← Quay lại trang sách

Chương 6 Lá thư định mạng

Chương 6

lá thư định mạng

rong khi đại tá Tze, yếu nhân của Quốc tế Tình báo Sở, chỉ huy tàu đánh cá Ngọc Bích và kế hoạch Kim Cương của Bắc Kinh, đang cười oang oang một cách ngạo mạn giữa tiếng sóng gầm thì chiếc khoái đỉnh tối tân treo cờ đồng mình đã đưa Văn Bình và Triệu Dung về tới hàng không mẫu hạm ZZ.

Triệu Dung không cười vì bản tính cố hữu của chàng là nghiêm nghị và suy tư. Chàng lại càng yên lặng hơn bao giờ hết để gỡ mối bòng bong. Văn Bình là người vui tính, thích đùa bỡn vào những lúc trọng đại nhất, cũng không nói gì nữa.

Hai người vừa đặt chân lên boong thì hạm trưởng đã nói:

- Họ đang chờ mình trong ca-bin. Mời hai anh tới một vài phút. Tôi hy vọng là tìm được một vài dấu vết.

Văn Bình ngẩn đầu nhìn hạm trưởng:

- Chuyện Tim ấy à?

Hạm trưởng đáp:

- Phải. Chuyện Tim bị giết. Bị nhân viên của địch hạ sát... Dầu khôn ngoan đến đâu, địch cũng để lại đôi chút hớ hênh. Với tài quan sát và điều tra tài tình của hai anh, tôi tin là...

Văn Bình gạt đi:

- Thôi, tôi tưởng nhân viên anh ninh của mẫu hạm điều tra cũng đủ. Lát nữa, chúng mình sẽ nghiên cứu bản báo cáo của họ.

Hạm trưởng nhìn Văn Bình bằng cặp mắt vô cùng kinh ngạc:

- Thái độ của anh khác thường. Hay là...

Văn Bình nhún vai:

- Xin lỗi anh, tôi hơi mệt. Chắc anh còn nhớ là tôi bị thương. Tôi cần về phòng, nghỉ một lát.

Chàng định nói tiếp “Nhân tiện thăm sức khỏe Nguyệt Hằng”. Song hạm trưởng không biết Nguyệt Hằng là ai, cũng không biết nàng là tình nhân éo le của Văn Bình. Hạm trưởng chỉ biết nàng cải trang đàn ông, thế thôi.

Ngoảnh lại, Văn Bình thấy Triệu Dung hơi nhíu lông mày. Càng đọc ngay được tư tưởng của bạn. Chàng bèn hỏi:

- Đi rồi hả?

Triệu Dung đáp:

- Rồi. Phi cơ của hai đứa mình vứa cất cánh thì phi cơ khác từ duyên hải tới chở nàng về.

- Quái... Nàng còn đau, về một mình sao được? Ai hộ tống nàng về Sàigòn?

- Lê Diệp.

- Tại sao Lê Diệp không nán lại một lát chờ bọn mình?

- Tôi cũng không hiểu. Người ta vừa nói cho tôi biết xong. Xưa nay, ônh Hoàng vẫn có thói quen làm việc úp úp mở mở như vậy. Tôi có cảm tưởng là ông Hoàng nắm được nhiều đầu mối quan trọng.

Văn Bình chật một tiếng ra vẻ chịu đựng rồi tiếp:

- Dĩ nhiên. Lần nào, giao công tác cho tôi, ông cụ cũng chẳng tiết lộ gì hết. Tôi bước vào công tác bí mật với hai mắt luôn luôn bị bịt kín.

Triệu Dung quay vế phía bạn:

- Còn Như Luyến, anh nghĩ sao?

Văn Bình định đáp, nhưng hạm trưởng đã tới gần. Hạm trưởng bắt tay chàng, giọng hơi mỏi mệt:

- Mời hai anh nghỉ một lát cho khỏe. Trong khi ấy, tôi sẽ cho tập hợp các nhà khoa học còn lại. Tôi hy vọng công cuộc thí nghiệm phi cơ có thể hoàn thành trong thời gian dự định.

- Theo dự liệu của anh thì phải mất hai tuần.

- Vì các nhà khoa học mất đúng hai tuần mới hoàn thành được cuộc thí nghiệm chiếc VTOL, thứ nhất. Họ đông người lại quen việc. Dầu sao, chỉ còn 6 chuyên viên mà thôi, 15 người đã thiệt mạng.

- Anh tin 15 ngươì đã thiệt mạng trong tai nạn vận tải hôm qua không?

Hạm trưởng đứng lặng một phút, vẻ mặt bâng khuâng:

- Bán tín, bán nghi, anh ạ. Tử thi nạn nhân, như anh đã thấy, đều nát bét, không thể nào nhận diện được, nên khó đoán được ai chết, ai còn sống. Chiếc VTOL được báo cáo là tan thành mảnh vụn, vậy mà còn lành lặn, không tróc một vết sơn, gần hồ Vệ thần... Có thể các chuyên viên của ta còn sống. Cũng có thể họ đã chết. Đầu óc tôi đang rối beng, tôi sắp mất trí rồi. Trăm sự, tôi trông cậy ở hai anh.

Văn Bình giã vờ che tay ngáp, rồi nằm dài xuống giường:

- Vâng, chúng tôi xin cố gắng giúp anh một tay. Nhưng anh cũng nên hiểu là...

Hạm trưởng ngắt lời:

- Tôi hiểu ý anh rồi. Lát nữa, nhân viên của tôi sẽ mang Uýt-ky vào ca-bin cho anh. Trên tàu này, cái gì cũng đầy đủ, Uýt-ky nguyên chất hảo hạng, thuốc Salem, sâm banh Pháp, caviar, đồ nhắm tuyệt trần, chỉ thiếu một điều, mong anh tha lỗi.

Văn Bình cười nụ với hạm trưởng, rồi quay vào tường thép. Nhưng hạm trưởng vừa ra khỏi căn phòng hẹp, Văn Bình đã nhảy vọt dậy. Chàng nhìn Triệu Dung bằng luồng mắt ranh mãnh. Triệu Dung vẫy tay bạn ra vẻ thích thú trong khi nằm rạp xuống sàn tàu, dán mắt vào từng phân vuông một.

Triệu Dung đã đoán được tư tưởng thầm kín của Văn Bình. Văn Bình ngồi dậy là để khám phá dụng cụ khả nghi trong ca-bin. Nếu địch còn nhiều tay sai trên pháo đài ZZ, thế tất ca-bin của hai người phải được gắn dụng cụ ghi âm lén lút.

Hoặc biết đâu vì thói quen nghề nghiệp, hạm trưởng cũng tìm cách nghe trộm, nhìn trộm hai người trong ca-bin?

Nhưng Văn Bình và Triệu Dung có thể an tâm. Trong phòng không có một bộ phận điện tử bí mật nào hết. Giờ đây, hai người có thể trò chuyện kín đáo với nhau.

Triệu Dung nhắt lại câu nói bỏ vở cách đây 10 phút:

- Trước khi chúng mình ngủ một lát, tôi muốn anh có một sự nhận định một cách dứt khoát. Nhận định dứt khoát về Như Luyến.

Nghe bạn nói, Văn Bình bàng hoàng. Triệu Dung quả không hổ danh là tinh hoa của Sở. Triệu Dung cũng nghĩ như nhàng.

Trong óc, Văn Bình nhớ lại quang cảnh đặc biệt cách đây không lâu: tời nắng như thiêu đốt, mấy ngọn nến trắng leo lét cháy trên tấm vải đen, phủ lên cái thùng sắt lớn. Theo lời hạm trưởng, thùng sắt gắn kín này chứa đựng những mảnh thân thể còn lại của nạn nhân bị nạn phi cơ trên boong mẫu hạm.

Và trong số nạn nhân có Như Luyến.

Văn Bình đã nghiêng mình trước cái thùng sắt. Con chó Tây Tạng thông minh chạy tới một bên chàng, ghé mõm lại gần, ngửi một hồi lâu rồi lùi ra phía sau. Nó không sủa gâu gâu như thường lệ. Khi ấy, Văn Bình không bỏ sót phản ứng nhỏ nhặt nào của con chow-chow.

Nó thân Như Luyến như hình với bóng. Tại sao nó ngửi thấy chủ biến thành than trong thùng sắt mà bộc lộ xúc động?

Có thể nào con chow-chow không ngửi thấy không? Văn Bình tin chắc là nó ngửi thấy. chow-chow là một trong các giống chó thính mũi nhất nhì thế giới.

Nếu ngửi thấy, nó phải sủa vang. Song con chow-chow lại chẳng có cử chỉ nào đặc biệt.

Vi lẽ dễ hiểu là trong thùng sắt không có xuơng thịt của Như Luyến. Vì lẽ dễ hiểu là nàng chưa chết. Tất cả mọi việc xảy ra chỉ là một tấn kịch được dàn cảnh một cách xảo quyệt.

