← Quay lại trang sách

- 6 -

Lúc này Sài Gòn đang chớm vào ngày hè chang chang nắng. Mùa thi đang nhích lại gần. Là học sinh lớp đệ nhị- lớp cuối cấp của trung học đệ nhị cấp, An sắp phải bước vào mùa thi đầy thách đố như thể cá chép vượt cửa Vũ môn. Không dốc lực cho bài vở trong năm học then chốt này đồng nghĩa với phiêu lưu, giỡn đùa trong học tập. Vượt qua kỳ thi để có trong tay tấm bằng Tú tài phần I là mơ ước của trăm ngàn học sinh lớp đệ nhị.

Thế mà, sáng cắp sách đến trường, buổi chiều An cũng như hầu hết học sinh trong trại di cư Phú Thọ phải tỏa ra các đường phố Sài Gòn để kiếm thêm đồng tiền. An đi bán báo. Bán báo để có tiền ăn sáng để mua áo quần. Bởi trong trại, mỗi học sinh hàng tháng chỉ được cấp phát vẻn vẹn 90 đồng.

Ở độ tuổi mười tám, mười chín như An thì nhu cầu ăn mặc là cả một vấn đề, phải có giải pháp thỏa đáng. Những buổi chiều phải đi bán báo, không giống với đi bách bộ dạo mát, đôi chân phải guồng nhanh trên mặt phố và hẻm ngõ, len lách trong dòng người và xe cộ dưới trời đầy nắng. Đoạn đường phải qua năm, bảy phố, mấy chục ngõ hẻm, rao mỏi miệng, chân rã rời.

Đất trời Sài Gòn thời tiết không giống với vùng quê Bắc bộ. Mùa mưa, bốn năm giờ chiều, gió sông gió biển như ùa vào các mặt phố ven sông. Sài Gòn nhiều gió và dễ mưa vào buổi chiều. Gió biển mang hơi nước tràn vào như thể gió từ cánh đồng biển cả ùa vào thôn xóm là phố phường Sài Gòn, làm nên những cơn mưa dông. Mưa Sài Gòn sập xuống vào buổi chiều vừa to vừa nhanh như ngựa phi nước đại.

Bán báo mà đợi cho tạnh mưa rồi thủng thẳng mà bước thì cầm chắc là ế ẩm, đành phải đội mưa mà đi. Đã có những buổi chiều vì thế áo quần sũng nước, người nhiễm lạnh. An bị cảm nặng, chỉ mơ một nồi nước xông, hộp cao con hổ như thuở ấu thơ mẹ đã từng chữa như thế và tay mẹ nhè nhẹ bóp đầu, bóp trán cho An. Bỗng thèm mái ấm gia đình. Chao ôi! Sao mà nhớ mẹ và nhớ cả đàn em nhỏ dại ở đất Bắc đến thế, từng gương mặt người thân yêu hiển hiện...

Chỉ đến khi hàng ngàn bóng đèn điện đủ cấc loại trên đường phố đã bật sáng, An mới trở về trại. Quần áo dính dấp mồ hôi và bụi bặm, phải tắm giặt mau lẹ để vào bữa ăn chiều nhiều rau ít cá, ít thịt. Nếu được ăn thêm một hai bát cơm nữa, dù là cơm rau dưa cũng sẽ ăn hết một cách ngon lành. Cơm xong, kim đồng hồ đã nhích đến con số tám, đôi khi đã là tám rưỡi.

Giờ này, tất cả các ô cửa sổ, cửa chùng của trại học sinh di cư Phú Thọ bừng sáng ánh điện, học sinh tại các căn phòng đang chúi mũi vào sách vở để chuẩn bị cho buổi học ngày mai. Những ô ánh sáng hình chữ nhật đều tăm tắp của các khuôn cửa sát bên nhau, sóng hàng cùng nhau như để giao lưu tâm tình với canh khuya bằng thứ ngôn ngữ ánh sáng màu vàng nhạt.

Nếu tiếp tục đi bán báo rồi ăn cơm muộn thì quỹ thời gian giành cho học tập sẽ là không đủ với học sinh trung học, và sẽ là vô cùng eo hẹp cho học sinh cuối cấp sắp bước vào thi cử. Bài vở chồng chất, thuộc định lý, hệ quả, nắm sơ bộ được lý thuyết, hiểu công thức là xoay sang làm bài tập. Làm bài tập Toán trước rồi đến bài tập Hóa, bài tập Lý… Chuông đồng hồ thong thả điểm 12 giờ như nhắc nhở An đã đến giờ đi ngủ, đồng thời như cảnh báo rằng bài tập vẫn chưa hòan thành. Sáng hôm sau phải dậy từ bốn rưỡi để học Sử học Địa và “xào nấu” lại bài học tối hôm qua. Không thiếu những buổi sáng ngủ say như chết, chẳng nghe rõ chuông đồng hồ báo thức. Và chỉ đến khi cả trại học sinh đã như đàn ong vỡ tổ bị cuốn vào guồng quay của buổi sớm mai, An mới hốt hoảng choàng dậy. Chỉ kịp rửa mặt, súc miệng là vội cắp cặp đến trường. Giờ kiểm tra bài hôm ấy lo thon thót, không khác gì bị cực hình tra tấn tinh thần. Ngọn bút của thầy dò tìm tên học sinh trên trang sổ điểm mà tim đập loạn nhịp. Cầu mong thầy lướt qua tên mình, đừng gọi, đừng kiểm tra em trong tiết học này. Bởi không thuộc bài nên trả lời thầy ú a ú ớ, đứng ngây như ngỗng ỉa trên bảng thật là xấu hổ, ngượng với bạn nhất là bạn gái. Trên đời này, hỏi có ai không sĩ diện nếu không muốn nói bằng cái từ đẹp đẽ là tự trọng?

Chỉ còn một tháng nữa là bước vào kỳ thi Tú tài phần I, cảm giác 9 tháng học tập của năm đệ nhị trôi mau lẹ hơn 9 tháng của những niên học đã qua. Bây giờ An thấy lo. Môn học xã hội phải thuộc lòng, lo hơn các môn tự nhiên dù rằng, hàng tháng An vẫn được xếp loại là học sinh khá trong lớp. Chỉ duy môn Toán là anh hoàn toàn yên tâm. Môn Toán là sở đoản và cũng là sở trường năng khiếu của An. Không có một học sinh nào trong lớp qua mặt được anh về môn học này.

Và rồi, tiếng ve kim thanh mảnh đã bắt đầu dạo khúc mở màn của bản nhạc mùa hè trên những tán lá, lùm cây xanh mướt. Nắng có chiếu gay gắt hơn. Nghe tiếng ve, cảm giác như âm thanh báo động kỳ thi đang thập thò trước cửa ngày hè. Thời gian như thúc bách An quyết định chấm dứt ngay những buổi chiều bán báo. Và như thế cũng đồng nghĩa với nhịn ăn buổi sáng trước kỳ thi nóng bỏng.

