cuộc triển lãm ấy có là do tôi và Khoa. Mùa hè năm ngoái Thụy vẽ được thật nhiều tranh. Sáng nào cũng vác giá lên đồi, vào rừng, tới chiều tối mới về. Thời giờ và đời sống của Thụy suốt mấy tháng có nắng phần lớn dành cho hội họa, trước một giá vẽ trồng giữa thiên nhiên mênh mông. Thấy có số tranh Thụy vẽ được đã nhiều, tôi bàn với KHoa nên thúc đẩy Thụy bầy những bức tranh đó trong một cuộc triễn lãm. Khoa nói nên lắm và dục Thụy tính tới chuyện đó. Thoạt đầu, Thụy không chịu. Nói vẽ là vẽ chứ không phải để triển lãm. Nói bạn bè muốn xem tranh cứ việc đến xưởng họa tự nhiên, bất cứ lúc nào, không cần phải tới một phòng triển lãm để làm gì. Chúng tôi không chịu như vậy. Lý do thứ nhất tôi muốn người đời nhìn thấy cái tài năng đặc biệt của Thụy. Để Thụy thấy, qua sự thán phục của người khác, cuộc đời Thụy là một giá trị đích thực không nên xem thường, không nên hủy hoại. Lý do thứ hai, thực tế hơn: nhờ cuộc triển lãm, Thụy sẽ bán được một số tranh, có được một khoản tiền.

Thụy nghe chúng tôi thuyết phục, rồi cười:

- Không xong.

Tôi hỏi:

- Tại sao?

- Tôi lười lắm, chỉ biết vẽ, không làm được gì hêt, cũng không muốn làm gì hết.

Khoa:

- Bọn này làm hết cho cậu.

Thụy cười:

- Họa sĩ chỉ cần mang tranh tới?

- Cũng khỏi luôn. Đã nói là bọn này làm hết cho. Việc làm duy nhất của anh là thu tiền bán tranh.

Chúng tôi làm hết cho Dã Thụy thật. Tuần lễ trước ngày triển lãm là một tuần lễ thật bận rộn những cũng thật hào hứng. Số tranh định triển lãm là ba mươi bức. Thụy phải vẽ thêm ba bức mới cho đủ số. Trong khi Thụy vác giá vẽ vào rừng, lên đồi, chiếc xe jeep của Vận chạy đi chạy lại như con thoi từ xưởng họa đến một hội quán mà chúng tôi đã mượn. Chúng tôi gọi thợ mộc tới đóng khung, trang hoàng văn phòng hội quán, in thiệp mời và gởi thiệp tới tất cả những người giầu có ở Pleiku, những người mà chúng tôi tin sẽ mua được tranh cho Dã Thụy. Chúng tôi đặt tên cho từng bức tranh, bằng những tên thật thơ mộng và lãng mạn nhất. Một bức tranh mang tên quán Nhớ vẽ một góc quán với Thụy thường đến ngồi một mình. Thụy đòi trưng bày bức tranh vẽ chân dung tôi. Tranh được đặt tên là "Chủ quán". Gần tới ngày triển lãm, công việc còn bừa bộn. Chúng tôi phải thức mấy đêm để viết cho xong mấy tấm áp- Phích.

Tuần lễ đó, tôi đã nhìn thấy sự sung sướng của Dã Thụy. Chẳng phải vì tranh Thụy được triển lãm, mà vì Thụy được sống đắm mình hoàn toàn, trong một bầu không khí thân mật của bạn bè vây bọc. Rồi ngày triển lãm tới, cùng với những thất vọng đắng cay não nề. Buổi sáng khai mạc phòng tranh, trời đang nắng ráo đột nhiên mưa lớn. Trận mưa quái ác kéo dài tới trưa.

Giấy mời gởi đi mấy trăm chiếc nhưng quan khách chỉ tới dăm bảy người. Nhân vật cao cấp của Pleiku mà chúng tôi mời tới cắt băng khai mạc phòng tranh cũng vắng mặt. Ông ta cử tới một người phụ tá miễn cưỡng và quê mùa. Người phụ tá bỏ về năm phút sau, sau khi ông ta đi lướt qua mấy chục bức tranh và tuyên bố là ông ta không hiểu, không cảm thấy gì hết. Những ngày sau cũng không hơn gì. Phòng tranh chỉ có bọn chúng tôi thay nhau đến mở cửa, đóng cửa thay cho Dã Thụy. Khách đến xem tranh là mấy cậu học trò, và đám con nít. Không có ai hỏi mua một bức tranh nào.

Phòng tranh mở cửa trong bầu không khí hào hứng, đóng cửa trong bầu không khí não nề cay đắng. Chúng tôi không thấy sự thật, chỉ nhìn thấy ảo tưởng. Hội họa không có chỗ đứng trong tâm hồn người dân tỉnh nhỏ chỉ biết cần cù làm ăn hay mơ mộng vẩn vơ. Buổi chiều đóng cửa phòng tranh, chiếc xe jeep của Vận lại được đem tới. Để thực hịên một chuyên chở buồn bã. Những tấm tranh chan hòa màu sắc và đầy ắp rung động của Dã Thụy lại được đem trả về cái thế giới quên lãng âm thầm của chúng là căn lều hoang ở cuối vườn, trong những xó góc tối tăm.

Chúng tôi chung tiền nhau đãi Thụy một bữa. Ai cũng sợ Thụy buồn. Nhưng không. Trong bọn chúng tôi Thụy lại là người thản nhiên nhất. Chừng như sự cụt hứng của chúng tôi là một điều hết sức thích thú với Thụy. Bữa ăn thân mật được tổ chức ở một nhà hàng mới mở. Tiệm có một khoảng sân rộng, với những bàn ăn kê dưới những bóng lá. Phòng ăn bên trong trang hoàng mỹ thuật. Chủ nhân là một thợ săn danh tiếng ở Pleiku. Mấy vì tường của phòng ăn treo đầy những tấm hình chụp những cảnh săn đêm giữa rừng sương mịt mùng và những con thú lớn mà chủ nhân đã hạ được.