Văn Bình đáp lời bạn:

- Tôi cũng nghĩ như anh.

Triệu Dung cười:

- Hôm nay, anh đã kết luận như vậy mà anh cố tình giấu tôi. Anh gớm thật!

Văn Bình nhói ở tim:

- Giấu anh khi nào?

Triệu Dung vẫn cười:

- Lúc mặc niệm trước thùng được xác chứ còn khi nào nữa! Tôi thấy anh đổi khác nên nhận ra liền. Sở dĩ tôi không hỏi anh vì thấy địch đang núp nhìn trộm.

- Nghĩa là anh đồng ý với tôi là Như Luyến chưa chết.

- Đồng ý trăm phần trăm. Ngay sau khi tai nạn vận tải cơ xảy ra, tôi đã có linh tính là nàng còn sống.

- Tôi không dám coi thường giác quan thứ sáu của anh, nhưng dầu sao, đó cũng chỉ là phỏng đoán.

- Anh để tôi nói nốt. Linh tính ban đầu của tôi đã được bằng chứng cụ thể xác nhận. Hẳn anh còn nhớ văn phòng của Như Luyến trên pháo đài nổi ZZ được hòng vệ bằng nhiều dụng cụ an toàn vô cùng tinh vi và tân tiến, có lẽ văn phòng của ông Hoàng còn thua!

- Đúng. Nào khoá cửa bằng máy chụp hình điện tử, với súng bí mật bắn thốc mê ZBER và nhất là ca-bin của nàng được đạt trên bánh xe, bấm nút là rời khỏi thân tàu, văng xuống biển. À, anh đặt ra câu hỏi này làm gì vậy?

- Để xác nhận với anh rằng hàng không mẫu hạm là một pháo đài kiên cố.

- Tôi có phản đối đâu?

- Anh đến sau tôi nên không biết rõ hệ thống phòng vệ của mẫu hạm. Không riêng gì ca-bin của Như Luyến, ca-bin của các khoa học gia quan trọng khác cũng đều được trang bị máy móc kỳ lạ như vậy. Tôi nhắc lại là để anh lưu ý tới mối quan tâm hàng đầu về phương diện an ninh. Mỗi lần vận tải cơ Convair rời mẫu hạm đi Hoàng Sa, hoặc từ Hoàng Sa về mẫu hạm, mọi biện pháp an ninh đã được áp dụng.

- Vậy mà địch vẫn tìm cách phá hoại được... Trái bom cực mạnh gài ở bụng phi cơ làm khi đáp xuống bị nổ tan tành...

- Đó là chi tiết tôi muốn thảo luận lại với anh. Như anh đã biết, Như Luyến tới pháo đài ZZ với nhiệm vụ hoàn thành thí nghiệm hai chiến cụ đặc biệt, phi cơ VTOL và tiềm thủy đỉnh bỏ túi. Ngoài ra, nàng còn thí nghiệm một võ khí khác nữa, kích thước bé nhỏ, song tầm quan trọng rất lớn lao. Tôi muốn nói đến máy tìm bom.

- Máy tìm bom?

- Phải, máy tìm bom. Anh đừng bĩu môi vội. Từ nhiều năm nay, người ta đã chế ra máy tìm bom, song đó mới là những dụng cụ dó mìn tầm thường.

- Gần đầy, Hoa Kỳ vừa chế tạo một dụng cụ tân tiến và nhạy cảm gấp chục lần. Trong hao hao như công-tơ tìm tia phóng xạ Geiger, nơi nào giấu bom, mìn, chỉ lia máy bên trên là kim đồng hồ chạy loạn xạ, và phát ra âm thanh rè rè...

- Đồng ý. Nhưng loại máy được chế tạo chưa đạt tới mức tinh vi. Máy tìm bom mà Như Luyến đang thí nghiệm không những nghe được tiếng tích tắc nhỏ của bộ phận đồng hồ gài trong bom, lại còn nhìn thấy được nó, anh nhớ chưa, nhìn thấy được bom và mìn xuyên qua gỗ, lát-tích, đất, đá hoặc kim khí bao bọc nữa.

- Trời ơi!

- À, bây giờ anh mới chịu ngạc nhiên. Anh ngạc nhiên là phải. Có thể nói chưa có dụng cụ nào lại tối tân bằng dụng cụ của Như Luyến. Tối tân vì nó nhạy cảm đã đành, nó còn tối tân ở điểm có thể bỏ gọn trong cái xắc tay phụ nữ nữa.

- Và Như Luyến đi đâu cũng cất trong xắc tay?

- Đúng. Giả sử nàng có mặt trên chuyến phi cơ Convair bị gài bom, nàng phải khám phá ra ngay. Trái bom ghê gớm có thể nằm yên từ đảo Hoàng Sa vể đến mẫu hạm là vì Như Luyến không có mặt trên phi cơ.

- Tôi cũng nghĩ như anh. Nàng không có mặt. Nghĩa là nàng đã bị địch bắt tại đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, theo báo cáo của ban An ninh thì cả thảy 15 nhà khoa học bị thiệt mạng tong tai nạn hôm qua, chưa kể phi hành đoàn. Chúng mình mới biết về Như Luyến. Còn số phận của 14 người khác?

- Theo tôi, có lẻ họ đều bị bắt cùng với Như Luyến.

- Phỏng đoán hay bằng cớ?

- Tuy là phỏng đoán nhưng cũng gần chắc chắn như bằng cớ. Vì ngoài Như Luyến ra, một chuyên viên khác đã có máy tìm bom. Nếu chỉ Như Luyến bị bắt, họ được trở về mẫu hạm thì dọc đường, họ phải khám phá ra trái bom, hoặc ít ra đã liên lạc với hạm trưởng để báo cáo tình hình. Đằng này, họ hoàn toàn im lặng.

- Còn phi hành đoàn?

- Phi hành đoàn thì đúng là nhân viên mẫu hạm. Song tôi có cảm nghĩ phi hành đoàn bị cưỡng bách lái máy bay từ Hoàng Sa về, chở theo một số nhân viên của địch. Những nhân viên này cũng như phi hành đoàn, không biết máy bay bị gài bom. Họ đã bị địch hy sinh một cách ngon lành và tàn nhẫn.

- Nói tóm lại, Như Luyến và 14 nhân viên của ta còn sống?

- Còn sống, nhưng địch phải bó tay.Vì chiếc VTOL đã chìm dưới nước. Họ có thể đưa người nhái tới trục lên, nhưng sợ lộ. Vả lại, hạm trưởng đã huy động một lực lượng hùng hậu bao vây chạt chẽ khu vực chiếc VTOL lâm nạn, chờ toán người nhái của mẫu hạm tới mò lên.

- Vậy theo anh, địch sẽ làm gì?

- Tôi tin rằng kẻ cầm đầu chiếc tàu đánh cá trá hình là một thủ lãnh cừ khôi. Nghĩa là ít ra, hắn phải như anh và tôi. Nghĩa là hắn có một óc tưởng tượng khá phong phú. Hắn phải tìm mọi cách để đoạt chiếc VTOL...

- Chiếc VTOL đang được cất trên mẫu hạm?

- Phải.

- Đoạt bằng cách nào?

- Chưa biết. Theo tôi dự đoán, địch biết là chúng ta phải tiếp tục công việc thí nghiệm và trong hai tuần sẽ thành công. Chắc giờ này, địch đã khám phá ra hành tung của anh và tôi. Anh là hoa tiêu chuyên nghiệp, chắc sẽ lãnh phần lái chiếc VTOL thí nghiệm...

- Ồ, anh và tôi đều nghĩ giống nhau. May mà chúng ta đều chung một chiến tuyến. Vâng, tôi tin rằng địch đang tìm cách đoạt chiếc VTOL... đoạt bằng võ lực rất khó khăn, thế tất họ phải dùnh mưu mẹo. Và mưu mẹo thích hợp nhất trong lúc này là...

Văn Bình nín bặt, giương cặp mắt rí rỏm nhìn bạn. Triệu Dung chắt lưỡi:

- Anh lại muốn tôi viết vào lòng bàn tay chứ gì? Ừ, phong cảnh hôm nay cũng giống như hồi nào trên Địa Trung Hải. Lần ấy, tôi đoán trúng ý anh. Song lần này...

Triệu Dung vừa gợi lại một kỷ niệm xa xăm, nhưng chứa đầy thân mật. Hồi đó, hai người phục vụ trong hàng ngũ tình báo đồng mình, tung hoành khắp Âu châu trong đại chiến thứ hai. Một buổi trưa đầy nắng, hai người lênh đênh trên tuần dương hạm Mỹ tại Địa Trung Hải, sửa soạn đổ bộ lén lút vào Ý để vào Trung Âu, gia nhập chiến khu kháng Đức.