Kỳ thi Tú tài phần I được tiến hành vào cuối năm học cho học sinh Đệ Nhị của các trường quốc lập và tư thục trên toàn cõi miền Nam (gọi là Việt Nam cộng hòa). Đề thi được hoạch định trên cơ sở kiến thức căn bản của lớp đệ nhị và chương trình trung học đệ nhị cấp. Tuy không phải là kiến thức “gài bẫy” đánh đố thí sinh nhưng hoàn toàn không dễ dãi. Bởi vậy, sau mỗi buổi thi, người vui, kẻ buồn không hơn kém nhau là bao nhiêu. Những tà áo dài thướt tha đủ màu của nữ sinh làm đẹp cho phòng thi, kỳ thi. Nhưng chính những chủ nhân của những tà áo dài duyên dáng ấy lại phải buồn bã ủ ê bởi họ phải cắn bút, đầu hàng trước đề thi hóc búa. Giọt nước mắt phần nhiều là của nữ sinh hoen trên gò má. Người này khóc, kẻ kia khóc theo như một phản ứng dây truyền. Nhìn những giọt nước mắt buồn tủi, người rắn lòng cũng phải buồn theo, không vui lên được, chỉ còn cám cảnh lắc đầu chép miệng: “Học tài thi phận”. Buồn thay, chỉ sau ngày thi thứ nhất, mấy tờ báo hàng ngày của Sài Gòn đã giật hàng tít lớn, vớt được xác sĩ tử thi Tú tài trên sông Sài Gòn. Bài báo tường thuật tỉ mỉ vụ tự sát, gieo mình trên sông.

Thí sinh không làm được bài, uất quá đã trẫm mình trên dòng sông sâu để hóa giải nỗi buồn thi cử? Đúng như thi sĩ lừng danh Tú Xương đã từng chiêm nghiệm trong vần thơ bất hủ của mình: “Đệ nhất buồn là cái hỏng thi”. Và rằng: “Thi không ăn ớt thế mà cay”.

Sau ngày thi thứ nhất rồi ngày thi thứ hai và kết thúc kỳ thi, không một ngày nào chú Hòa không phóng xe máy từ ký túc Đại học xá Minh Mạng đến trại học sinh di cư Phú Thọ để hỏi han kết quả làm bài của An. Nhận ra nét mặt thư thái, tự tin, nụ cười vui, tươi tắn, chú đoán, cháu mình làm bài thi không mấy khó khăn. An đưa cho chú xem đề thi và bài giải nháp của mình cho chú Hòa kiểm định. Hòa xem đề bài, đọc cách giải, dõi từng phép tính, dò độ chính xác của từng con số và đáp số cuối cùng của các môn thi tự nhiên. Chú cười, gật đầu, cháu làm đúng. Các đề thi môn xã hội, An cũng đưa cho chú Hòa xem và nói cặn kẽ bài viết của mình dài bốn trang giấy thi. Hai chú cháu cùng làm giám khảo thẩm định, bằng cách lật sách giáo khoa để đối chiếu sự chính xác của sự kiên, luận cứ, luận chứng…Chú Hòa bảo, bài thi không nhiều sai sót. Sau mỗi ngày thi, chú cháu đèo nhau, tìm đến ăn ở tiệm phở nổi tiếng ở đường Pasteur. Chú thưởng cho bát phở thơm lừng mùi nước dùng nghi ngút khói. Mùi hành, chanh, thảo quả đến nức mũi.

An đỗ Tú tài I với hạng bình thứ. Cầm bằng Tú tài trong tay, An cũng giống như các cô, cậu Tú hớn hở, lòng vui như mở hội. Có bằng Tú tài I, học thêm một năm để lấy bằng Tú tài II, và thế là cánh cửa Cao đẳng, Đại học rộng mở. Các bậc phụ huynh có con em thi đỗ tú tài cũng vui mừng không kém. Nhà giàu có con em thi đậu, bầy cỗ bàn, báo tin vui với bè bạn, thưởng cho con một tuần tắm biển Vũng Tàu hoặc du ngoạn Đà Lạt. Nhà nghèo phấn khởi loan tin vui với thân nhân họ hàng. Chú Hòa, bá Hoán và vài người họ hàng đều là dân miền Bắc di cư biết An đỗ Tú tài. Bá Hoán giết gà ăn mừng. Bữa ăn, Bá gắp cho An đầy bát, ép An ăn thịt gà đến căng bụng. Gương mạt Bá rạng ngời. Nhìn ánh mắt, nụ cười vui, hàm răng đen đều đặn, đen nhánh như những hạt na xếp bên nhau, An thầm ao ước, giá mà mẹ cũng có được niềm vui như Bá Hoán lúc này, biết con thi đỗ Tú tài chắc mẹ mừng lắm. Thế nào mẹ cũng loan tin với thân nhân họ hàng. An bỗng nhớ ngày chia tay đầy nước mắt ở bến cảng Hải Phòng, mẹ dặn: “Cố mà học”. Chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng là mệnh lệnh của mẹ. Bây giờ không có cách nào để báo tin vui với mẹ. Và rồi đây nữa sẽ không có một thành công và thất bại nào trong cuộc đời con được mẹ chia sẻ. Hai miền Nam Bắc giờ đây là hai phương trời biệt lập, bặt vô âm tín của thân nhân gia đình.

Mấy buổi chiều hè rỗi rãi, bạn bè rủ An đi chơi, thả bộ dọc theo đường Tự Do từ nhà thờ Đức Bà đến bờ sông Sài Gòn đẻ được thảnh thơi thư giãn. Hết tốp học sinh này đến tốp học sinh khác dạo chơi, trò chuyện vuii vẻ bên bờ sông. Nhiều người cởi tung cúc ngực để đón những làn gió mát mang hơi nước đều đặn từ mặt sông ùa vào, thật dễ chịu. Tâm trạng nhẹ thênh thênh khiến người ta dễ nói dễ cười.

Có bằng Tú tài I trong tay, ai cũng vui như người được mùa gặt hái. Vượt qua kỳ thi đầy thử thách như vừa trút được gánh nặng trên đường dài gai góc. Bạn bè rủ nhau vào nhà hàng tầm tầm, mãi 11 giờ đêm mới lê dép về trại. Ánh đèn từ những ô cửa lúc này như ánh mắt thao thức, lặng lẽ trong đêm hè. Đặt mình xuống giường, An chưa ngủ được, ngồi dậy, với tay mở va-li lấy ra một tập bưu thiếp màu vàng nhạt của mẹ và các em đã gửi từ hai năm về trước mà anh vẫn giữ. Đã hai năm nay, nhà đương cục hai miền không phát hành và không nhận chuyển những tờ bưu thiếp bởi quan hệ bưu chính hai miền đã hoàn toàn cắt đứt. Đọc lại những tờ bưu thiếp cũ, An cố hình dung, tưởng tượng cuộc sống của mẹ và các em ở đất Bắc lúc này. Mẹ bây giờ vẫn vất vả nhọc nhằn làm phu mỏ, ráng sức nuôi các con. Các em đã lớn thêm ba, bốn tuổi. Có đứa đã cắp sách đến trường tiểu học.

Ước gì được là cánh chim trời, bay ngay ra Bắc để được gặp mẹ và các em, báo tin vui với mẹ.Nỗi nhớ lan man đẩy An về sống trong hồi tưởng với bao hình ảnh gần gũi, giờ này đã trở thành những hoài niệm chôn sâu trong ký ức. Căn nhà xưa nơi quê nhà có sân gạch, tường hoa. Cây mít dai đầu ngõ mới bói, lưa thưa quả trên thân trên cành. Cây mít mật đầu hồi nhà, quả mọc chen chúc nhau từ gốc đến ngang thân. Mít chín vào mùa hè, na chín chớm thu. Mảnh vườn nhỏ trước sân trồng chè và mấy khóm dứa. Vườn sau trồng chanh, khế. Góc vườn là cây xoan, trên cành cao, mùa hè đặt nơm làm tổ cho sáo đen. Cây sung la đà bờ ao, quả chín đỏ rụng, nổi lềnh bềnh mặt nước. Cây vối cạnh cầu ao nhiều sâu róm. Phút giây dâng ngập nỗi nhớ của kẻ sống tha hương…Ngôi nhà gỗ năm gian đã bị lính Pháp, lính Bảo Hoàng thiêu trụi. Ruộng vườn bây giờ người ta đã trưng thu trưng mua. An thở dài buồn bã. Không còn có điều kiện và cơ hội nào cho mẹ và các em trở về quê nữa. Hoài niệm đọng đầy những nỗi nhớ, những kỷ niệm đẹp mà buồn. Và rồi, ngẫu nhiên An lại chợt nhớ giấc mơ thật lạ lùng đến với mình cách đây đã lâu. An mơ thấy Thương người bạn gái của mình thuở còn học trường Trung Linh. Ngày lấy chồng em rưng rưng nước mắt nhìn An như có điều muốn giãi bày lòng mình. Em nghẹn ngào trong nước mắt: “Đời em buồn tủi lắm, lấy chồng mà chẳng có tình yêu”. An không thể hiểu nổi vì sao đi lấy chồng mà Thương lại buồn đau đến thế.