Tôi còn nhớ mãi cái cảnh tượng nửa vui, nửa buồn, nửa ồn ào, nửa quạnh hiu, của bữa ăn đó. Bàn kê thành một hàng dài. Khăn bàn đỏ chói. Chủ nhân đích thân đứng hầu tiếp. Tôi ngồi giữa cạnh Khoa. Đối diện với tôi là Dã Thụy. Trên bàn là một vò rượu cần với cái ống hút cong vút. Bữa ăn bắt đầu bằng món chim mía là món ăn đặc biệt của tiệm. Theo chủ nhân, chim mía là món ăn đặc biệt nhất của Pleiku. Du khách từ Sàigòn, Quy Nhơn lên, đều trầm trồ tấm tắc khi được thưởng thức món chim mía, mà những vùng khác không có hoặc có, cũng không thể ngon bằng chim mía Pleiku - Chủ nhân thuyết trình.

- Các anh chị là người Pleiku nhưng không phải muốn ăn chim mía lúc nào cũng có. Chim mía nhỏ, nhỏ hơn chim sẻ. Thịt mía thơm, và ngọt hơn thịt chim sẻ. Chim mía chỉ có vào mùa lúa chín. Khi ở những thung lũng Pleiku, lúa chín vàng từng giải thì cũng là lúc chim mía xuất hiện từng đàn. Chúng bay bay là là trên những ngọn lúa mẩy hạt. Người ta chăng lưới để bắt chim mía khi chúng sà xuống, nhặt những hạt thóc rơi rụng. Chim mía chỉ ăn thóc. Cho nên thịt mía mềm và ngọt là vì thế. Món chim mía hiếm quý bởi mía chỉ xuất hiện một thời kỳ. Mùa gặt qua, thung lũng không còn những bông lúa chín, chim mía bay đến những thung lũng, những vùng trời khác. Bữa ăn hôm nay để thết ai đây?

Tôi trả lời thay cho mọi người:

- Để đánh dấu ngày đóng cửa phòng tranh của anh bạn chúng tôi là họa sĩ Dã Thụy.

Chủ nhân tới bắt tay Dã Thụy.

- Kết quả khả quan không?

Thụy cười, khôi hài:

- Ngoài sự mong ước của mọi người.

Chủ nhân ngẩn người:

- Thế là thế nào?

Nhạc đập bàn, nói lớn:

- Thế là không bán được một bức tranh nào hết. Ông chủ nhà hàng này hỏi lẩm cẩm quá. Còn thứ rượu nào nặng hơn rượu cần, đưa ra đây. Chúng tôi đang cần say đây.

Chủ nhân không giận mà phá lên cười. Ông ta thật đơn giản, hồn nhiên, sự đơn giản và hồn nhiên của một người có một đời sống khoan thai và lành mạnh. Ông ta chỉ vò rượu cần, hỏi Nhạc:

- Rượu cần không đủ say?

Nhạc nhổm người vít cái ống hút, hút một hơi rượu, nhăn mặt:

- Nhạt như nước ốc, say thế quỷ nào được.

Chủ nhân xoa tay:

- Đừng tưởng. Rượu cần uống nhiều cũng say lắm đó. Say lúc nào không biết. Nhưng được rồi, thưởng thức món chim mía của nhà hàng đi, rồi muốn rượu khác sẽ có ngay.

Ông ta vỗ vai Dã Thụy:

- Tôi có được nghe nói đến phòng tranh của ông. Rất tiếc vì bận, không tới xem tranh được. Không có ai mua sao? Muốn triển lãm, ông phải đưa tranh ông xuống Sàigòn. Để tôi mở hàng một bức.

Chỉ một khoảng trống trên vì tường sau lưng tôi, chủ nhân nói tiếp:

- Tôi sẽ treo bức tranh ông ở chỗ kia.

Rồi cao hứng:

- Bữa ăn hôm nay là nhà hàng mời. Khỏi tính tiền.

Chủ nhân cười bỏ vào nhà trong. Bữa ăn kéo dài tới khuya. Mọi người uống hết vò rượu cần, uống sang nhiều thứ rựơu khác. Tôi chưa uống rượu bao giờ, cũng uống một ly, cũng hút một ngụm rượu cần. Bữa ăn càng về khuya càng ồn ào. Thật ít khi chúng tôi có dịp họp mặt đông đủ, một cách buông thả và ồn ào như thế. Thụy uống thật nhiều, thật hào hứng. Vui miệng, Thụy kể cho cả bọn nghe về những ngày đi vẽ của anh. Trên những ngọn đồi, trong những cánh rừng. Những ngày đó, Thụy thường tìm nghỉ trưa trong một bản nhỏ nơi lưng chừng một ngọn đồi hay cuối đáy một thung lũng. Ăn cơm nắm. Ngủ trên một nhà sàn. Thức dậy, xuống suối rửa mặt rồi lại vác giá vẽ vào rừng.

Thụy kể rằng một chiều mưa đột ngột. Thụy không về thị xã được phải ngủ nhờ ở nhà một tù trưởng người Thượng. Ông tù trưởng già thân hình đen bóng, đêm núi lạnh buốt mà chỉ đóng một cái khố. Người Thượng rất hiếu khách. Người tù trưởng sai vợ con giết gà thiết Thụy. Bữa ăn giữa nhà sàn, giữa bập bùng ánh lửa. Đứa con gái lớn của người tù trưởng rất xinh đẹp, tự nhiên. Hai người không nói chuyện được với nhau vì ngôn ngữ bất đồng. Nhưng người con gái ngồi cạnh Thụy, luôn luôn mỉm cười. Đêm đó, Thụy và người tù trưởng uống hết một vò rượu cần. Thụy say không còn biết trời đất là gì. Ngủ gục ngay ở chỗ uống rượu một giấc tới sáng.