Đối với Văn Bình cũng như Triệu Dung, Ý là một quốc gia gợi cảm, vì bà vợ thứ nhất (cũng là cuối cùng) của ông Hoàng, tổng giám đốc, đã sinh tại Ý. Ý còn là nơi có nhiều món ăn ngon, nhiều cô gái đẹp, ngoan ngoãn và trung thành.

Nhìn về phương bắc, Văn Bình hỏi Triệu Dung:

- Đố anh, tôi đang nghĩ gì?

Triệu Dung cười;

- Đố thì phải có tiền. Anh đặt bao nhiêu?

Văn Bình chuyên môn không có tiền mặc dầu chàng kiếm tiền như nước. Dường như đời chàng là cánh đồng trống mênh mông, bạc giấy chất thành đống cũng bị gió mạnh cuốn bay trong chớp mắt.

Chàng bèn đề nghị:

- Thú thật với anh, tôi chẳng còn xu nào cả. Nếu anh muốn, tôi xin giới thiệu anh một cô nàng xinh như mộng.

Cám ơn, tôi không thích đàn bà, nhất là đàn bà chưa đến 20, suốt ngày õng ẹo, đòi ăn bột và đòi bú sữa.

- Buồn ghê! Nếu anh nhận lời, thì nhất định là thua. Trong đời, tôi ít khi thua cuộc.

- Hừ, anh lại khích tôi. Anh đáo để thật! Thôi được, anh không có tiền, tôi cũng sẵn sàng đánh cuộc. Giờ đây, anh và tôi, mỗi người viết vào lòng bàn tay. Chẳng hạn, anh đang nghĩ tới cô gái xinh như mộng thì viết chữ “gái”. Nếu tôi cũng viết chữ “gái” là đúng. À, xin anh nhớ cho điều này: Đừng nghĩ một đàng mà viết một nẻo nghe...

- Đời nào, xin anh tin tôi.

Hai người che tay lại, lúi húi viết. Văn Bình xòe bàn tay ra trước:

- Tôi viết chữ “cơm”. Anh viết chữ gì?

Triệu Dung xòe theo. Văn Bình giật mình, kinh phục. Giữa bàn tay, chữ R bằn mực đỏ nằm nghên ngang. R tức là Risotto, tiếng Ý gọi là gạo, nghĩa là cơm, món ăn quốc hồn, quốc túy của người Việt. Sống trong nước, ít người Việt nào để ý tới món ăn hằng ngày, nhưnng đến khi tha hương mới hiểu được tính chất thiêng liêng của dĩa cơm bốc khói nghi ngút.

Văn Bình và Triệu Dung lang thang ở Âu châu, nhiều lần nhớ cơm phát điên. Vì gạo không phải là món hiếm, nhưng người Âu không thổi cơm như người Việt, và dầu đôi khi thổi giống như ngươì Việt thì thiếu thốn hương vị khó tả, hương vị quê nhà.

Trên đất Pháp có nhiều món ăn ta song chiến tranh và tình trạng chiếm đóng không cho phép hai người thưởng thức đàng hoàng. Thời gian ở chiến khu, họ phải làm quen với hai món cơm độc đáo của Pháp, cơm nấu với cà chua, cũ nghệ, hành và đồ biển [1] và cơm với cà chua, ớt [2].

Tới Đan Mạch cũng tìm thấy cơm, nhưng đó là cơm riêng: một thứ cháo bằng gạo nuốt không trôi vào dạ dày [3] và một thứ bánh bột gạo chiên [4] ăn vào chỉ tăng thêm một mối sầu lữ thứ.

Dân chúng Hòa Lan có nhiều món cơm hơn, nhưng chung quy cũng là bánh bột gạo [5] chán phèo. Ăn được may ra là món cơm trộn với gan và cà chua [6]. Nhưng đến khi ăn bánh bột gạo ngọt mật với trái cây thì kẻ hay quên nhất cũng phải nhớ nhà [7].

Ở Na uy, niềm nhớ còn dâng cao hơn nữa vì gạo ở đây đã được dùng một cách ngược đời. Đó là dùng gạo làm bánh tráng miệng [8], cũng như ở Thụy Điển [9].

Vì vậy, Văn Bình và Triệu Dung thèm được quay laị Ý đại lợi để được gần quê hương vì thực đơn Ý ít nhất là gồm 20 món nấu với gạo. Đôi bạn giang hồ mê nhất món cơm gan gà [10], cơm tôm [11] và cơm nấm [12]. Món cơm bất hủ này trở thành bất hủ hơn nữa dưới bàn tay gia chánh khéo léo của một thiếu nữ đôi mươi thân thiết với Văn Bình.

Trưa hôm ấy, trên Địa Trung hải, hai người đều viết chữ risotto quen thuộc trên lòng bàn tay. Kỷ niệm êm đềm ấy bừng sống lại làm cả Văn Bình và Triệu Dung xúc động. Tuy hoạt động nhiều, tim óc rắn lại, họ vẫn là những người giàu tình cảm, dễ bồi hồi vì kỷ niệm xa xưa hơn ai hết.

Văn Bình đặt tay lên vai bạn:

- Lần trước, tôi thua anh. Lần này, cuộc thách đố hoàn toàn đổi khác. Tuy nhiên, tôi vẫn có linh tính là sẽ tiếp tục thua anh.

Triệu Dung lẵng lặng viết chữ S vào gan bàn tay rồi chìa ra cho Văn Bình xem.

Văn Bình ồ lên một tiếng. Chàng cũng viết như vậy. S là săng-ta. Đối phương sẽ dùng thủ đoạn săng-ta để bắt chàng trao chiếc VTOL còn nguyên cho họ.

Hai người như hiểu lòng nhau bỗng ôm lấy nhau cười vang.

Mặt biển đang quang đãng bỗng tối sầm, dường như báo hiệu một trận bão lớn.

Thật ra, một trận bão lớn ửa soạn xảy ra giữa sở điệp báo của ông Hoàng và Quốc tế Tình báo Sở ngoài khơi Nam Việt.

Trận bão rất khốc liệt nhưng lại đến từ từ. Biết trước tình hình nên Văn Bình không nóng lòng. Từ sáng đến tối, chàng ở trong phòng thí nghiệm với Triệu Dung, đôn đốc toán chuyên viên ráp nốt những bộ phận cuối cùng của chiếc VTOL kỳ lạ.

Sáng hôm ấy - đúng ba ngày sau chuyến bay Hoàng Sa đầy biến chuyển khẩn trương - mọi công việc đã được hoàn thành. Văn Bình trèo lên phòng phi hành, chuẩn bị bay thử. Lái máy bay thí nghiệm đối với chàng là chuyện thông thường, vì trong dĩ vãng, chàng đã phục vụ trong cơ quan không gian của Hoa Kỳ, chuyện thí nghiệm nhiều loại phi cơ đặc biệt bay thật nhanh và thật cao.

Tuy nhiên, từ lâu, chàng không rờ tới cần lái. Cuộc thí nghiệm VTOL lại diễn ra trong hoàn cảnh độc đáo. Chàng có thể thiệt mạng bất cứ lúc nào. Một cái ốc vặn lỏng, một mối hàn sơ sài cũng đủ gây ra tai nạn ghê gớm.

Ấy là chưa kể tới phản ứng bất ngờ của địch.

Theo dự đoán, địch có thể sẽ dùng Như Luyến làm món hành săng-ta. Nhưng cũng có thể địch thay đổi ý kiến nếu khám phá ra một số chi tiết mà ông Hoàng cố tình che giấu.

Song Văn Bình không được quyền rụt rè. Chàng phải tiếo tục lao đầu vào nguy hiểm. Sau những ngày vùng vẫy trên mây xanh với chiếc VTOL bách chiến, bách thắng, Văn Bình cảm thấy tâm hồn đổi khác hoàn toàn. Sự tàn nhẫn cố hữu của nghề điệp báo bắt rễ trong lòng chàng đã biến mất, nhường chỗ cho những tình cảm ủy mị và thơ mộng không tên.

Dần dà, chàng hiểu tại sao đồng mình và ông Hoàng mất bao tiền bạc và cơ mưu để chế tạo chiếc phi cơ lên thẳng sơn bạc, bề ngoài mảnh mai và tầm thường này. Chưa kể các ống kính nhiếp ảnh tối mật và nòng đại bác bắn đạn hóa chất tê liệt xuyên mặt đất, riêng tốc lực siêu việt của nó đã đủ kích thích lòng thèm muốn của mọi cơ quan gián điệp thù cũng như bạn trên thế giới.

Bay là là trên mặt dất, nó có thể vượt tốc độ Mach 2, nghĩa là tòm tèm 2.500 cây số, nhanh nhất. Trên tầng cao, nó lại bay tới Mach 3. Nghĩa là mỗi khi chạm trán phi cơ thượng thặng của địch, nó thừa sức để làm thiên hạ ngửi bụi.