Ba tháng hè trôi di mau lẹ theo tiếng ve ngân. Đường phố vẫn chan hòa ánh nắng nhưng không còn nghe thấy âm thanh thanh mảnh của lũ ve kim choai choai. Chỉ còn lưa thưa tiếng ve lanh lảnh của tụi ve già, âm thanh ngập ngừng như đứt ra từng khúc. Phải chọn một trong hai con đường đang hiện hình ngay trước mắt. Nếu theo ngả đường thứ nhất, tiếp tục cắp sách đến trường ư? An đã viết xong lá đơn xin vào học lớp đệ nhất trường Chu Văn An để cuối năm học thi Tú tài phần II. Khi có bằng Tú tài II là đã đặt được một bàn chân vào ngưỡng cửa Cao đẳng hoặc Đại học. Và rồi học xong Đại học, cánh cửa cuộc đời đầy hứa hẹn sẽ mở rộng. Được cầm trong tay tấm bằng Cử nhân, trở thành bác sỹ, kỹ sư, luật sư… là hoài bão của tuổi học đường là mơ ước khát vọng của sinh viên rời ghế nhà trường. Mười người thì chín người muốn học lên. Sự thành đạt của đời người lệ thuộc rất nhiều ở chặng đường học tập.

Thế mà An vẫn đắn đo, chưa muốn nộp lá đơn kia. Nhìn lá đơn đặt trên bàn, lòng nặng ưu tư, An không vui lên được. Cái khó với An không phải là gian khổ học hành, thi cử thách thức mà là nguồn tài chính để duy trì cho việc ăn học từ nay đến hết bậc Đại học. Nếu chỉ phải nhờ vả trong vòng một năm để học lấy bằng Tú tài II đã là một khó khăn. Thế rồi, lại phải tiếp tục nhờ vả bốn, năm năm nữa ở chặng đường Đại học để lấy bằng Cử nhân nữa chứ. Học bổng ít ỏi làm sao đủ cho chi dùng - An nghĩ.

Phải nhờ Bá Hoán, chị ruột của mẹ mình chăng? Có lẽ Bá sẽ không từ chối. Sống độc thân, không chồng, không con, lấy cháu làm con. An thương Bá như thương mẹ. Ngày ngày, Bá quẩy gánh hàng rong, vai phải u lên thành bướu, chân Bá rã rời nơi ngõ hẻm sâu hun hút giữa chốn đô thành hoa lệ để kiếm kế sinh nhai. Mỗi lần hạ gánh hàng xuống đất, chiếc nón trong tay Bá lại cần mẫn chao lên hạ xuống vào khoảng không như muốn múc những làn gió mát đổ lên thân người. Mồ hôi đổi lấy miếng ăn. An biết rõ lắm, đường phố Sài Gòn không ít trộm cắp vặt. Có kẻ móc tiền trong túi, có đứa nhanh tay lấy cắp hàng hóa. Có người mua nợ, khất lần rồi lặn mất tăm. Vậy mà Bá không than thở, bởi chẳng ích gì. Mỗi lần gặp An, thương cháu thiếu thốn, mắt Bá rưng rưng, cho An đồng quà tấm bánh, dúi vào túi mươi đồng. Những người như Bá thường sống dè sẻn để dành dụm, phòng tuổi cao sức yếu sẽ phải chi tiêu nhiều khoản.

An nhận tình thương ở Bá nhưng lại không muốn và không nỡ lòng thụ hưởng đồng tiền dành dụm, lạm dụng lòng tốt dù rằng mỗi lần bên Bá lòng anh ấm lại.

Còn chú Hòa? Vài tháng nữa là tốt nghiệp ra trường với bằng Kỹ sư công chánh. Tuần trước, hai chú cháu rủ nhau dạo chơi công viên Tao Đàn, Hòa bày tỏ, chú sắp ra trường, cuộc sống sẽ dễ thở hơn nên có điều kiện tài trợ cho cháu, mong muốn An sẽ thành tài. An xúc động, lặng lẽ thả bước. Chú tiếp lời, giọng thân tình, đầm ấm mà giản dị: “Từ nay về sau, chú muốn gánh phần trách nhiệm thay bố mẹ cháu, lo cho An trên bước đường học tập”. An vẫn im lặng. Chú chậm rãi tâm tình, trên đất khách quê người này, chú cháu mình phải cuốn túm lấy nhau, còn ai thân thiết hơn nữa đâu. Hòa rút khăn mùi xoa thấm giọt nước mắt trào ra nơi mí mắt như muốn thấm khô cả nỗi cô đơn ở chính nơi lòng mình. An hiểu lòng chú, ánh mắt rưng rưng cảm kích. Phải rồi, chú đã ý thức được sâu xa tình ruột thịt mà Quốc văn giáo khoa thư dã răn dạy. Anh chợt nhớ câu thành ngữ quý báu, chở đầy trách nhiệm và tình nghĩa của người xưa: “Chú cũng như cha”. Chú hơn An vài tuổi mà đã nghĩ được trách nhiệm cao quý. Giờ này tình cảm quý mến và kính trọng của An đã đắp đầy hố ngăn cách về tuổi tác giữa hai người.

An đã hai mươi tuổi, lòng tự trọng và ý thức tự lập như sát cánh cùng bảo nhau hãy khước từ sự giúp đỡ của thân nhân. Nhờ vả tuy không phải là điều đáng hổ thẹn nhưng ơn huệ sẽ đeo đẳng và có thể còn gây ra những phiền lụy cho người thân. Vả lại, lứa tuổi hai mươi không còn là nhỏ dại nữa rồi. Chẳng nhất thiết cứ phải có bằng cử nhân người ta mới có thể lập thân lập nghiệp. Sớm lo lập thân dù gặp nhiều thách đố cũng là điều nên làm – An nghĩ. Anh thầm biết ơn tấm lòng giàu yêu thương của chú Hòa, Bá Hoán nhưng không thể lạm dụng. Vụ lợi cho mình đồng nghĩa với ích kỷ, chẳng đẹp đẽ gì. An hít một hơi thở cực sâu đến căng lồng ngực như là để mượn khí trời hỗ trợ cho ý định dứt khoát đã chín muồi, anh xé lá đơn xin học lớp đệ nhất. Lại một hơi thở thật sâu nữa, anh thầm nói với chính mình, sẽ chấm dứt con đường cắp sách đến trường. Ta sẽ lập nghiệp theo con đường khác, cho dù gian nan vất vả.