Thụy kể chuyện thật linh động. Như vẽ cho chúng tôi thấy cái cảnh tượng trước mắt. Tôi hỏi đùa.

- Đêm đó anh với cô gái Thượng không có chuyện gì sao?

Thụy cười:

- Chắc là không. Hoặc có cũng chẳng nhớ được. Chỉ biết tôi đã ở lại nhà người tù trưởng tới gần trưa hôm sau.

Tôi hỏi:

- Buổi sáng thức dậy anh thấy những gì?

- Thấy mình vẫn nằm ở chỗ cũ, với một tấm khăn sặc sỡ phủ lên người.

Khoa vỗ tay:

- Cô gái Thượng đắp chăn cho cậu đó.

Thụy gật:

- Chắc thế. Mặt trời lúc đó vừa mọc. Từ trong nhà sàn nhìn ra, rừng ban mai đẹp huyền ảo. Cây cỏ còn mờ hơi sương. Lửa đã tắt. Vò rượu đã cạn. Người tù trưởng đã đi làm rẫy từ sớm. Tôi lấy khăn xuống suối rửa mặt. Người con gái Thượng đã xuống suối trước tôi. Cô ta đang lấy nước và vẫn mỉm cười thật tươi như đêm hôm trước.

Thập hỏi:

- Hai người nói chuyện với nhau không?

Thụy cười:

- Có. Mình tôi nói thì đúng hơn?

Cả bọn nhao nhao:

- Nói những gì?

- Nói đêm qua tôi say rượu quá, tôi xin lỗi.

- Phản ứng của cô gái Thượng thế nào?

Thụy nhún vai:

- Cô ta chẳng hiểu gì. Chỉ gật đầu. Chỉ cười.

Tôi hỏi Thụy:

- Nói gì khác nữa?

- Nói, tôi xin từ biệt. Nói tôi yêu cái bản nhỏ, con suối, cánh rừng và tôi sẽ trở lại.

- Anh có trở lại như anh nói không?

Nét mặt Thụy đang vui chợt buồn hẳn lại. Thụy gật đầu, ánh mắt mơ màng:

- Sau đó mùa mưa đã tới thành ra mấy tháng sau tôi mới trở lại. Người tù trưởng đã đem gia đình đi nơi khác, đến một cánh rừng khác.

- Và anh không bao giờ gặp lại cô gái Thượng?

- Không. không bao giờ nữa.

Thụy ngừng kể. Nét mặt bất chợt xa hút trong một hồi tưởng lưu luyến. Cả bọn nhao nhao hỏi mấy bức tranh vẽ người con gái Thượng có phải là vẽ người Thụy đã gặp hay không. Thụy gật. Tôi rất yêu mấy bức tranh ấy. Chính tôi đặt tên cho chúng. Bức vẽ người con gái Thượng xõa tóc bên bờ suối, tôi đặt tên là Suối Tóc. Bức vẽ nàng ngồi trên nhà sàn, với ánh lửa bập bùng vờn múa trên khuôn mặt huyền bí được đặt tên là Đêm Hoang Đường. Thụy tỏ ý thích mấy tên đặt. Nói tôi có tâm hồn thi sĩ. Tôi nghĩ đáng lẽ Thụy còn phải vẽ thêm nhiều bức tranh khác về cái bản nhỏ heo hút và người con gái Thượng tươi cười kia. Vẽ cảnh Thụy trở lại bản. Đứng lặng trước cái nhà sàn bỏ trống, vẽ cảnh suối, cảnh rừng. Nơi Thụy đã tìm thấy cho Thụy thứ hạnh phúc chốc lát, là cái hình ảnh một ngày nắng đẹp của Pleiku giữa trăm ngày mưa rơi. Thụy, qua cái nhìn của tôi, cũng là một người Thượng. Một người Thượng sống cách biệt, xa lánh trong một thung lũng riêng của mình. Giữa một vùng cỏ cây hoang vu ngút ngàn vây bọc.

Cánh cửa gỗ khép lại sau lưng. Bầu không khí tối tăm tù hãm đã trở lại. Tôi thở ra một hơi dài. Chúng tôi bước chậm chạp, đầu cúi xuống. Thụy đang chờ chết, cái chết đến chắc chắn, từ từ. Chúng tôi nhìn thấy nó đến và không làm được gì cho Thụy hết. Tất cả đều đã muộn. Ra tới cổng, Vận và tôi cùng đứng lại, tần ngần. Buổi trưa Pleiku xám ngắt. Trần mây thấp. Thêm một ngày Pleiku không có mặt trời. Gió thổi mạnh. Một mùa đông Pleiku đã thực sự bắt đầu.

Vận quay nhìn lại túp lều gỗ. Căn lều như một nấm mộ, một lòng huyệt. Vận chép miệng:

- Mong nó qua khỏi được mùa đông này.

Tôi lắc đầu:

- Khó lắm. Mùa đông còn dài. Mùa đông chỉ mới bắt đầu.

- Ngọc nghĩ nó còn sống được bao lâu nữa?

- Một vài ngày. Một vài tuần. Nhưng không hết được mùa đông này đâu.

- Tôi cũng nghĩ vậy.

- Chẳng lẽ cứ để mặc cho anh ấy chết sao?

- Mình phải làm gì?

- Anh gặp các anh ấy xem sao?

Vận gật đầu:

- Cũng là một ý kiến hay. Để tôi phóng xe đi liên lạc. Phải có một cuộc họp. Ngày mai mọi người gặp nhau ở quán Nhớ được không?

- Được chứ.

- Bây giờ tôi đưa Ngọc về.

Tôi xua tay:

- Anh tìm gặp các anh ấy đi. Tôi về một mình cũng được. Tôi muốn đi bộ một chút.