Đặc điểm của nó là có thể bay rất thấp, tránh được con mắt thông thiên vô hình của radar. Và khi bay lên cao, thuộc tầm nhìn của radar nó lại được trang bị dụng cụ riêng để đánh lạc hướng tìm kiếm của radar.

Như thường lệ, chàng bay một mạch tới đảo Hoàng Sa, phía sau có đội khu trục hộ tống. Các biện pháp an ninh được tăng cường tối đa, chiếc VTOL bay tới đâu, đội khu trục cơ bám tho tới đấy, sẵn sàng đối phó với mọi bất ngờ.

Tuy nhiên, khu trục cơ tối tân nhất chỉ bay được gần hai ngàn cây số một giờ nên Văn Bình chỉ bàn bạc riêng với người bạn chí thân, Triệu Dung.

Hạm trưởng chở Văn Bình ngay sau khi chiếc VTOL đáp xuống an toàn trên sàn mẫu hạm. Câu hỏi quen thuộc của hạm trưởng vẫn là:

- Có gì trục trặc không.

Văn Bình lắc đầu:

- Không.

Rồi tiếo theo:

- Tôi không ngờ công cuộc thí nghiệm lại được tiến hành nhanh chóng như vậy. Nếu không gặp trở ngại bất ngờ thì chậm nhất một tuần nữa, mọi việc sẽ được hoàn thành.

Hạm trưởng xoa tay thở phào:

- Hừ, tôi đếm từng ngày, từng giờ một... Mong anh hoàn thành để tôi trút bỏ được gánh nặng. Lát nữa, tôi sẽ phúc trình về Trung ương, anh cần thêm bớt gì không?

Văn Bình nói ngay:

- Xin báo cáo là tôi cần ở 5 ngày, đúng 5 ngày nữa. Sau khi chu toàn cuộc thí nghiệm, tôi sẽ đích thân lái chiếc VTOL về Đà nẵng, rồi từ đó vế Sàigòn. Phiền anh liên lạc với Trung ương để bố trí an ninh dọc đường.

Mục đích của chàng không phải là đưa phi cơ về Đà nẵng và Sàigòn. Chẳng qua chàng muốn nhiều người trên mẫu hạm biết là công cuộc thí nghiệm sắp đạt kết quả mỷ mãn. Nhân viên cũa địch là ai, chàng chưa khám phá ra, nhưng đã biết chắc chắn nội vụ sắp đến màn chót.

Chàng lẩm bẩm một mình:

- Màn chót... Đế rồi xem ai thắng, ai bại...

Một giọng nói quen thuộc vang lên sau lưng:

- Dĩ nhiên là chúng mình sẽ thắng.

Văn Bình giật mình quay lại. Triệu Dung dán mắt vào ống viễn kính nhìn ra khơi.Văn Bình trách bạn:

- Gớm, anh làm tôi hết hồn!

Triệu Dung chép miệng:

- Anh mà cũng hết hồn ư?

- Dĩ nhiên, mấy hôm nay, lúc nào tôi cũng sống trong tình trạng căng thẳng. Chúng mình đoán sai thì hỏng bét.

- Tôi không tin là đoán sai. Có lẽ chỉ đêm nay hay mai là địch sẽ phải xuất đầu lộ diện.

À, giản dị lắm. Tôi đã rêu rao cho nhiều người trên pháo đài này biết rằng nội trong năm ngày nữa, công cuộc thí nghiệm VTOL sẽ hoàn tất. Theo chương trình dự liệu thì mai hoặc mốt, tôi phải bay chuyến thí nghiệm cuối cùng ở đảo Hoàng Sa.

Hai người về tới ca-bin.

Căn phòng của Như Luyến vẫn sạch bóng, và không đổi khác. Hành lang bên ngoài vẫn đỏm đáng, kền sáng quắc, không dính một hột bụi, người gác cao lớn rập chân chào như thường lệ.

Cửa ca-bin đã quen thuộc với chủ mới nên mở ra ngay. Tấm ảnh thằng Lập rí rỏm vẫn chểm chệ giũa phòng và trên bàn giấy kê gần góc chân dung bán thân của Như Luyến vẫn nhìn Văn Bình bằng cặp mắt ươn ướt, chứa chan tình cảm mến yêu.

Văn Bình ngồi phịch xuống cái ghế sắt sơn xanh. Như người máy, chàng đánh diêm châm điếu Salem tri kỷ rồi ngửa cổ thả khói lên trần ca-bin.

Bỗng Triệu Dung véo tay bạn.

Văn Bình nhìn vào ô kéo vừa được mở. Một phong thư màu trắng vuông vắn nằm gọn trên khẩu Luger cũ kỹ đã lên nước của Văn Bình.

Bên ngoài vẻn vẹn một hàng chữ đánh máy tươm tất:

Kính gởi đại tá Văn Bình Z.28.

Văn Bình hơi khựng người một giây. Trên mẫu hạm, có lẽ ngoài hạm trưởng ra không ai biết chàng là Z.28. Đây không phải là thư của hạm trưởng. Chàng vừa gặp hạm trưởng xong. Giữa hai người không có chuyện phải viết thư.

Đây chắc chắn không phải là thư của ông Hoàng. Ông Tổng giám đốc không có thói quen rườm rà, kiểu cách của một số lãnh tụ điệp báo quan liêu, ưa ra lịnh cho cộng sự viên bằng văn thư chính thức. Vả lại, mệnh lịnh của ông Hoàng ít khi - đúng ra là không bao giờ - lại được gởi tới bắng đường lối gián tiếp.; Nếu có thư riêng thì thư ấy phải gởi cho Triệu Dung, nhờ trao tận tay chàng.

Một giây đồng hồ suy dẫn đã cho chàng biết đây là thư của địch.

Triệu Dung lẳng lặng cầm lá thư lên, bóc ra. Thư được đánh máy đàng hoàng. Ở góc trái, phía trên là giòng chữ như sau:

“Thư của đại tá Tze, thuộc Quốc tế Tình báo Sở, Trung Quốc, kính gởi đại tá Tống Văn Bình, Z.28, Nam Việt, trên hàng không mẫu hạm ZZ, ngoài khơi Nam Việt”.

Thưa đại tá,

Nếu người nhận thư này không phải là Z.28 thì chắc đại tá sẽ vô cùng ngạc nhiên. Vì trong nghề tình báo, không ai lại xưng họ tên như giới lục lâm ngày xưa và đặc biệt là không biện luận dài dòng vô ích.

Vậy mà tôi tự xưng là đại tá Tze của Quốc tế Tình báo Sở. Sở này là gì, đại tá đã biết, tôi không cần giải thích thêm nữa. Nghề tình báo chỉ quen với hành động lén lút, không ưa thanh thiên, bạch nhật, vậy mà lần này, tôi viết thư chính thức, với một số đề nghị rõ rệt.

Hẳn đại tá hiểu vì sao.

Vì tôi đã nắm được đầu cán. Tôi chắc chắn thành công. Nhân danh Tình báo Sở, tôi thành thật khen ngợi đại tá đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Như thường lệ, đại tá được thần May mắn chiếu cố nên thoát chết tại ngoài khơi đảo Hoàng Sa.

Nhưng, thưa đại tá, tài nghệ của đại tá còn thua tôi nhiều. Thiên hạ đồn rằng điệp viên Z.28 xuất quỷ nhập thần, có một không hai ở Đông Nam Á, giờ đây, tôi chỉ cảm thấy buồn cười. Dầu đại tá mất lòng, tôi cũng cứ nói. Đại tá Z.28 ơi, đại tá cần cắp sách đi học năm bảy năm nữa, may ra mới có hy vọng đối đầu với bậc đàn anh lăn lộn trong nghề là đại tá Tze.

Đại tá không tin ư? Thì đại tá hãy đến gặp tôi... Tôi sẵn sàng thù tiếp đại tá. Chúng ta sẽ đấu trí hoặc đấu quyền với nhau. Tuy nhiên, tôi sợ đại tá sẽ thua sát ván.

Trên thực tế, đại tá đã thua sát ván rồi. Vì Như Luyến, tình nhân thắm thiết của đại tá đang nằm ở trong tay tôi. Hơn ai hết, đại tá dã khám phá ra là Như Luyến còn sống bằng xương, băng thịt.

Đại tá muốn gặp nàng không?

Trên phương diện nghề nghiệp tàn nhẫn, đại tá phải trả lời “không”. Công việc trên hết, xá gì một người đàn bà, phải không đại tá? Người đàn bà này chết thì cón người đàn bà khác, phải không đại tá?

Dầu sao, quyền quyết định là của đại tá và đại tá đang còn đủ thời giờ để quyết định.Trong trường hợp đại tá đáp “không”, tôi sẽ gởi hầu đại tá cặp mắt của nàng.