Không phải chỉ có An chọn con đường binh nghiệp. Hàng trăm học sinh ở trại di cư Phú Thọ đã nộp đơn xin học trường Sĩ quan Thủ Đức. Không phải ai cũng được nhà trường chào mời. Họ phải là những người tình nguyện, có bằng trung học đệ nhất cấp hoặc tương đương. Có những học trò giỏi, đứng nhất nhì lớp, vượt qua kỳ thi Tú tài I chẳng mấy khó khăn đã tình nguyện theo học sỹ quan. Vả lại được đào tạo thành sỹ quan chỉ huy, thực hiện sứ mạng bảo vệ quê hương, giữ gìn mảnh đất Việt Nam, có sức hấp dẫn tuổi trẻ đầy nhiệt huyết. Lý tưởng phụng sự Tổ quốc từ hàng nghìn đời nay của con người Việt Nam luôn luôn được đề cao và biết bao người dốc lòng hưởng ứng. Các tờ báo đăng thông cáo chiêu sinh của trường sỹ quan Đà Lạt và sỹ quan Thủ Đức nồng nhiệt cổ vũ cho tinh thần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam cộng hòa. Hơn nữa lập công danh bằng con đường binh nghiệp dễ dàng mơn trớn tính hiệp sỹ vũ dũng, làm bùng lên hứng thú nam nhi. Tuy nhiên, đa phần học sinh di cư ở trại Phú Thọ xin học trường Thủ Đức vì hoàn cảnh thúc ép. Đành rằng mỗi người là một mảnh đời riêng, không ai giống ai, nhưng đều bị chi phối bởi “cái khó bó cái khôn”. Họ không trông cậy được vào nguồn tiếp tế của gia đình. Rất nhiều học sinh giống như An, bố mẹ và gia đình họ đang ở đất Bắc.

An đã khoác áo học sinh sỹ quan trường Thủ Đức.

Trường sỹ quan Thủ Đức được hình thành từ thời giặc Pháp còn chiếm đóng Việt Nam vào năm 1951 nhằm đào tạo sỹ quan người Việt phục vụ trong những đơn vị quân đội người Việt là Bảo chính đoàn và Bảo an đoàn sát cánh cùng quân Pháp. Ngày ấy, trường còn là những dãy nhà lá, tọa lạc trên dãy đồi thấp thuộc một xã của một quận tỉnh Gia Định ( cũ ). Sau năm 1955, nói chính xác hơn là vào năm 1957, trường đổi tên thành “Liên trường Võ khoa Thủ Đức”. Cùng với trường “Võ bị quốc gia Đà Lạt”, trường Thủ Đức đào tạo nhiều chuyên khoa quân sự: bộ binh, công binh, pháo binh, thiết giáp, truyền tin, quân cụ… Nhà trường được xây dựng bề thế thay cho nhà mái lá. Những dãy nhà xây dài, rộng cho khóa sinh lưu trú, nối hàng nhau. Từ năm 1955 mỗi khóa đón nhận hàng ngàn khóa sinh. Những dãy nhà mới cùng với hàng loạt sân, bãi tập với nhiều trang thiết bị trực quan của Pháp, của Mỹ để phục vụ cho huấn luyện, như mô hình, bia, xe, pháo, quân cụ thực hành biến trường Thủ Đức thành trung tâm huấn luyện quân sự qui mô, được khép kín.

Từ ngày nhập trường, khoác áo khóa sinh sỹ quan, An có chút hãnh diện. Người Thủ Đức và người dân Sài Gòn nhìn những thanh niên trai trẻ mang trang phục trường võ khoa, họ nhận ra những sỹ quan tương lại của Việt Nam cộng hòa. Ánh mắt họ có chút tò mò lại vừa như chào hỏi.

Vốn là một thanh niên có sức vóc, thân hình cân đối, cao tầm mét bẩy, bây giờ mang trang phục người lính, trông anh chững chạc, rắn rỏi như một quân nhân dạn dày đã sẵn mang duyên nợ với cuộc đời binh nghiệp. Sau một tuần huấn luyện bộ binh căn bản trên sân bãi, dưới nắng mặt trơì oi bức, nước da trên gương mặt chữ điền của An đã ngả màu bánh mật, ánh mắt lộ nguyên vẻ linh lợi, sáng sủa.

Sau ngày nhập trường Thủ Đức, miếng cơm manh áo không còn là nỗi băn khoăn thường trực nữa, khiến cho cuộc sống, sinh hoạt thường nhật có phần nhẹ nhõm dễ chịu hơn với An.

Sáng chủ nhật, anh xin phép cấp chỉ huy cho về thăm Bá Hoán. Đặt chân đến Sài Gòn, An bước đi trong trang phục khóa sinh sỹ quan một cách tự tin. Vài cô gái, họ là nữ sinh trung học, là chủ nhà hàng, là người đứng bán hàng, tò mò nhìn bộ trang phục học viên sỹ quan, đặc biệt để mắt tới vóc dáng chững chạc, khỏe khoắn của chàng trai. Tuy rằng An không phải là trung tâm chú ý của mọi người nhưng ánh mắt của họ không thờ ơ, vô cảm với anh, không lạnh lùng với chàng trai dấn thân trên con đường binh nghiệp, khiến lòng anh thư thái.

Bá Hoán mừng rỡ đón cháu. Bá chằm chặp nhìn bộ trang phục và nước da bánh mật của An như dò hỏi sự đổi thay bất ngờ của chau. Bà hỏi An:

- Con mới đi lính à?

- Dạ

- Người ta bắt con vào lính phải không?

An đắn đo chưa trả lời, tuy rằng không muốn giấu giếm sự thật với Bá, người mà anh quý trọng như mẹ đẻ của mình, nhưng anh chưa muốn nói rõ sự thật rằng mình đã tình nguyện mặc áo lính, theo đường binh nghiệp. Biết sự thật này chắc Bá không vui, An đành miễn cưỡng gật đầu: “Dạ”. Gương mặt Bá rầu rầu, ánh mắt phiền muộn hiển hiện nỗi buồn. Có lẽ trên đời này, không có mấy người mẹ, người phụ nữ nào muốn chồng, con, cháu mình khoác áo lính chiến. Bởi đời lính gắn liền với gian lao, kề cận với súng đạn và hành động của người lính như đồng lõa với bắn giết đốt phá. Bá chưa thể hiểu người lính làm nhiệm vụ bảo vệ quê hương giữ gìn cuộc sống bình yên. Đời Bá đã chứng kiến cảnh bạo tàn, lính Pháp lính Bảo hoàng đốt phá làng mạc, bắn giết du kích Việt Minh và người lương thiện. Bao người nông dân hiền lành, lam lũ trên cánh đồng hai sương một nắng đã bị lính tráng giết hại.

An nói với Bá Hoán:

- Con đang theo học trường sỹ quan.

Giọng Bá pha trộn châm biếm và chê trách:

- Để ra làm quan à? Không kiếm được việc gì khác ư?

- Học xong con sẽ là sỹ quan, cấp chỉ huy của lính.

Bá ngước nhìn An, phần nào hình dung công việc mà An sẽ làm trong tương lai không xa, Bá chậm rãi nói với An cái điều suy nghĩ giản dị.

- Sau này đừng cho lính của con làm những điều thất đức.

Bá không ngờ rằng, chính lời nói bình dị hồn nhiên của một tín đồ đạo Phật là Bá đã tác động mạnh mẽ, bám vào tâm trí An.

An có ý khoe với Bá, anh chỉ vào tấm phù hiệu gắn trên cánh tay áo tươi cười nói:

- Bá có biết tấm phù hiệu này muốn nhắc nhở điều gì với những người mặc áo như con không?

- Bá biết để làm gì?... Mà muốn để Bá biết thì con cứ nói.

An nhớ lại những điều vị Thiếu tướng hiệu trưởng nhà trường đã giảng giải cho học viên sỹ quan đẻ nói với Bá:

- Phù hiệu này có ba hình màu lồng vào nhau, thứ nhất là hình nền xanh da trời biểu hiện sự thanh khiết và ý chí trong sáng cao cả của thanh niên với quê hương. Thứ hai là ngọn lửa hồng biểu hiện lòng dũng cảm, chí cương quyết, đức hy sinh. Thứ ba là thanh kiếm biểu hiện cho cấp chỉ huy.