Đường từ nhà Thụy về quán Nhớ khá xa. Tôi cài hết hàng khuy nơi chiếc áo len, bước những bước đều đều bên bờ cỏ. Gió thổi ngược lại từ đầu phố. Đi được một quãng, tôi chợt nhớ tới lá thư của Thụy. Tôi mở sắc tya, lấy bì thư ra. Chúc thư của người sắp chết đây. Câu nói của Thụy nửa bi thảm, nửa riễu cợt, lúc trao lá thư vang lên trong đầu. Tôi vừa đi, vừa chăm chú đọc.

Ngọc thân,

Tới đêm nay, điều tôi biết được, rất chắc chắn cho mình là tôi chẳng còn sống được bao lâu nữa. Cuộc sống của tôi chỉ còn là một vấn đề ngày giờ. Tôi có thể chết bất cứ lúc nào. Đêm nay hay sáng mai. Cho nên lá thư chưa định viết cho Ngọc, đêm nay phải viết. Viết cho NGọc, đó là việc cuối cùng tôi muốn làm trước khi từ giã cuộc đời này. Chắc Ngọc đang đặt câu hỏi: Tại sao tôi không viết cho một bạn thân khác. Như Khoa hay Nhạc. Câu trả lời đơn giản là Ngọc thân thiết nhất trong số những người thân của tôi. Lúc này hình ảnh Ngọc sáng tỏ hơn bao giờ, trong khi mọi hình ảnh khác đều xa xôi, mờ nhạt. Ngoài tình thân, tôi còn muốn nghĩ Ngọc là người duy nhất hiểu tôi, mặc dầu vấn đề này hơn một lần được nói đến, được đặt ra giữa chúng ta.

Ngọc à, thế là cuối cùng tôi đã không trở về Quy Nhơn với gia đình tôi được. Tôi sẽ chết ở đây, ở Pleiku.

Từ ngày biết tôi đau, đã nhiều lần Ngọc thúc dục tôi trở về với gia đình. Tôi biết sự trở về đó là phải. Quy Nhơn ấm áp hơn Pleiku nhiều lắm. Không khí nóng của miền biển thích hợp với tôi hơn là thứ không khí lạnh của núi rừng ở Pleiku.

Về Quy Nhơn, tôi có nhiều hy vọng khỏi bệnh hay ít nhất căn bệnh cũng không đến nỗi trầm trọng như ở trên này. Về Quy Nhơn sống, không chừng tôi tìm lại được cho tôi một nếp sống bình yên. Mà dẫu có về Quy Nhơn để chết, chết ở Quy Nhơn vẫn hơn. Ít nhất, cái chết của tôi sẽ không làm phiền bạn bè và Ngọc.

Cái hơn, cái thiệt, cái nên và cái không nên ấy, tôi biết. Quy Nhơn cũng chẳng xa xôi gì. Chỉ cần lấy một cái vé xe, bước lên một chuyến xe đò, xe đổ đèo An Khê là tôi đã trở lại với vùng trời sinh trưởng. Vậy mà lời khuyên của Ngọc tôi đã không nghe, chỉ vì trong thâm tâm, ngay tự lúc đầu, tôi đã lựa chọn Pleiku để chết.

Nhớ năm đó là vào khoảng tháng chín. Thời tiết vào thu, tôi vừa hai mươi tuổi. Chiều chiều tôi ra bãi biển Quy Nhơn, đi dạo một mình. Tôi nhìn những dấu chân tôi in trên bãi cát. Nhìn triều lên, nhìn thuyền về. Nghe sóng đập. Cảm thấy mình ở trong tâm hồn mình, một thay đổi hết sức lớn lao. Tôi không quy định được rõ rệt sự thay đổi ấy như thế nào, chỉ biết rằng tôi không sống được với Quy Nhơn nữa. Sự thúc đẩy hàm hồ mà cực kỳ mãnh liệt.

Cho đến một buổi sáng kia, tôi bỏ nhà, bỏ Quy Nhơn lên đường. Chuyến đi không có một chủ đích nào. Cuộc hành trình lang thang vô định. Tôi có một người bạn dạy học ở Tuy Hòa. Tôi đến Tuy Hòa trước nhất. Người bạn không còn dạy ở đó, lớp học của anh ta đóng cửa, người ta cho tôi biết anh ta đã nhập ngũ. Tôi ở lại Tuy Hòa hai ngày. Lại như ở Quy Nhơn, đi lang thang có một buổi chiều ngoài bãi vắng. Ban đêm, tôi về một căn phòng khách sạn tồi tàn, nằm thao thức, cố tìm kiếm một gắn bó tối thiểu với nơi chốn, với sự thể chung quanh. Nhưng tôi không thấy được gì hết. Tuy Hòa như Quy Nhơn không giữ tôi ở lại. Mà Tuy Hòa như Quy Nhơn, đẩy tôi lên đường. Mấy ngày sau tôi ở Nha Trang. Ở Phan Rang, ở Phan Thiết. Cuối tuần tôi vào tới Sàigòn. Tôi đi thật nhiều trong mấy tuần lễ, di chuyển gần như không ngừng, không nghỉ ấy. Tôi sống, với những chuyến xe đò. Tôi sống với những căn phòng khách sạn. Với những giòng sông đi qua, với những cây cầu bỏ lại.

Sàigòn giữ tôi ở lại lâu hơn giữa cái biển người và biển tiếng động của nó. Nhưng lâu hơn cũng chỉ một tuần. Tôi lại đi nữa. Lên những chuyến xe đò khác. Qua những cây cầu, những giòng sông mới. Chuyến đi đưa tôi về mấy tỉnh miền tây.