Chà! Như Luyến có cặp mắt đẹp ghê! Tôi có nhiều kinh nghiệm song chưa hề thấy ai có cặp mắt gợi cảm như nàng. Đại tá quả có diễm phúc được nàng ghi lòng, tạc dạ.

Nếu đại tá còn rung động về nàng, tôi sẽ giúp đại tá có cơ hội tái ngộ. Gặp Như Luyến là chuyện rất dễ: Sau khi đọc thư này, đại tá hãy bỏ vào túi áo trên một cái khăn mù-soa đỏ, lòi mép ra ngoài. Trong những giờ sắp tới, đại tá sẽ nhận được chỉ thị đặc biệt về cuộc tái ngộ.

Giả sử nhân viên của tôi không thấy đại tá giắt mù-soa đỏ, trong vòng 72 giờ đồng hồ, đại tá sẽ có đôi mắt bất hủ của nàng. À, chỗ thân tình, tôi xin dặn đại tá điều này: Muốn giữ cho mắt nàng khỏi hư thối, đại tá nên chuẩn bị trước một cái bình thủy tinh đựng nước phọt-môn. Sở dĩ dùng bình thủy tinh là để đại tá nhìn cho dễ.

Thân ái,

Bạn và thù của đại tá,

Tze.

Văn Bình mỉm cười buông lá thư xuống bàn. Triệu Dung hỏi bạn:

- Anh nghĩ sao?

Văn Bình đứng dậy:

- Tôi sẽ đi gặp hắn.

- Gặp Tze?

- Phải, đại tá Tze. Tôi đã nghe nói nhiều tới hắn. Và tôi tin tưởng sẽ đạt tới thỏa thuận.

- Bây giờ chúng mình làm gì?

- Làm gì hả? Thứ nhất, anh cho tôi một chai Úyt-ky hạng khá. Loại Úyt-ky của lão hạm trưởng uống nhạt phèo như nước ốc. Tôi thèm tượu một cách kinh khủng. Uống hết chai Úyt-ky, tôi muốn được anh cho nằm nghỉ một giấc.

- Anh định thức trắng đêm ư?

- Không. Tôi sẽ ngủ từ giờ đến tối. Thức dậy, ăn xong, tôi sẽ uống rượu nữa và ngủ nữa. Nếu anh không phản đối, tôi sẽ ngủ luôn đến sáng hôm sau.

- Hừ, anh là con người kỳ khôi. Tuy vậy, chưa bao giờ anh lại kỳ khôi như bây giờ.

Không đáp, Văn Bình cởi áo ném xuống đất, rồi nằm dài trên giường. Triệu Dung chưa kịp ra khỏi phòng, Văn Bình đã ngáy o o.

Tối hôm ấy, ngoài khơi Nam Việt...

Lệ thường, hàng không mẫu hạm ZZ tắt đèn tối om ban đêm. Nhưng hôm nay, đèn trên boong lại sáng như sao sa.

Văn Bình đã sửa soạn xong cho chuyến bay cuối cùng. Chuyến bay thí nghiệm cuối cùng của phi cơ lên thẳng VTOL với những dụng cụ tân tiến khả dĩ chấm dứt chiến tranh trong thời gian kỷ lục.

Trước giờ lên boong, đặt chân lên chiếc máy bay VTOL sơn bạc xinh xắn, phóng nhanh hơn tốc độ âm thanh, Văn Bình khóa cửa ca-bin, ngồi trầm ngâm trước hình của Như Luyến.

Đứng bên, Triệu Dung hỏi:

- Anh còn dặn gì nữa không?

Văn Bình lắt đầu:

- Không.

Chàng rút trong túi ra bức thư ngắn ngủi, đọc lại. Đó là thư của đại tá Tze, gửi đến cho Văn Bình sau khi chàng giắt mù-soa đỏ vào túi áo trên.

Nội dung bức thư như sau:

Thưa đại tá,

Thành thật khen ngợi đại tá lần nũa. Chưa biết đại tá nhận lời một cách nghiêm chỉnh hay xảo quyệt, tuy nhiên, tôi xin khuyên đại tá giữ đúng lời hứa, vì dầu sao, đại tá nắm đàng lưỡi, còn tôi nằm đàng cán.

Tôi xin cảnh cáo là mọi biện pháp an ninh chặt chẽ đã được áp dụng, đề phòng sự tráo trở. Đại tá phải tuân tho những chỉ thị sau đây:

1 - Sau khi cất cánh, đại tá phải bay thẳng về đảo Hoàng Sa, khi tới gần hồ Vệ thần sẽ nhận được lịnh đặc biệt, trên tần số 1863 mêga chu kỳ.

2 - Đại tá sẽ đáp xuóng một vị trí chọn sau và sẽ lên trực thăng cùng với Như Luyến.

3 - Đại tá phải giũ kín việc này, không được phép cho hạm trưởng hoặc bất cứ ai trên pháo đài ZZ biết. Nếu kế hoạch bị thất bại, đại tá phải chịu hậu quả.

4 - Dĩ nhiên, đại tá chỉ tuân theo chỉ thị mà không được đòi hỏi nào cả. Tuy nhiên, nhân danh Quốc tế Tình báo Sở, tôi, đại tá Tze, xin long trọng cam kết thực hiện đúng lời hứa. Vả lại, lịch sử hoạt động từ nhiều năm nay của Tình báo Sở đã chứng tỏ là chúng tôi chưa hề bội hứa lần nào. Nhưng nếu đại tá còn chưa yên tâm thì đúng 7 giớ tối liên lạc với chúng tôi bằng máy talkie-walkie đặc biệt gửi kèm đây.

Máy này chỉ liên lạc được trong đường kính 100 mét, vì vậy, nó chỉ nhỏ bằng cái quẹt máy và được giấu trong cái quẹt máy Ronson-Comète. Nhân viên của tôi túc trực trên hàng không mẫu hạm sẽ làm trung gian tiếp vận cuộc nói chuyện giữa tôi và đại tá.

Mặc dầu thể thức điện đàm này khá an toàn, bất trắc cũng có thể xảy ra. Vạn nhất, hạm trưởng khám phá ra, tôi đành phải đình hoãn thực hiện kế hoạch đã định. Ở vào địa vị của đại tá, tôi sẽ hoàn toàn tin cậy, không đặt điều kiện cương quyết, khiến nhân viên tôi phải hy sinh một cách vô ích.

Thân ái,

Tze

Văn Bình không liên lạc bằng talkie-walkie với đại tá Tze. Chàng muốn đối phương biết chàng sẵn sàng đặt tin tưởng vào kẻ chưa quen, cho dù kẻ chưa quen là kẻ thù bất cộng đái thiên.

Chàng thừ người với điếu Salem cháy dở, không nói nửa lời. Đại tá Tze đã thu thập được khá nhiều chi tiết về tính tình và cuộc đời chàng. Hắn biết chành có trái tim sắt đá, luôn luôn coi công tác làm trọng, nhưng trong một vài trường hợp đặc biệt - mà Như Luyến là một - nghĩ đến tình yêu phụ nữ.

Nhìn đồng hồ lân tinh, Văn Bình giật mình. Đọc được ý nghĩ của bạn, Triệu Dung nói:

- Anh lại tiếc rồi. Hoài của, giá đêm nay anh được ở Sàigòn thì sung sướng biết bao.

Văn Bình thờ dài:

- Quả anh là con ma xó. Cái gì cũng biết... Đúng vậy anh ạ, nhờ đồng hồ, nếu không, tôi đã quên bẵng hôm nay là thứ bảy. Phiêu dạt khắp nơi, tôi nhận thấy tối thứ bảy trên thế giới thường là tối thần tiên nhất trong tuần, nhưng chưa ở đâu tối thứ bảy lại thần tiên bằng Sàigòn.

- Dĩ nhìên, vì Sàigòn là quê hương.

Văn Bình chặt lưỡi:

- Chưa hoàn toàn đúng. Tối thứ bảy ở Sàigòn đối với ngoại kiều cũng đượm vẻ thần tiên, chứ không riêng đối với tôi. Vì Sàigòn là nơi tập trung nhiều đàn bà đẹp nhất, ngoan ngoãn nhất trên trái đất.

Hạm trưởng đã tới sau lưng hai người không biết lúc nào. Văn Bình nghe động đậy, quay lại nói đùa:

- Đại tá Tze đang nghe trộm.

Hạm trưởng cười ròn tan:

- Chắc hai anh lại tán gẫu về đàn bà... À, anh vứa nói đến đại tá Tze. Đại tá Tze là ai nhỉ?

Triệu Dung đáp:

- Là yếu nhân của Quốc tế Tình báo Sở, người phụ trách kế hoạch đánh cắp chiếc VTOL của chúng mình.

Hạm trưởng đáp:

- Ồ, các anh có tin tức mới mà không cho tôi biết. Các anh biết nhiều về hắn không?