Giảng giải xong, An lại thầm cười chế giễu mình, sao lại dông dài với những điều nghe ra mơ hồ, xa lạ với Bá.

Một chiều thứ bảy, An từ trường Thủ Đức về thăm chú Hòa. Đoạn đường phải qua góc phố Bô na ( Lê Lợi ), nơi có nhà hàng mỹ phẩm Pháp, Ý. Bỗng nhiên Hằng – con gái ông chủ hàng, réo lên: “Ba ơi! Anh An kìa”. Ông chủ hàng bỏ đôi kính lão xuống bàn, nheo mắt nhìn theo hướng tay chỉ của con. Khi nhận ra An, ông sốt sắng gọi: “Chú bán báo ơi! À À, chú An ơi vào nhà tôi chơi nào” An quay lại, mỉm cười chào hỏi. Ông chủ vồn vã mời vào nhà chơi. Thật khó từ chối.

Cuộc gặp gỡ bất ngờ làm anh nhớ chuyện đã ba năm về trước. Ngày anh còn là học sinh ở trại di cư Phú Thọ, buổi chiều bán báo qua phố này, con gái ông chủ thường gọi mua tờ báo cho ba. Chiều ấy, Sài Gòn mưa tầm tã, An cắp nách tập báo, ru rú đứng trú mưa ngoài cửa. Ông chủ ái ngại gọi vào, cho An ly nước mát. Kề bên bàn nước là bàn học. Hằng ngồi, cắm cúi tập trung giải bài tập hình học trong chương trình Đệ lục mà cô đang theo học. Loay hoay, cắn đầu bút mãi mà chưa tìm ra cách giải. An tò mò liếc mắt đọc đầu bài. Bài không khó và rồi với tâm lý “cờ ngoài bài trong” rất tự nhiên, anh mách bảo cho Hằng hãy để ý đến mấy dữ kiện đã cho của đề bài. Được sự gợi ý, mắc míu được tháo gỡ mau lẹ, Hằng tìm ra cách giải. Cô reo lên, mắt vui lấp lánh như thể người thám hiểm phát hiện ra miền đất lạ. Đôi mắt huyền lấp lánh nhìn An, pha trộn sự thán phục lẫn ngạc nhiên.

Ba cô gái không khỏi ngạc nhiên, mắt ông mở to ngước nhìn An chăm chú vẻ ngỡ ngàng. Không thể ngờ được chú bán bào kia lại giỏi Toán đến thế, ông đoán chú ta là một học sinh trung học nghèo.

Thế rồi, chính tay ông rót thêm ly nước mát nữa và rút điếu thuốc lá thơm mời An như mời quý khách. Anh từ chối hút thuốc. Ông cảm ơn An và nói, hàng ngày cố qua đây, bán cho toi số báo.

Hàng năm trời bán báo cho ông chủ mỹ phẩm nên Hằng quen An đến nhẵn mặt. Và cũng đã nhiều lần, An giúp Hằng tìm cách giải những bài Toán hình học, đại số. Cô nhìn An với ánh mắt trìu mến. Tuy vậy chưa một lần nào An nhận lời mời ở lại ăn cơm với gia đình Hằng, mặc dù cô ra sức nài nỉ.

Bây giờ Hằng đã 17 tuổi, tóc mượt mà buông phủ bờ vai. Con gái ở lứa tuỏi dậy thì, mau lẹ phổng phao và như chợt đẹp lên như bông hoa đến thì hương sắc quyến rũ làm cho An không khỏi ngỡ ngàng. Trong ấn tượng ghi nhớ của anh, Hằng là nữ sinh nhí nhảnh, chăm học, dễ mến. Anh coi cô như người em gái trên đường.

Giờ đây nước da Hằng mịn màng, mắt lóng lánh với ánh nhìn toát lên tâm hồn đa cảm. Nụ cười, ánh mắt và lời nói dìu dịu giàu ngữ điệu của gái Phương Nam gây ấn tượng với An. Giọng nói như nũng nịu với người thân khiến khoảng cách giữa Hằng và An được thu hẹp, chuyện trò trở nên cởi mở tự nhiên. Đĩa hoa quả: thanh long, chôm chôm màu hồng hồng được lấy ra từ tủ lạnh để tiếp khách trông bắt mắt. Hằng pha cà phê đá mời ba và An. Biết An là học sinh sỹ quan, cô nhìn mãi bộ trang phục, vẻ tò mò thích thú rồi nhìn gương mặt với nước da rám nắng của An, cô nhận xét, anh An bây giờ trông khỏe ra, có dáng thanh niên lắm. Ánh mắt thiện cảm và nụ cười tự nhiên của Hằng khiến An bớt lúng túng. Ông chủ hỏi chuyện gia đình, quê hương, tuổi tác rồi xoay sang hỏi việc tập luyện của An trong trường. An hiểu những câu hỏi ấy có chút tò mò tìm hiểu nhưng chứa đựng sự thân thiện.

Ngồi chơi cũng đã lâu, đến lúc An phải ra về. Để An còn phải quay lại chơi nhà mình, Hằng cầm ra cuốn bài tập Toán lớp đệ tam, mở ra, lấy bút đánh dấu mấy bài rồi nói, anh đã qua Tú tài, mấy bài ôn tập cuối năm này, nhờ anh giải giùm. An nhận cuốn sách nói, phải bận rộn với công việc tập luyện nhưng anh sẽ giải, rồi có dịp sẽ quay lại đây.

Sau này, mỗi lần đến chơi với chú Hòa, đoạn đường phải đi qua phố Lê Lợi, bước ngang qua nhà hàng mỹ phẩm, dù rằng chưa định tạt vào nhà Hằng thì lại chạm mặt ba Hằng hoặc Hằng. Hai người lại vồn vã mời vào chơi làm An vui vui. Đến chơi nhiều lần, thành ra quan hệ giữa Hằng và An trở nên thân thiết gần gũi.

Chủ nhật, An đến thăm chú Hòa, chú hỏi:

- Việc tập luyện trong trường cực lắm thì phải?

- Trường quân sự là một lò tôi luyện con người nên không tránh khỏi cực nhọc, nhưng cháu đã lường trước điều này.

- Thế là tốt, trông cháu rắn rỏi

Dừng trong giây lát, đôi mắt thân tình của chú nhìn thẳng vào mắt An hỏi:

- Thực lòng cháu ham thích trường sỹ quan hơn Đại học dân sự à?

- Với cháu như thế phù hợp hơn.

Một chút nuối tiếc mái trường Đại học vụt đến với An, nhưng rồi anh xua đuổi ngay cái ý nghĩ mộng mơ ấy. Anh cười:

- Cháu không ân hận về việc lựa chọn của mình, vào trường sỹ quan cũng là theo học nhưng là học quân sự.

Từ ngày biết An tình nguyện xin vào võ khoa Thủ Đức, chú Hòa phân vân lắm, lòng nặng ưu tư. Tiếc cho đứa cháu có năng lực học mà lại chọn con đường binh nghiệp. Chú hiểu cá tính nó. An có tính quyết đoán, nó đã định làm việc gì thì khó ai ngăn nổi. Cũng may, từ trước đến nay, nó không làm việc gì nông nổi, dại dột. Bây giờ tốt nhất là lựa lời động viên để cháu cố gắng vượt mình, làm tốt cái công việc mà nó theo đuổi. Chú chậm rãi:

- Chú hiểu, cuộc đời con người có nhiều con đường khác nhau để lập nghiệp. Vấn đề là ý chí và nghị lực. Chú hy vọng An sẽ vượt qua những khó khăn thử thách.