Tôi đã ngồi trên bờ sông Mỹ Tho, một đêm sao sáng rực trời. Đã đến Long Xuyên giữa một chiều nhạt nắng. Đã đến bắc Vàm Cống giữa một trận mưa rào đột ngột. Đã ngồi thuyền đi trên giòng Cửu Long, giờ nước triều lên. Miền Tây mênh mông. Những kinh rạch, những sông ngòi chằng chịt. Những đồng lúa, những thửa vườn bát ngát. Trời miền Tây cao vút. Nắng miền Tây chan hòa. Tôi đã đặt giá vẽ ở nhiều nơi. Dưới bóng mát một rừng dừa. Trên trống trải một đầu cồn. Tôi đã vẽ nắng, vẽ trời, vẽ lúa, vẽ sông, vẽ người miền Tây. Tất cả, trong những bức tranh mang những mầu sắc của miền Tây là những mầu sắc tươi vui và rực rỡ nhất.

Nhưng điều kỳ lạ, như ở Sàigòn, như ở Quy Nhơn, Phan Thiết, cái lòng mến yêu gắn bó với một nơi chốn, tôi vẫn chưa tìm kiếm thấy. Nơi chốn nào cũng chỉ là một địa chỉ đi qua, không là một địa chỉ muốn dừng chân. Hóa nên, tôi lại đi mà không ở lại. Bấy nhiêu nơi chốn chỉ là bấy nhiêu căn phòng khách sạn, trống lạnh. Rửng rưng. Ở lại một đêm, một ngày, rồi bỏ đi, thản nhiên, không lưu luyến. Tôi vẽ, cũng chỉ là gắng gượng vẽ. Để lấp đầy những khoảng trống. Hơn là để thực hịên một thích thú say đắm.

Sau hơn hai tháng trời lang thang, tôi chán nản trở về Sàigòn. Đã nghĩ là phải trở lại Quy Nhơn, vì chuyến đi không đem lại được cho mình một đổi thay nào hết. Buổi tối trước ngày tôi định trở về Quy Nhơn, còn bao nhiêu tiền, tôi đem tiêu hết trong những quán rượu. Chính là ở một trong những quán rượu này mà tôi gặp Quân. Khỏi phải nói nhiều đến Quân với Ngọc. Người bạn ấy của chúng mình đã chết. Tôi quen Quân đêm đó. Hai thằng cùng say lúy túy.

Quân nói Quân ở Pleiku. Tôi hỏi:

- Pleiku như thế nào?

Quân:

- Chưa lên Pleiku bao giờ?

Tôi lắc đầu:

- Pleiku gần quê tôi. Tôi người Quy Nhơn. Điều lạ lùng là tôi chưa từng một lần vượt đèo An Khê. Thành ra chẳng biết Pleiku của anh tròn méo như thế nào hết.

Quân nói trong cơn say:

- Thì lên cho biết.

Tôi trả lời, cũng trong cơn say:

- Lên thì lên. Nhưng Pleiku có gì đáng biết, anh chưa trả lời tôi.

Quân vung tay:

- Có phố thấp, phố cao. Có những con phố tình thân. Có mưa và sương mù quanh năm. Có cả những người con gái má đỏ môi hồng.

- Tại sao gái Pleiku má đỏ môi hồng?

- Tại vì họ đẹp nhưng chẳng biết đẹp để làm gì?

Tôi gặng:

- Những người con gái buồn của một thị xã buồn?

- Đúng vậy. Buồn thì Pleiku không thua một nơi nào hết.

Tôi nghe Quân, mở ví kiểm lại số tiền không đủ mua một cái vé máy bay. Quân nói Quân vừa được bạc, có thể trả cho tôi một cái vé máy bay nếu tôi muốn lên chơi Pleiku một lần cho biết. Đêm đó, tôi theo Quân về khách sạn Quân ở. Trưa hôm sau một chiếc DC3 chở tôi lên Pleiku. Và sự mầu nhiệm đã xẩy ra.

Ngọc biết sự mầu nhịêm ấy xẩy ra như thế nào không? Nó xẩy ra ngay từ phút đầu tiên, khi phi cơ bay vào không phận Pleiku. Nó xẩy ra ngay từ chạm đụng thứ nhất, khi tôi đặt chân xuống phi trường Cù Hanh. Hôm đó là một buổi sáng mưa phùn. Trời lạnh. Phi trường trống trải. Con đường vào thành phố ướt loáng. Tôi ngồi trên xe, bên cạnh Quân và cái ý nghĩ đầu tiên của tôi là nơi chốn tìm kiếm suốt mấy tháng trời, tôi đã gặp, tôi đã đến Pleiku và tôi sẽ ở lại Pleiku.

Những chuyện xẩy ra về sau, Ngọc đã biết, tôi khỏi phải kể lại ở lá thư này. Tôi ở một túp lều hoang. Tôi sống điêu đứng thiếu thốn. Khí hậu và thời tiết Pleiku quá lạnh cho lồng ngực tôi. Bệnh phổi tái phát dữ dội. Trên một ý nghĩa nào Pleiku đẩy mạnh tôi vào cõi chết. Nhưng trên một ý nghĩa khác, nơi chốn này là tình nhân một đời. Chắc Ngọc sẽ hỏi tôi, Pleiku có gì gắn bó, thương yêu như vậy? Thú thật với Ngọc tôi không trả lời được Ngọc một cách rõ rệt. Chỉ biết là tôi yêu, tôi gắn bó, tôi ở lại, tôi lựa chọn Pleiku để sống phần đời cuối cùng, tôi ưng thuận Pleiku như nơi chốn đã nhìn thấy tôi đau, sẽ nhìn thấy tôi chết.

Gọi tình yêu này là một cảm thông đặc biệt của một nơi chốn với người. Cũng được. Gọi đó là một cơ duyên giữa người và nơi chốn. Cũng được. Thế nào cũng được. Sự phân tích không quan trọng. Tình yêu không giải thích, không tìm hiểu được. Ta yêu, ta gắn bó, ta sống chết, thế thôi vô điều kiện.