- Không.

Văn Bình nín thinh. Hạm trưởng mù tịt về hai lá thư của Tình báo Sở. Lẽ ra, chàng phải giải thích thêm, song lại im lặng. Trong bóng tối mờ mờ, chàng thấy rõ luồng mắt sáng quắc của Triệu Dung ngầm bảo chàng kín miệng.

Hạm trưởng nhìn trời, nhìn biển rồi nói:

- Khí tượng vừa báo cáo xong... Hiện thời, trời rất tốt, nhưng trong vòng một giờ nữa sẽ xấu và có thể rất xấu. Tôi sợ chuyến bay của anh không được an toàn.

Văn Bình lắt đầu:

- Thú thật với anh, từ chiều đến giờ tôi luôn luôn vái Trời thay đổi thời tiết. Vì trong thời gian qua, tôi toàn thí nghiệm những khi trời tốt, chưa có hoàn cảnh xử dụng hệ thống radar và phi hành đặc biệt của chiếc VTOL. Theo kế hoạch, ưu điểm của chiếc VTOL này là bay khi thời tiết xấu và nhất là bay ban đêm. Vả lại, dầu chiếc VTOL không được trang bị dụng cụ đặc biệt, tôi cũng không thể đình hoãn nữa. Vì Trung ương đã được thông báo... và đây là chuyến bay cối cùng.

Hạm trưởng nhăn mặt:

- Anh đừng nói gỡ. Giới phi hành thường kiêng kị những danh từ bất lợi.

Văn Bình chữa lại:

- Ý tôi muốn nói đây là chuyến bay thí nghiệm cuối cùng trước khi hoàn tất.

Hạm trưởng vẫn không vui vẻ như thường lệ:

- Tôi có linh tính lạ lùng... Không hiểu sao, tôi lại tin là bất trắc sẽ xảy ra. Anh có thể hoãn đến mai được không?

Văn Bình khoát tay:

- Không. Tôi có hẹn với một người đàn bà. Đúng hơn, một giai nhân tuyệt thế. Nàng nằm một mình nhiều đêm buốt xương, tôi không dằn lòng nổi, anh ạ.

Tưởng Văn Bình bông đùa để tỏ thái độ cương quyết, hạm trưởng thở dài:

- Vâng, anh khăng khăng một mực, tôi cũng phải chịu. Dầu sao, chúng ta đều thuộc tổ chức khác nhau, anh lại không phải là nhân viên dưới quyền. Tuy nhiên, nếu anh nhất quyết lên đường thì bắt buộc tôi phải tăng cường biện pháp bảo vệ an ninh.

- Anh cho thêm phi cơ hộ tống ư?

- Vâng, đó mới là một trong nhiều biện pháp. Đêm nay, tôi sẽ cho 6 chiếc cùng bay với anh. Hai phi đợi bay thường trực trên không phận nếu vạn nhất xảy ra tai nạn sẽ can thiệp kịp thời... Tình trạng báo động được ban hành trên mặt biển, trong khu vực tuần tiễu của các đơn vị thuộc Đệ Thất hạm đội... Song le, tôi nhận thấy như vậy vẫn chưa đủ... Yếu tố quyết định tùy thuộc nơi anh...

- Tùy thuộc nơi tôi?

- Phải. Hoàn toàn tùy thuộc nơi anh, như chiếc Cobra 7 lít so sánh với chiếc tắc-xi 4 ngựa cà rịch, cà tang của Pháp. Phi đội của tôi chỉ bảo vệ được hữu hiệu nếu anh áp dụng đúng kế hoạch thí nghiệm. Nghĩa là giai đoạn thí nghiệm tốc độ đã qua, giờ đây, trong bất cứ trường hợp nào, anh cũng không được quyền vượt qua Mach 1.

- Hừ, nghe anh nó, tôi có cảm tưởng là anh ngờ tôi đêm nay, lái phi cơ nạp cho địch...

- Tôi đâu dám nghĩ như vậy. Có lẽ anh thích nói đùa thì phải... Chẳng qua thượng cấp ra lịnh cho tôi. Hẳn anh đã biết tôi không phải hạm trưởng chính cống, mà là hạm trưởng tạm bợ, dưới sự sai phái của tình báo Mỹ...

- Vâng, tôi xin nghe anh. Thôi, sắp đến giờ khởi hành rồi, anh còn dặn dò gì nữa không?

- Không. Tôi chỉ chúc anh vạn sự như ý.

- Tôi cũng vậy. Tôi cũng chúc anh vạn sự như ý.

Hạm trưởng sửng sốt:

- Tôi ở nhà, anh bay trên trời, tại sao lại chúc tôi? Hay là...

Triệu Dung đỡ lời:

- Ồ, anh bạn trẻ của tôi luôn luôn có tính đùa bỡn khó chịu, anh đừng chấp nhất.

Văn Bình cười nửa miệng:

- Tôi chúc thật đấy, không đùa đâu... Đây này, tôi xin cắt nghĩa thêm... Giả sử sau khi tôi cất cánh, trời nổi cơn bão lớn, lôi mẫu hạm xuống đáy biển thì sao?

Hạm trưởng phản đối:

- Điều này không bao giờ xảy ra. Mẫu hạm là loại tàu không bao giờ chìm được. Bị bắn nát, thân tàu vẫn nổi như thường, phương chi chỉ có gió và sóng...

Văn Bình nói tiếp, vẻ mặt thản nhiên:

- Thì đại tá Tze cũng có thể bắn phi đạn vào mẫu hạm. Anh đừng quên tiềm thủy đỉnh của Tình báo Sở đang lảng vảng ngoài hải phận quốc tế. Hẳn anh đã biết từ một năm nay, tàu ngầm địch được trang bị hỏa tiễn thủy địa mạnh như hỏa tiễn Pôlarít. Hàng không mẫu hạm được bảo vệ chặt chẽ thật đấy, song tôi không tin có thể tránh nổi một vài tên đạn bất ngờ...

Hạm trưởng tái mặt. Song chỉ một giây đồng hồ sau đã lấy lại vẻ lầm lì của người đi biển.

Văn Bình vỗ vai hạm trưởng rồi thoăng thoắt tiến về phía chiếc VTOL đang nằm phơi dưới những ngọn đèn pha sáng trưng.

Trong khoảnh khắc, chiếc VTOL huyền diệu từ tư rời khỏi boong tàu bay lên không trung. Văn Bình giơ tay vẫy Triệu Dung đang tựa vào lan can mẫu hạm, bề ngoài như thể nhàn du. Hơn ai hết, Văn Bình biết bạn đang suy nghĩ.

Suy nghĩ... Vì đêm nay, nhiều chuyện bất thường chắc chắn sẽ xẫy ra.

Lùm sáng của pháo đài ZZ đã biến mất phía dưới. Văn Bình có cảm tưởng bay đụng những vì sao lấp lánh. Mọi ưu tư dằn vặt chàng từ nhiều ngày nay bỗng nhiên tan hết, lòng chàng trở nên thơ thới và ngập đầy tin tưởng.

Văn Bình đảo một lượt quanh táp-lô phi cơ. Mọi bộ phận trong chiếc VTOL đều hoạt động an toàn.

15 phút sau khi rời khỏi mẫu hạm, Văn Bình gọi vô tuyến cho phòng kiểm soát:

- Alô ZZ, alô Zz,.. đây là “Sao chổi”.

“Sao chổi” là bí danh do chàng tự đặt cho chiếc VTOL. Hạm trưởng chê danh tư “Sao chổi” là không hên, song Văn Bình nằng nặc đòi giữ lại cho bằng được. Chàng thích danh từ “Sao chổi” vì đêm nay sẽ bắt chước “Sao chổi” bay vù trong không gian mù mịt.

- Alô ZZ nghe đây. Sao chổi nói đi.

Văn Bình giọng từ tốn và rõ ràng:

- A lô... Sao chổi xin nói... Tôi đang ở độ cao một ngàn sáu trăm bảy chục... đường bay hai-bốn-ba, phía đông ZZ. Theo chương trình dự định, từ phút này, tôi bắt đầu thí nghiệm dụng cụ phá tuyến.

Dụng cụ phá tuyến là một loại máy tối tân nhằm bao bọc phi cơ một vỏ hơi điện đặc biệt, khiến cho radar của địch không thể “nhìn” thấy. Nhờ dụng cụ phá tuyến, chiếc VTOL sẽ có thể nghênh ngang bay vào đất địch, nghênh ngang hoàn thành phi vụ thám thính hoặc tấn công, rồi nghênh ngang trở về căn cứ, radar và súng phòng không của địch sẽ hoàn toàn mù, điếc và câm.

Phòng kiểm soát của mẫu‚ hạm cất tiếng:

- Đài kiểm soát ZZ đây... đã nghe rõ... yêu cầu Sao chổi bay sát mặt biển.