Chuyện trò đã vãn, hai chú cháu rủ nhau ra quán nhậu ăn tối. Ra về, An nói với chú:

- Sau huấn luyện bộ binh cơ bản là giai đoạn học binh khí, kỹ thuật, chiến thuật và còn đi sâu vào chuyên ngành. Cháu sẽ theo học chuyên khoa pháo binh.

- Vì sao cháu lại ưa thích pháo binh.

- Ngày trước được chú kèm cặp cho môn Toán, sau này cháu học khá Toán, mạnh về hình học và lượng giác. Bởi vậy cháu có lợi thế học pháo binh. Hy vọng trải qua huấn luyện cháu sẽ trở thành sỹ quan pháo binh có nghiệp vụ vững vàng.

Giọng nói của An hào hứng, sôi nổi, toát lên sự tự tin, chú Hòa vững tin ở hy vọng và khả năng đạt được của cháu.

Quân trường tề chỉnh đội ngũ tập luyện, hầm hập nắng, không khí luyện binh như thi thố với khí trời oi nóng. Ngoài kia chợ Tăng Nhơn Phú cách bãi tập của trường Võ khoa Thủ Đức không xa. Khu chợ tấp nập, rộn rã, lao xao âm thanh của kẻ mua người bán. Giai điệu bình yên, nhịp thở của đời sống thường nhật như biệt lập hoàn toàn với không khí nghiêm trang của quân trường bãi tập mà An đang tập luyện.

An bước vào giai đoạn huấn luyến nghiệp vụ sỹ quan pháo binh cũng là lúc chú Hòa hân hoan được cấp bằng Kỹ sư công chánh và ngay sau đó được bổ nhiệm làm Phó Ty công chánh Long An, tỉnh này thuộc vùng Đồng Tháp Mười.

Mồ hôi dính dấp áo quần, giọt giọt rơi trên sân bãi chang chang nắng vẫn không làm giảm sự nỗ lực của An khi thực tập nghiệp vụ làm địa hình, xác lập tọa độ đó là những nghiệp vụ cơ bản của sỹ quan Pháo binh. Được làm chủ những cỗ pháo 105 ly, 155 ly đầy uy lực mà tầm bắn có thể với tới mục tiêu tác xạ hàng chục cây số đã kích thích hứng thú của học viên sỹ quan. Việc thực hành hững yếu tố tác xạ, điều chỉnh mục tiêu, thực tập quan sát, dùng khẩu lệnh chuẩn để thi hành tác xạ, dần dần trở nên thuần thục.

An mỉm cười, bằng lòng với kết quả của mình khi làm chủ được các kỹ thuật pháo binh cơ bản. Anh huýt sáo giai điệu tình tứ trong nhạc phẩm của Trịnh Công Sơn đầy hứng khởi. Dóng suy nghĩ trôi chảy, một ngày không xa, trên chiến trường, nòng pháo rung lên nhả đạn. Những trái pháo gầm vang cày xới chiến trường, mảnh đạn phao bung ra quật ngã đối phương. Cái chí làm trai lập nghiệp nơi chiến trường được gửi niềm trông cậy vào những cỗ pháo nhả đạn.

Bỗng nhiên hình ảnh Hằng với cặp mắt lóng lánh và nụ cười tươi tắn dễ thương vụt hiện. An mỉm cười bâng quơ. Một phần trái tim tuổi thanh xuân của anh không biết từ lúc nào đã thuộc về người con gái ấy, nó xao động hồn nhiên, tự phát, không lệ thuộc vào lý trí.

Lấy từ trong túi áo là thư Hằng gửi cho anh tuần trước, An mở ra đọc lại. Không phải một lần mà nhiều lần anh đọc lại lá thư này. Mỗi lần đọc lại như thêm một lần được nghe Hằng trò chuyện về tình yêu và nỗi nhớ. Từng dấu chấm, dấu phẩy và những con chữ mềm mại trên trang thư đều trở nên gần gũi, thân thuộc, chúng tham gia vào chuyện tâm tình của hai người. An hình dung rõ mồn một gương mặt bầu bầu, nuớc da trắng mịn màng, giọng nói uyển chuyển của ngữ điệu, vóc dáng cân đối và bàn tay mềm ấm nóng của người con gái mà anh yêu dấu… Và cái kỷ niệm của buổi tối thứ bảy cùng em thả bước dọc đường bờ sông Sài Gòn đầy gió. Ánh sáng của những ngọn đèn như rải ánh vàng. Mặt sông lung linh ánh bạc huyền ảo của những con sóng hắt lên tô điểm cho nước da mịn màng và soi tỏ ánh mắt huyền trong treo, tràn đầy niềm vui hạnh phúc, tình yêu ở em. Anh nắm tay Hằng, em nép sát vào anh, nhanh nhanh nhịp thở. Anh ôm xíêt tấm thân mềm mại ấy, nó lan tỏa khắp cơ thể anh cái ấm áp rạo rực mà anh cảm giác rõ lắm. Đôi mắt long lanh mà dịu dàng của em thoáng chút e thẹn, tuy nhiên em cũng thầm ước muốn những phút giây được trong vòng tay yêu dấu của anh. Em nói trong hơi thở nồng nàn: “Hằng quý anh từ ngày mua báo, em yêu anh…”. Và rồi, chính đôi môi đỏ tươi, ướt át của em đã đặt nụ hôn thoảng như gió sương lên môi An trong niềm vui đầy cảm xúc của mối tình đầu e ấp. Cả hai dâng ngập tình cảm tinh khôi, tràn đầy tha thiết. Sóng và gió không thôi phóng khoáng, dào dạt.

An tốt nghiệp xuất sắc sỹ quan pháo binh trường Võ khoa Thủ Đức. Ra trường được phong hàm chuẩn úy, được nghỉ phép ba ngày để về thăm thân nhân gia đình trước khi đi trình diện đơn vị nơi công tác. Lòng anh thênh thênh nhẹ nhõm như khách bộ hành vừa băng qua chặng đường dài với bao gian nan khó nhọc. Chú Hòa bây giờ làm việc xa Sài Gòn. An đã xếp sẵn dự định của ba ngày nghỉ phép. Phải đạp xe đến Ty Công chánh Long An, báo tin vui với chú, thằng cháu từ nay đã thực thụ bước vào đời quân nhân. Rồi quay về Sài Gòn thăm Bá Hoán, người mà anh quý mến, thân thương như mẹ đẻ của mình. Sau đó, đến chơi nhà Hằng.

Đặt chân đến nhà Hằng, An thấy lòng mình rộn rã quá. Lòng dâng ngập niềm vui hòa quyện yêu thương. Trong căn phòng của em, lọ hoa tươi tắn rực màu, vài đóa cúc vàng rướn cao được tỉa cắm bởi bàn tay khéo léo bên cạnh chùm hoa violet. Trên bàn, kẹo bánh thơm mùi va-ni chất đầy trên chiếc đĩa sứ hoa. Chùm nho tươi, quả căng phổng phao, màu tím thẫm đã được bày sẵn từ lúc nào trên đĩa pha lê. Em đoán biết thế nào chiều tối nay An cũng đến đây. Anh tề chỉnh trong bộ quân phục sỹ quan với quân hàm quân hiệu, cố giữ bình thản mà trái tim vẫn rộn rạo khác thường, bước vào nhà. Trong khung cửa hiện rõ mái tóc mượt mà, đen nhánh, xõa ngang vai. Giầy An nện nhẹ trên thềm gạch hoa. Linh tính mách bảo, từ khung cửa, Hằng mau lẹ bước ra. Mắt em vụt sáng trong tiếng reo mừng “Ôi! anh An”. Em líu ríu bước đến, cả hai như cùng chủ động nép vào nhau để tìm kiếm và chia sẻ tình yêu tha thiết dành cho nhau. Nụ hôn mau lẹ, nồng nàn, lan tỏa hương thơm từ mái tóc mượt mà của em. Rồi, tiếng lách cách của ly cà phê chạm vào nhau hòa cùng lời nói, nụ cười, ánh mắt âu yếm như chung vui với cuộc gặp gỡ của hai người yêu nhau. Bàn tay chăm chút của người con gái trao cho An chiếc kẹo vừa bóc, trái nho căng mọng. Hằng hỏi anh với ngữ điệu dịu êm:

- Anh được nghỉ phép có lâu không?