Ngọc thân, bây giờ thì Ngọc đã hiểu, một phần nào tại sao tôi không nghe lời Ngọc, không trở về Quy Nhơn. Nói đến tình yêu của tôi với cái thị xã khuất lánh này, nói nghìn trang thư không hết. Tôi yêu từ ngọn cỏ đường yêu đi. Yêu trận mưa phùn, yêu khúc phố cao, yêu lòng phố thấp. Nói tóm lại ở đây, tôi đã được sống đời tôi, thế nào cũng không ân hận.

Điều ân hận duy nhất, cái chết của tôi chắc chắn làm phiền mọi người. Và chắc chắn hơn cả là nó sẽ làm phiền Ngọc. Thôi thì làm cái việc đó cho một người bạn. Hãy chôn tôi, đơn giản, như một con vật. Dưới chân một ngọn đồi. Trong một bãi cỏ hoang. Đâu cũng được. Miễn là trên một thuở đất Pleiku, quê hương tình cờ của tôi.

Về những bức họa, tùy Ngọc xử dụng. Thích bức nào, đem về treo ở quán Nhớ. Còn thì đốt đi, hay triển lãm. Tùy Ngọc. Nhưng đừng triển lãm. Sẽ như lần trước, không ai mua tranh Dã Thụy đâu.

Riêng với Ngọc, tôi chỉ ao ước một điều. Đừng quên tôi. Vĩnh biệt.

Dã Thụy"

Lá thư của Thụy không làm tôi ngạc nhiên vì Thụy đã nói. Rằng đó là chúc thư của người sắp chết. Nhưng những lời lẽ trong thư vẫn làm trái tim tôi nhói buốt. Vì xúc động. Vì đau đớn. Cùng với những ý tưởng u uất làm tối đen đầu óc, tôi cảm thấy tay chân rời rã, cơ hồ không bước tiếp được nữa. Nhìn sang bên cạnh, cách con đường chừng hơn trăm thước là một quả đồi nhỏ.

Tôi đi xuống cái lối đi chìm khuất dưới cỏ cao um tùm. Ngọn đồi mang một hình dáng quen thuộc, đã nhìn thấy đâu đó. Vừa đi vừa vận dụng trí nhớ, mới chợt nhớ ra là ngọn đồi tôi đang đi tới đã được Dã Thụy ghi vào một bức tranh. Thụy đã đến ngọn đồi, đã đi trên lối mòn tôi đang đi. Nhưng trưa nay chỉ còn mình tôi. Tất cả những nơi chốn cũ. Dã Thụy đều không bao giờ trở lại với chúng được nữa.

Nhìn từ xa, thấy ngọn đồi lùn thấp. Tới gần, mới thấy nó khá cao. Tôi đi qua những mô đá, những phiến đất đỏ khé, cố gắng leo tới đỉnh đồi. Tới rồi. Tôi dừng bước, thở dốc một hồi và quay nhìn trở lại.

Pleiku thấp hẳn xuống, phơi bầy toàn vẹn trước mắt tôi. Những mái nhà tôn nằm dưới những bóng cây. Những con đường lúc mất lúc hiện. Phía kia, một tháp nhà thờ in hình lên trời. Phía này, những thung lũng và những ngôi nhà cao thấp không đều như chồng chất lên nhau.

Anh Dã Thụy, Pleiku mà anh yêu mến, Pleiku nơi anh đã dừng gót chân lữ thứ và chết trong lòng đất của nó, tôi đang nhìn hộ anh đây. Nhìn tất cả hộ anh trong một lần. Những danh lam thắng cảnh ở xa. Chính nó, thị xã chẳng có một vẻ đẹp nào hết. Tỉnh nhỏ này tiều tụy hơn là lộng lẫy. Buồn bã hơn là tươi sáng. Xấu hơn là đẹp. Tại sao anh yêu? Tại sao anh gắn bó? Tôi đặt câu hỏi với anh. cho cả tôi. Có lẽ chúng ta vẫn chỉ trả lời được rằng, chúng ta yêu, thế thôi, và tình yêu đích thực là tình yêu không bao giờ giải thích được.

Đứng trên ngọn đồi nhìn Pleiku dưới thấp, nghĩ đến Thụy nằm cô đơn trong túp lều tối thẳm, tôi chợt nhớ đến Đạo. Đạo với tôi, cũng như Pleiku với Thụy. Yêu. Gắn bó. Chẳng hiểu sao. Không giải thích được. Thì ra mình và Thụy có điểm giống nhau, tôi nhủ thầm. Cả hai chúng tôi đều yêu cái bất thường, biết thế là không nên, nhưng không tài nào làm khác được.

Mấy hôm nay, tôi không nhìn thấy Đạo. Không gặp cũng không đến khách sạn. Quên được Đạo cũng không đúng. Nhớ cũng không đúng nốt. Tâm trạng mơ hồ không biết nói thế nào cho phải. Đạo vĩnh viễn là một sự khó hiểu của tôi. Kể cả những lúc tôi nằm bên cạnh chàng.

Đêm, Đạo không ngủ. Rất thỉnh thoảng chàng có những khoảng khắc rũ rượi vì mệt nhọc. Những lúc đó chàng ngủ mê mệt bỏ cả bữa ăn không phân định được ngày đêm. Nhưng thường thì, chàng tỉnh táo, một thứ im lặng trong suốt như thủy tinh. Hai tuần lễ ở một khách sạn Sàigòn, tôi đã sống với Đạo những giờ phút không thể thân mật hơn giữa một người đàn ông và một người đàn bà, nhưng đồng thời, cũng sống với chàng những giờ phút không thể cách biệt hơn giữa một người đàn ông và một người đàn bà.

Không hiểu bị thúc đẩy bởi sự tò mò, tôi thường đòi chàng nói về chàng, nói về con người chàng, về cuộc đời chàng.

Đạo cười, trong trường hợp này:

- Em muốn biết về anh như thế nào?

- Con người anh.

- Tầm thường. Thấp kém. Như mọi người, không có gì đáng nói.