- Độ cao tối đa là bao nhiêu?

- Độ cao tối đa 785...

- Nghe rõ...

- Sau khi xuống tới 785, yêu cầu Sao chổi báo cáo.

Văn Bình mím môi, chút mũi VTOL xuống. Mấy phút sau, chiếc VTOL đã xà xuống mặt biển nhấp nhô.

Giây phút trọng đại đã tới với chàng. Chàng phải cấp tốc thi hành kế hoạch đã định trước với Triệu Dung. Từ phút này, phòng radar ở pháo đài nổi ZZ bắt đầu mất hút chàng.

Đúng ra, chàng phải phútc trình về đài song chàng lại nín lặng. Đúng ra, chàng phải bay theo hướng đã định, song chàng lại xả hết tốc độ về phía Hoàng Sa.

6 chiếc khu trục hộ tống bị bỏ rơi dễ dàng. Ban ngày, không trung quang đãng, tìm ra chiếc VTOL đã khó khăn. Ban đêm trên mặt biển mênh mang, nhất là trời đang trở gió dữ dội như đêm nay, phi đội hộ tống chỉ còn nước kêu trời với đài kiểm soát.

Ngay khi ấy, bầu không khí trở nên khó thở trong phòng kiểm soát của pháo đài ZZ.

Bồ hôi ướt đầm, phụ tá số 2 của hạm trưởng cúi xuống màn radar:

- Thế nào, tìm ra Sao chổi chưa?

Nhân viên phụ trách radar đáp, giọng run run:

- Chưa... lạ thật.

- Hỏi phi đội hộ tống xem?

- Thưa, đã hỏi rồi. Họ vừa lạc mất. Cách đây 30 giây, trường phi đội vừa gọi về, xin chỉ thị.

- Liên lạc với các khoái đỉnh ở dọc đường. Theo chương trình, Sao chổi phải báo cáo với họ.

- Thưa, các khoái đỉnh 1, 2, 3 đã liên lạc về, nói là họ vẫn chờ Sao chổi.

- Còn 4 và 5 thì sao?

- Thưa, họ chưa báo cáo.

- Vậy liên lạc ngay với họ. Nhanh lên.

Nhân viên phụ trách viễn thông thi hành khẩu lịnh. Nhưng chỉ hai phút sau, hắn ngẩng đầu lên, mặt ngơ ngác:

- Thưa, cũng như cũ.

- Như cũ là như thế nào?

- Chiếc VTOL vẫn tuyệt vô âm tín.

- Chết rồi.

Phụ tá hạm trưởng ngồi phịch xuống, nắm lấy máu vi âm, giọng hớt hơ hớt hải:

- Alô, đây phòng kiểm soát ZZ... gọi Sao chổi... Yêu cầu cho biết ngay độ cao, đường bay và vị trí.

Vẫn im lặng.

Phụ tá hạm trưởng thét lên:

- Thưa hạm trưởng...

Nhưng một giọng nói đã nổi lên sau lưng:

- Hạm trưởng vừa ngất đi... có lẽ vì bịnh tim. Yêu cầu ông thay mặt hạm trưởng điều hành công cuộc tìm kiếm.

Đó là giọng nói của Triệu Dung. Viên phụ tá hạm trưởng nắm chặt mép bàn để khỏi run:

- Trời ơi, ông ấy việc gì không?

Triệu Dung đáp:

- Không sao cả, ông đừng ngại. Hạm trưởng đang nằm trong bịnh xá.

Sau một phút đồng hồ bàng hoàng, viên phụ tá ấn cái nút đỏ trước mặt:

- Ra lịnh báo động trên toàn khu vực. Sử dụng mọi phương tiện để tìm kiếm chiếc VTOL.

Khi ấy, chiếc VTOL đang ở vào tình trạng nguy nan. Thật vậy, Văn Bình đã vượt qua ràng rào kiểm soát đầu tiên gồm ba khoái đỉnh, dàn thành hàng dài, được trang bị máy móc tân tiến, khả dĩ nhìn thấy, nghe thấy mọi vật khả nghi trong đường kính trăm cây số, lên tận không gian cao vòi vọi.

Còn hai khoái đỉnh sau cùng, Văn Bình đinh ninh là tránh né dễ dàng. Chàng không ngờ...

Một phát hỏa châu được bắn lên, lóe sáng một vùng rộng lớn. Phát đạn báo này chứng tỏ là nhân viên kiểm soát bên dưới đã nhận ra chiếc VTOL lạc lõng.

Thật vậy, trước đó một phút, đội kiểm soát túc trực trên chòi canh khám phá ra chiếc VTOL nhờ dụng cụ hồng ngoại tuyến. Đang phì phèo thuốc lá - hút để khỏi ngủ gà ngủ gật sau nhiều đêm làm bạn với trời nước buồn thiu - đội trưởng ném vội xuống biển, và dõng dạc ra lịnh:

- Báo cáo ngay với phòng chỉ huy.

Tức thời nội vụ được chuyển ngay tới phòng chỉ huy:

- Alô, alô, một phi cơ lạ bay rất thấp, gần sát mặt biển, không đèn hiệu...

Câu nói ngắn ngủi như trái lựu đạn nổ trong ca-bin làm toàn thể giật bắn người. Đại uý chỉ huy khoái đỉnh tuần tiễu nhắc lại, giọng chứa đầy kinh ngạc xen lẫn sợ hãi:

- Phi cơ lạ ư? Vậy hả? Gọi ngay về Trung ương.

Rồi hỏi thuộc viên:

- Biết rõ vị trí chưa?

- Thưa rồi. Độ cao dêrô. Hướng bay 60. Tốc độ có lẽ trên Mach 2.

- Trên Mach 2?

- Vâng.

- Đúng rồi. Đó là chiếc VTOL cất cánh từ mẫu hạm. Trung ương vừa cho biết chiếc VTOL rời khỏi đường bay đã định và bay mất tích. Không thể tin là phi cơ địch cưỡng bách nó phải đi theo, vì bên mình nó luôn luôn có 6 khu trục cơ hộ tống, được võ trang vô cùng hùng hậu. Vả lại, phi cơ địch khó thể bay kịp nó. Trừ phi...

- Nếu nó phản bội thì nguy... Vì tìm một chiếc phi cơ trên trời ban đêm khác nào mò kim đáy biển, nhất là trời đang chuyển bão. Vả lại, riêng tốc độ trên Mach 2 đã giúp phi công trốn thoát dễ dàng.

Những phát đạn hỏa châu sáng rực tiếp tục được bắn lên không trung tối đen như phết bằng hắc ín. Đại uý chỉ huy khoái đỉnh thét trong máy vi âm:

- Nó đâu rồi? Tìm được nó chưa?

“Nó” là chiếc VTOL xuất quỷ nhập thần của điệp viên Văn Bình. Chàng nghe rõ mồn một mệnh lệnh bên dưới. Dầu tin tưởng, chàng vẫn lo ngại, vì một sự trục trặc bé nhỏ cũng đủ làm kế hoạch của chàng thất bại.

Chàng hy vọng vào bố trí của Triệu Dung, nhưng biết đâu... biết đâu một thủy thủ khôn ngoan của Đệ Thất hạm đội tìm ra chàng, và bộ máy đối phó bắt đầu chuyển động, chiếc VTOL sẽ bị vây kín như con cá tham ăn chui vào rọ. Hơn ai hết, Văn Bình đã biết rõ gía trị của màn lưới phòng thủ kiên cố do Đệ Thất hạm đội Hoa Kỳ bủa trên mặt biển, chung quanh hàng không mẫu hạm ZZ.

Nhưng dầu sao, chàng vẫn không thể thay đổi ý định... Giờ đây, chàng đành tin vào định mạng, định mạng éo le...

Lịnh của pháo đài chuyển tới mọi đơn vị bố phòng kêu vang trong mũ nghe vô tuyến:

- Alô... Trung ương ZZ ra lịnh cho toàn thể đơn vị trực thuộc... Alô... Trung ương ra lịnh cho toàn thể đơn vị trực thuộc... Chiếc VTOL thí nghiệm đang rời đường bay đã định. Bằng bất cứ phương tiện nào, phải ngăn cản, bắt phi công về. Nếu không, được toàn quyền bắn hạ. Nếu không, được toàn quyến bắn hạ bằng hỏa tiễn... Tôi nhắc lại...

Văn Bình lạnh toát xương sống.