- Vài ngày em ạ.

- Anh sẽ đóng quân có gần Sài Gòn không?

- Không được may mắn như thế.

Ánh mắt Hằng thoáng lộ nét buồn, tuy vậy An không nhận ra. Anh không khỏi băn khoan. Rồi đây không thể được gặp em dễ dàng như những ngày học ở Thủ Đức gần Sài Gòn…Em nghĩ gì về thân phận người lính. Chấp nhận yêu thương, gắn bó với người lính là dũng cảm là một thử thách không nhỏ đối với người con gái. Lòng An bất chợt dấy lên niềm cảm thương. Anh xiết chặt Hằng trong vòng tay khỏe khoắn như muốn bù đắp những ngày trông đợi mòn mỏi và đẩy lùi sự xa xôi cách trở sẽ đến ngay vào ngày mai. Đôi mắt huyền của em lấp lánh ngước nhìn An thật gần gũi. Hằng nép vào An như nương tựa vào anh.

Ba Hằng từ tầng trên nhẹ bước xuống cầu thang. Thoáng nhìn đôi trẻ đang âu yếm, người cha đã hiểu, con gái ông đã yêu chàng sỹ quan kia, tuy rằng đôi trẻ chưa một lần thưa chuyện với ông. Sự thật này làm ông ngỡ ngàng. Không muốn phá vỡ không gian riêng tư của đôi trẻ, người cha nhẹ nhàng quay gót trở lại tầng hai. Ngồi xuống ghế, châm lửa hút thuốc lá, trong lòng ông dấy lên nỗi phân vân về mối tình đã chớm nở của con gái mình, đứa con mà ông vô cùng yêu thương.

Trong chốn sâu kín của lòng mình, ông không chê anh chàng sỹ quan trẻ có học nhưng lại không muốn anh mặc áo lính để cuộc đời mình gắn bó với quân ngũ. Ông thừa nhận rằng An chững chạc, vóc dáng và gương mặt dễ mến, con người ấy dễ dàng lọt vào ánh mắt cảm mến hồn nhiên của những cô gái trẻ. Sự mực thước, nhã nhặn của anh ta mà ông đã biết từ cái ngày anh còn bán báo rong trên hè phố đã từng làm cho ông có chút thiện cảm. Thế nhưng thiện cảm không đồng nghĩa với việc sẵn sàng nhận anh làm chàng rể.

Chao ôi! Đời lính khốn khổ, nay đây mai đó. Ai có thể học được chữ ngờ, vô phúc dính phải hòn tên mũi đạn. Ông ngại đời lính, ông thương con gái mình. Nên duyên với người lính, đôi trẻ khác gì chàng chinh phu, nàng chinh phụ. Người vợ trẻ vò võ ôm gối, lẻ loi thui thủi trong căn phòng vắng lặng, thổn thức nhớ thương. Ông buột thở dài, lòng trĩu nặng. Ba Hằng tiếp hết điếu thuốc lá này đến điếu thuốc lá khác vào miệng. Chiếc gạt tàn đầy tàn thuốc và những mẩu đuôi điếu thuốc. Ông không dám nghĩ tới cái điều oan nghiệt xảy ra với An trong vòng tên đạn. Nếu con Hằng trong vòng góa bụa, đau xót không thể nào tưởng tượng được. Niềm vui, nỗi buồn và tình thương lúc này của ông, tất cả dồn cho con, nét mặt ông lộ rõ vẻ căng thẳng, ánh mắt đăm chiêu tư lự.

…Thương con Hằng chịu cảnh mồ côi mẹ từ tấm bé, ông ngậm ngùi trong cảnh gà trống nuôi con. Ngày mai đây, niềm vui, hạnh phúc của ông có được là trông cậy ở tương lai hạnh phúc của con gái.

Giống như hàng trăm, hàng nghìn người cha thương yêu con cái, ba Hằng mong con mình sẽ lấy được tấm chồng xứng đáng, vợ chông chúng được sống trong khung cảnh xum vầy, đoàn tụ. Đầu ông lan man những suy tư và cả tính toán hành động phải làm…

Hằng mời An ở lại ăn cơm cùng gia đình. Mâm cơm với những món ăn ngon do Hằng nấu nướng với sự phụ giúp của An. Anh yêu cầu món nấu bớt đi gia vị ngọt cho phù hợp với khẩu vị miền Bắc của anh. Hằng gật đầu, vui vẻ chiều theo, bảo, em biết thêm cách nấu ăn miền Bắc. Mâm cơm được dọn ra. Vào bữa ăn, ba của Hằng gượng vui vẻ, nói cười cho vui lòng con gái nhưng ông hờ hững, uể oải nhai. Nét mặt và ánh mắt lộ rõ vẻ đăm chiêu, nếp nhăn mờ mờ trên vầng trán. Những món ăn mà Hằng nấu nướng, ngày thường ông thấy ngon miệng lắm, bây giờ cảm giác ngon lành biến mất. Miệng không đắng nhưng ăn không thấy ngon. Hằng giục ba:

- Con nấu ăn, ba thường khen ngon, sao bữa này ba ăn uể oải thế, nhường anh An đấy mà - Hằng nhoẻn cười, ánh mắt linh lợi, liếc nhìn An.

Ba Hằng giật mình, vội vã gắp thức ăn đưa lên miệng, nhanh nhảu nhai, nuốt rồi vội vã nói:

- Ừ. Ngon lắm – Trán ông hằn những nếp nhăn nhíu vào nhau.

- Sau bữa ăn, ba của Hằng trở về phòng trên tầng hai. Uống hớp nước, xỉa tăm qua loa, ông châm lửa hút điếu thuốc lá thơm. Làn khói thuốc mong manh bay lửng lơ như sương thu, lãng đãng trong căn phòng. Ông ngồi lặng trong suy tư.

Chuẩn bị ra về, An chào ba Hằng, xuống tầng dưới, anh nói với Hằng.

- Sáng sớm mai anh phải ra đi, đến trình diện đơn vị ngoài miền Trung.

Hằng lặng lẽ, thẫn thờ, em bước lại gần ngả mái đầu vào ngực An. Giọt nước mắt ẩm ướt của Hằng thấm ngực áo An, anh cảm thấy rõ lắm. Phút giây, lòng chùng xuống xa sót, anh ôm xiết Hằng thật chặt trong vòng tay cứng cáp, không muốn cho em khóc, An bảo rằng, người nào lên đường trong dòng nước mắt tuôn chảy của người yêu, của thân nhân quyến thực sẽ dễ gặp những điều xui rủi dù rằng mình chẳng tin điều ấy. Anh đã bịa ra những điều mình vừa nói. Hằng vội vã mỉm cười, bàn tay quệt ngang mắt, chỉ còn lại cái màu đỏ hoe nơi hai tròng mắt ươn ướt. Sực nhớ ra, Hằng vội vã quay vào, vội vã lấy từ trong tủ ra chiếc khăn quàng cổ của mình trao cho An, bảo rằng vùng miền Trung mùa đông lạnh lắm, phải quàng khăn cho ấm.