- Thì đời sống anh vậy.

- Đầy những cái xấu.

- Chẳng hạn như?

- Chẳng hạn như năm ngoái anh làm bậy, phải ra khỏi Sàigòn sáu tháng.

- Ra khỏi là anh đi đâu?

Đạo thản nhiên:

- Đi tù.

- Anh đừng nói đùa.

- Anh nói thật. Năm ngoái, anh phải ở trong khám Chí Hòa sáu tháng.

Rồi Đạo kể. Về sáu tháng ở tù. Về phiên tòa. Về khoảng thời gian ở Chí Hòa. Người ta đến bắt Đạo vào khoảng nửa đêm lúc chàng đang ôm một người con gái bán vui trong tay. Đang ngủ say, tiếng đập cửa mạnh mẽ làm Đạo thức dậy. Đứa con gái bán vui thức dậy theo. Nó hoảng hốt: "Có chuyện gì thế anh? " Đạo trả lời: "Anh bị bắt. Em mặc quần áo vào. Sau khi anh đi, em lấy xe về, đừng ở đây". Đứa con gái bán vui tưởng Đạo nói đùa.

Nó thất sắc, mặt không còn hột máu, khi Đạo mở cửa cho mấy người cảnh sát ùa vào. Đạo không kháng cự, cũng không chạy trốn. Chàng yêu cầu mấy người cảnh sát đừng bắt người con gái, đoạn chàng mặc quần áo và lẳng lặng đi ra. Tới quận, chàng nhận hết tội lỗi và bị tống giam liền sau đó.

Đạo cười:

- Điều làm anh bất ngờ nhất là chỉ bị tù sáu tháng.

- Anh nghĩ anh bị tù bao lâu?

- Ít nhất ba năm.

Tôi vừa buồn cười vừa bực mình:

- Tại sao lại chỉ sáu tháng?

- Khi bị tống giam và bị kết án rồi, anh mới hiểu tại sao. Có một người bạn đã lo liệu cho anh. Một luật sư. Anh ta tìm đến gia đình bên nguyên, điều đình gia đình đó không kiện anh, nghĩa là xin miễn tố. Tòa vẫn xử như thường. Nhưng bên nguyên xin miễn tố, thành ra chỉ bị tù sáu tháng.

Tôi hỏi:

- Anh bị tù về tội gì?

- Lừa đảo.

Tôi nhăn mặt:

- Anh có thấy như thế là xấu không?

Đạo gật:

- Sao không thấy.

Tôi nghiêm mặt:

- Thấy xấu mà anh vẫn làm.

- Đúng vậy. Thấy xấu mà vẫn làm.

Chuyện đi tù, chuyện làm bậy, đối với Đạo chỉ là một khía cạnh trong rất nhiều khía cạnh thuộc đời sống của chàng. Chàng nhắc lại vụ lừa đảo bằng một giọng không khoe khoang. Cũng không mảy may ân hận. Thành ra, tôi muốn tìm hiểu Đạo, lại càng chỉ thấy chàng khó hiểu hơn.

Với Đạo giữa cái xấu và cái tốt không có ranh giới phân định rõ rệt. Với Đạo, không có những ngõ hẻm tối tăm hay những con đường sáng láng, chỉ có những con đường. Đêm và ngày ở Đạo trộn lẫn, đỉnh cao và vực thẳm cùng một bình diện. Và Đạo sống cho Đạo thế nào thì cũng nhìn người khác sống như thế.

Đêm thất thân với Đạo, sau những phút giây buông thả điên cuồng, tôi nằm lịm đi rồi bật khóc. Đạo thản nhiên châm thuốc lá hút, thản nhiên nằm nhìn tôi khóc. Tôi đợi chờ một câu an ủi, một lời dỗ ngọt. Nhưng Đạo không nói một lời. Chỉ thả khói thuốc xanh um lên trần nhà. Cụt hứng, tôi nín khóc. Không được dỗ dành, tôi tức giận. Tôi hậm hực:

- Em khổ sở, anh không nói được một lời nào hay sao?

Đạo quay sang:

- Anh chỉ đang ngạc nhiên.

- Ngạc nhiên?

Đạo gật, giọng nói tỉnh táo như không?

- Phải. Tại sao em khóc?

Tôi đáp, rất tiểu thuyết và cũng rất thành thực:

- Vì em vừa phá hủy đời em. Bây giờ có hối cũng không kịp nữa.

- Anh không nhìn thấy cho đời em sự phá hủy đó.

Tôi vùng nói lớn:

- Thế nào nữa mới là phá hủy? Em còn mặt mũi nào nhìn thấy người đàn ông sắp cưới. Anh quyến rũ em, đẩy em tới chuyện tồi bại rồi anh thản nhiên, anh bình tĩnh như không.

Đạo nghiêm giọng:

- Cả hai điều đều sai. Anh không làm chuyện tồi bại. Đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai, anh không hề quyến rũ em. Chỉ là em muốn.

Tôi nghe mà ngẩn người. Cũng phải công nhận rằng Đạo không quyến rũ. Mà là tôi muốn thật. Đêm hôm đó, tôi đã vào phòng Đạo Vì muốn nếm mùi đam mê đến giọt mật cuối cùng. Vì muốn trở thành đàn bà. Đạo chỉ nói một sự thật. Nhưng cái lối nói ra một sự thật ở Đạo là thế. Lạnh lùng, thản nhiên và tàn nhẫn đến tận cùng.

Đáng lẽ tôi phải đi xa. Xa lánh Đạo như xa lánh một tai họa cực kỳ ghê gớm. Nhưng tôi đã nằm yên. Cuối cùng tôi bật cười thành tiếng. Cảnh tượng thật ngộ nghĩnh. Tôi vừa khóc rồi tôi đã bật cười. Đạo cất tiếng cười theo. lúc đó, chàng mới ôm lấy tôi:

- Thế có hơn không?