Lịnh của Trung ương đã rõ như ban ngày. Đoàn phi cơ tuần tiễu và khu trục sẽ dùng đại liên bắn chặn đuờng, bắt chàng quay mũi. Nếu chàng bất tuân - và dĩ nhiên là chàng bất tuân - họ sẽ phóng hỏa tiễn. Hôm đâù, tới gần pháo đéi ZZ, Văn Bình thoát khỏi hỏa tiễn, phần vì tỉnh táo, phần khác vì may mắn, vô cùng may mắn. Chàng vẫn tiếp tục tỉnh táo, song không tin là thần May mắn tiếp tục độ trí cho chàng nữa. Vì chàng có thể lừa được một hỏa tiễn, nhưng không thể lừa được cùng một lúc nhiều hỏa tiễn kinhkhủang cùng được bắn ra, tự động tìm mục phiêu bằng sóng điện tử bí mật và hồng ngoại tuyến.

Tuy nhiên, Văn Bình vừa tìm được một đồng minh đắc lực: sóng gió ban đêm.

Với trời giông tố hãi hùng như đêm nay, không gian tối đui như mực tàu, hàng ngàn, hàng vạn đợt sóng khổng lồ kêu thét, đoàn phi cơ rượt bắt chỉ có rất ít hy vọng tìm ra chàng. Chàng lại được lới điểm bay nhanh và bay sát mặt nước.

Song niềm vui chỉ thoáng qua trong lòng chàng. Trong máy vô tuyến, một giọng nói lạ, chắc nịch vừa cất lên:

- Alô, quan sát viên radar báo cáo với đài kiểm soát. Tôi vứa tìm thấy nó, hướng bay 305 độ, độ cao phỏng chừng 300 mét, tốc đồ 1.500 cây số giờ...

Tiếp theo là tiếng “Ồ”, rồi:

- Đúng rồi. Đúng nó rồi. Hãy tiếp tục theo dõi từng giây, từng phút. Tôi sẽ báo động cấp thời với phi đội khu trục đang tuần tiễu trên không phận...

Im lặng một phút.

Một phút đồng hồ dài giắng dặc khiến Văn Bình toát mồ hôi, tưởng như một giờ.

Một tiếng nói khác tràn ngập phòng phi hành:

- Alô, đây là phi cơ tuần tiễu radar... Cần liên lạc gấp với phi cơ hướng bay 305 độ, độ cao 300 mét, tốc độ 1.500 cây số giờ... Yêu cầu trả lời ngay. Yêu cầu trả lời ngay.

Văn Bình vẫn nín thinh.

Nhưng tiến nói tiếp theo làm chàng rợn tóc gáy:

- Phi cơ tuần tiễu radar yêu cầu phi cơ thí nghiệm VTOL chú ý... Với tốc độ 1.500 cây số giờ không thể tiếp tục bay độ cao 300 mét được... Yêu cầu phi công bay cao hơn nữa kẻo gặp tai nạn...

Văn Bình có cảm giác như vừa ra khỏi giấc mộng ghê gớm.Thật vậy, chiếc VTOL là phi cơ thứ nhất trong lịch sử hàng không bay thật nhanh ở độ cao thật thấp, song chưa bao giờ xuống đến 300 mét. Trong vài phút nữa, phi cơ mất sức đẩy của không khì sẽ rớt xuống biển như một tảng đá lớn.

Văn Bình phải bay sát mặt biển để tránh luống mắt radar vô hình. Giờ đây, chàng không cần giữ kẽ nữa. Dầu sao, phi đội tuần tiễu đã khám phá ra. Chàng đành tẩu thoát bằng cách bay thật cao, với một tốc độ kinh hồn.

Phi công VTOL được mặc bộ quần áo riêng, gần giống của phi hành gia không gian, đủ sức chống lại thay đổi áp lực không khí. Đầu tiên là đồ lót bằng len nhân tạo, rồi đến một lớp quần áo mỏng có tác dụng hút chất nóng từ cơ thể toát ra, sau đến quần áo may liền với nhau bằng cao su ni lông, nhiều chỗ được bơm hơi như trái banh, bảo vệ cho phi công khỏi bị thương tích. Ngoài cao su ni lông là một lớp vải dầy và sau cùng là một lớp nhom ni lông óng ánh bạc.

Trong khi bay, bộ đồ phi hàng được chất a-dốt (đạm) giữ cho khỏi nóng. Một bình dưỡng khí đặc biệt được gắn liền, trong trường hợp phi công phải bấm nút cho ghế bay ra ngoài, dưỡng khí này sẽ bảo đảm cho phi công khỏi ngạt thở cho đến lúc dù chấm đất.

Như thường lệ, trước giờ khởi hành, Văn Bình đã kiểm soát kỹ lưỡng bộ đồ phi hàng. Một ca-bin lớn ở đuôi hàng không mẫu hạm được biến thành phòng thử quần áo không gian. Với sự giúp đở của Triệu Dung, chàng đã dúng tay chân vào một cái thùng riêng để xem có chỗ nào hở. Chàng nỗi tiếng là mặc quần áo nhanh như đua xe hơi - Thắt nơ hoặc cà-vạt đúp chỉ mất 5 giây đồng hồ phù du - vậy mà phải đứng yên như phỗng đá, bồ hôi chảy ròng ròng khắp châu thân trong vòng 25 phút, phải, đúng 25 phút, thời gian cần thiết tối thiểu để mặc 5 lớp y phục phi hành đặc biệt.

Trong chớp nắt, Văn Bình đã vượt tới Mach 2, quá 2.000 cây số giờ.

Chiếc VTOL độc nhất vô nhị này được chế tạo bằng một hợp kim riêng, gần giống chất Inconel X của phi cơ thí nghiệm cách mạng X-15 của Hoa Kỳ. Hợp kim Inconel X do kền mà ra và có khả năng chịu đựng sức nóng ghê gớm mà không bị mềm hoặc chảy như đồng, sắt và thép.

Văn Bình lên cao nữa, cao hơn nữa. Tốc độ mỗi phút một gia tăng. Lòng chàng trở nên lăng lăng như gột hết bụi trần. Chàng lững lơ bay vào không gian mênh mông, trong khoảnh khắc quên bẵng mọi nguy hiểm đang rình rập tứ phía. Cảm giác thoải mái lạ lùng này thường xẫy ra cho phi công bay trên độ cao bất thường, như phi cơ X-15.

Trong quá khứ, đã có lần Văn Bình ngồi trên X-15 vời tốc độ 6.000 cây số giờ và bay khỏi mặt đất 94 cây số [13]. Trên X-15, thời gian dường như không còn nữa, mà chỉ còn không gian vô tận và bất diệt. Chiếc máy bay mũi nhọn được sơn một lớp sơn riêng, thay đổi màu sắc tùy theo nhiệt độ bên ngoài. Từ thượng tầng vũ trụ trở lại bầu không khí bao quanh trái đất, phi cơ bị không khí cọ sát mạnh mẽ, nhiệt luợng tăng thêm 370 độ, màu lục của phi cơ trở thành màu xanh, rồi sang màu vàng, màu đen, trước khi chuyễn qua màu nâu sẫm.

Tuy nhiên, thực tế phũ phàng không cho phép Văn Bình mơ mộng, bâng khuân nữa. Phi đội tuần tiễu trang bị vỗ khí tối tân - tối tân đến nỗi có người nói rằng một con chim bay trong không gian cũng không thoát khỏi hàng rào đạn lửa - đã dàn thành hàng ngang phía trước. Tối như hũ nút, phi đội tuần tiễu xung trận bằng radar.

Rồi tiếng nói quái ác - tiếng mà Văn Bình không thích nghe, nhất là trong lúc này - cất lên trong máy ghi âm:

- Yêu cầu phi cơ VTOL chú ý, yêu cầu phi cơ VTOL chú ý... Bạn đang bị vây chặt. 4 hướng đông, tây, nam bắc đều có phi đội khu trục. Chúng tôi được lịnh rõ rệt là khai hỏa vào bạn. Loại súng của chúng tôi hoạt động bằng hồng ngoại tuyến, nghĩa là bắn không cần nhắm, không cần biết mục phiêu gần hay xa, nghĩa là hễ bắn là trúng đích. Ngoài đại bác đặc biệt ra, phi đội khu trục còn được trang bị hỏa tiễn không không. Chỉ cần một phát hỏa tiễn đủ làm phi cơ VTOL của bạn tan xác... Alô, phi công VTOL hãy nghe lời chúng tôi... alô... Hãy tuân lịnh trở về căn cứ... Alô...Alô...

Văn Bình ở vào tình trạng nan giải: xuống thấp, sát mặt biển, chàng sẽ tránh được radar, song lại không bay được với tốc độ siêu thanh; lên thật cao, chàng sẽ bỏ rơi được đội khu trục song lại không thoát khỏi màn lưới radar và nhất là hỏa tiễn không không, loại tên đặn độc nhất vô nhị có thể tiêu diệt mọi mục phiêu ở tầng cao.

Ngay khi ấy, nhiều mẩu nói chuyện giữa các phi công tuần tiễu lọt vào tai Văn Bình:

- Alô, Thiên Thai 35 gọi Thiên Thai chỉ huy, tôi đã nhìn thấy nó trên màn radar.

- Đúng không?

<