Đặt mái tóc vào vai Đạo, tôi hỏi:

- Em không đáng chê trách thật sao?

Đạo hỏi lại:

- Vừa có tội vừa làm bậy. Một tội lỗi tầy đình không thể tha thứ. Một sự tầm bậy phải trừng phạt đích đáng.

Đạo chỉ khung cửa sổ mở rộng:

- Cửa sổ kia, em chỉ nhẩy xuống dưới đường. Em sẽ chết không kịp kêu một tiếng. Tội lỗi tầy đình không thể tha thứ sẽ được trừng phạt đích đáng.

Câu nói nào của Đạo cũng như một gáo nước lạnh tạt thẳng vào mặt. Tôi tức lắm nhưng đành nằm im. Đêm đó, như một ngoại lệ cho sự ít nói của chàng. Đạo nói khá nhiều. Chàng bảo tôi rằng tôi đã lớn, đã có một đời sống, cái việc đơn giản là tôi hãy sống đời tôi, không rụt rè, không ân hận. Cốt nhất là đừng bao giờ ân hận, Đạo nhấn mạnh và nhắc đi nhắc lại câu nói nhiều lần.

Tôi ngẩn ngơ:

- Tại sao vậy?

Đạo nhún vai:

- Người không thôi ân hận là người chẳng sống được gì hết. Người không thôi ân hận sẽ tự làm khổ mình suốt đời.

- Nếu em nghe anh, em phải làm gì?

- Trở lại đây với anh nếu em vẫn còn muốn trở lại. Không thích nữa thì thôi. Em hoàn toàn tự do.

Và tôi, đêm hôm sau, tôi đã trở lại với Đạo. Và tôi, phút này, đứng một mình trên ngọn đồi, lẻ loi, trơ vơ hơn bao giờ, tôi lại muốn gần Đạo.

Chiếc xe lam thả tôi xuống xế cửa khách sạn. Khúc đường lúc này nhộn nhịp chứ không trống trải vắng lặng như lần trước. Tôi trả tiền xe nhìn lên, vui mừng thấy cửa phòng Đạo mở rộng. Không muốn nghĩ ngợi gì thêm, tôi băng mau qua đường. Sự hồi hộp làm cho trái tim tôi đập mạnh. Phút này, nếu có gặp một ai quen, tôi vẫn vào khách sạn như thường. Sống là không bao giờ ân hận về những hành động của mình. Đạo đã nói với tôi như vậy. Tôi đang sống như Đạo đã nói.

Người đàn bà ngồi chắn lối giữa thềm cửa đêm nào không còn ngồi ở chỗ cũ nữa. Chiếc ghế bành cũng đã được kê vào một góc, trước quầy hàng. Mấy người khách tiếp tục đi lên đi xuống. Họ là những người lạ mặt. Bên trong quầy hàng, cái ghế ngồi cũng trống trơn. Yên tâm, tôi đi thẳng lên cầu thang. Tới lưng chừng cầu thang, một tiếng gọi lớn giữ tôi đứng lại:

- Cô kia, kiếm ai đó?

Tôi đành quay trở xuống. Người đàn ông đã đứng tuổi, nét mặt đứng đắn, cái nhìn bình tĩnh. Ông ta tự giới thiệu:

- Tôi là quản lý.

Tôi trả lời, như lần trước:

- Tôi đến kiếm một người bạn ở đây.

Người đàn ông gật:

- Tôi biết. Cô là chủ nhân quán Nhớ phải thế không? Lần trước, cô tới đây thằng nhỏ đã báo cáo cho tôi biết. Bạn cô không còn ở đây nữa.

Đạo đã rời bỏ Pleiku. Đạo đã xa, tôi không còn nhìn thấy Đạo. Sự thất vọng bất chợt mà đau đớn. Cùng với lời nói của người đàn ông, tôi hẫng đi trong một cảm giác bàng hoàng. Tôi nghe thấy tiếng mình.

- Bạn tôi đi rồi thật sao?

Người đàn ông gật:

- Tôi nói dối cô làm gì. Ông ta đi rồi. Đi từ sáng sớm hôm qua.

Tôi nghe thấy tiếng mình hỏi:

- Bạn tôi có nói sẽ trở lại?

- Không. Lúc ông ta đi, tôi có mặt ở đây. Ông ta trả tiền phòng, xách va ly đi ra và không nói, không dặn gì hết.

Đạo đã làm theo ý tôi. Lần tới khách sạn, tôi đã chẳng nói với chàng là tôi không trở lại, tôi tới chỉ là để yêu cầu chàng rời khỏi Pleiku, tôi tới gặp chàng lần cuối cùng. Không bao giờ Đạo làm phiền tôi nữa. Chiều ý tôi, chàng đã để cho tôi được yên thân. Tại sao tôi đau đớn? Ngọc, mày điên, mày điên.

- Ông xem dùm có thư từ gì để lại cho tôi không?

Người đàn ông lắc đầu:

- Nếu có, tôi phải biết. Cô cần gặp ông ta lắm sao?

- Không. Không. Thôi cám ơn ông.

Tôi chào người quản lý, quay trở ra. Tôi rảo bước, đầu cúi xuống, hai gò má nóng bừng. Đạo còn ở khách sạn chưa chừng lên tới phòng chàng, tôi nghĩ lại, sẽ quay trở xuống. Đạo bỏ đi, lặng lẽ, không để lại một lá thư, tôi lại thấy hối tiếc vô chừng đã không lại khách sạn với Đạo sớm hơn. Lần đầu tiên, con người thứ hai ở tôi đã bị con người thứ nhất đánh bại.

Một ý tưởng liều lĩnh đột ngột xuất hiện: hay là về tìm Đạo ở Sàigòn? Lấy một cái vé máy bay. Đóng cửa quán Nhớ vài ngày hay giao quán cho Huyền trông nom. RA phi trường Cù Hanh. Thế là xong. Thế là sống như một