Chú Hòa yếu đuối chẳng khác gì đàn bà con gái. Gặp cháu, mắt rân rấn nước, tiễn cháu phải dùng khăn mùi soa thấm nước mắt ứa ra.

Bá Hoán tiễn cháu, dậy sớm nấu xôi, luộc gà, gói ghém buộc lại, bắt An phải mang theo. Bá bảo rằng, đi đường xa, ăn xôi cho chắc bụng lại đỡ tốn tiền. Đến lúc này mắt Bá mới rơm rớm nước. Người đàn bà luống tuổi thường hay kìm nén những xúc động bột phát nhưng trái tim yêu thương thì khó mà kìm nến những rung động tự nhiên, thật khó lòng giấu giếm. An phải hít hơi thở thật sau, giữ cho căng lồng ngực để nước mắt không có cơ hội ứa tràn, bởi vậy lúc lên đường, khóe mắt anh chỉ uơn ướt nước.

Đơn vị của An thuộc quân đoàn I. Vùng đóng quân của quân đoàn vào những năm đầu thập kỷ 60 còn yên tĩnh. Bom đạn và lửa khói chiến trường chưa đủ sức lan đến vùng thành thị miền Trung. Chợ búa, cửa hàng tấp nập kẻ mua người bán. Sân trường rộn ràng, ríu rít tiếng nói cười của học sinh dưới mái trường. Người cày cấy trên cánh đồng, kẻ chèo thuyền ra khơi đánh cá chưa phải thấp thỏm lo âu vì những cuộc chạm súng lớn của quân đội làm đảo lộn cuộc sống mưu sinh.

Những cuộc đụng độ, chạm súng của quân đội thuộc quân đoàn I với quân giải phóng chỉ ở cấp trung đội rất ít xảy ra ở cấp đại đội. Quân đội Việt Nam cộng hòa và nhiều người miền Nam gọi quân giải phóng là Việt Cộng. Lúc này Việt cộng phần lớn là địa phương quân, họ ẩn náu ở vùng rừng núi rậm rạp hoặc trà trộn, giấu mình nơi thôn làng hẻo lánh, nghèo nàn. Màn đêm là bạn đồng minh của đội quân ấy. Chiến thuật du kích được vận dụng linh hoạt. Đánh lén bất ngờ, lấy ít đánh nhiều diễn ra khi màn đêm buông xuống núi đồi thôn xóm. Các đơn vị chính quy của quân đội Việt Nam cộng hòa làm nhiệm vụ “tảo thanh” tìm diệt du kích Việt Cộng, không mấy khi phải dàn trận, ít khi phải trực tiếp giáp chiến với quân giải phóng. Các cuộc hành binh quy mô chẳng mấy khi phải khai triển. Các đơn vị pháo binh thuộc quyền chỉ huy của sư đoàn hoặc quân đoàn lẽ đương nhiên không phải tham gia di chuyển chiến đấu theo các cuộc hành quân. Đời lính thế là sung sướng, đỡ phần cực nhọc, ít phải đổ máu chết chóc. Công việc hàng ngày của An, của phần đông binh lính lúc này là ở nơi quân trường bãi tập. Định kỳ nghe sỹ quan Nha tâm lý quân đội thuyết giảng, An chú ý lắng nghe để mong nhận biết về thời cuộc. Họ đưa ra dẫn chứng chọn lọc và cả bịa đặt về chế độ cộng sản miền Bắc, nào là “cải cách ruộng đất”, “Tổ đổi công”, “Công tư hợp doanh”, “Thành phần giai cấp”, “Xã hội chủ nghĩa”…làm An đặc biệt chú ý lắng nghe. An tạt ngang liên tưởng đến hòan cảnh, lý lịch giai câp gia đình, cha mẹ, ông bà mình…đôi lông mày xếch lại được dịp nhíu lại bởi suy tư băn khoăn. Viên sỹ quan Nha tâm lý đã khôn khéo nhào nặn, vẽ lên bức tranh xã hội miền Bắc nghèo nàn, bất công, tàn bạo. Chỉ được nghe một tai người ta rất dễ bị đối tượng thuyết phục. Những thuyết lý về “chính nghĩa quốc gia”, “Phụng sự Tổ quốc”, “Chống Cộng” len lỏi vào tâm khảm An như mưa dầm thấm đất.

Nắng và nóng ở dải đất miền Trung gay gắt hơn ở Nam bộ nhưng với An không phải là quá mức chịu đựng. Nước da của anh dần dần đậm màu của nắng, của gió, của đất miền Trung trở thành ngăm ngăm nâu màu của bánh mật.

Công việc của người sỹ quan trung đội mà An đảm nhiệm không quá khó nhọc, tuy vậy luôn phải bám sát đơn vị để duy trì tập luyện và đôn đốc, nhắc nhở kỷ luật đội ngũ. Chẳng ai hứng thú với những thao tác lặp đi lặp lại nơi bãi tập, tưởng như vô lý. Nó vô hồn, nhàm chán, không khác gì tự hành xác cùng nắng mưa, súng đạn nhất là với tuổi trẻ ở độ tuổi hai mươi. Tuy vậy, An hiểu rằng, sức mạnh của đoàn quân là ở chỗ giỏi kỹ thuật chiến đấu và có tinh thần kỷ luật thép. Bởi vậy, An ý thức nhập vai một sỹ quan gương mẫu, có chí tiến thủ. Chẳng bao lâu anh được thăng lên chức đại đội phó rồi đại đội trưởng pháo binh.

Thời gian rộng rãi cho binh sỹ và sỹ quan là vào chiều thứ bảy và ngày chủ nhật. Được phép của câp chỉ huy, tại địa bàn đóng quân, sỹ quan và binh lính luân phiên du chơi thư giãn ngoài doanh trại. Như chim xổ lồng, dập dìu những cặp tình nhân dắt tay nhau mà trai là sỹ quan là binh lính, gái là dân trên địa bàn đóng quân. Góc phố, quán hàng nhan nhản sắc phục quân nhân.

Phố nhỏ gần trại lính, quán hàng đua nhau mọc lên như nấm để móc tiền túi của đám sỹ quan, binh lính. Ngày lĩnh lương, có kẻ tiêu xoẳn tháng lương trong cuộc nhậu lai rai chung vui bạn bè. Lính say rượu dễ hung hăng, chửi bới tục tĩu, nói năng bờm xơm, dân phải tránh mặt, các cô gái khiếp hồn phải ngòi như giam trong nhà mình. Chiều thứ bảy, trong tiệm cà phê, ánh đèn điện vàng vọt không đủ sức đẩy lùi bóng đêm, trên vách tường treo lủng lẳng vài khung ảnh đơn xơ, vẽ cảnh cây cầu, bến nước, gốc dừa, mái tranh êm ả, cảnh thanh bình của xóm làng Việt Nam nhưng chẳng ai để mắt. Khách hàng như cụm lại, nhường lại cho những âm thanh lúc rì rầm, lúc huyên náo ồn ĩ của những người mang sắc phục quân nhân. Khách hàng đông nhất là lính, gian hàng nhuốm màu xuồm xuộm.

Cái guồng quay quen thuộc ấy của chiều thứ bảy và chủ nhật có sức cám dỗ, xua đi những buồn tẻ, cuốn An vào quỹ dạo của nó. An cùng bè bạn sỹ quan, rủ nhau đến tiệm cà phê quen thuộc gọi ly cà phê đá cùng gói thuốc Capstan, nhâm nhi ngụm cà phê mát lạnh, phì phèo điếu thuốc lá, rung đùi, tán dóc chuyện trên trời dưới đất, thỏa sức cười xả hơi.Chung cục lại quay về với câu chuyện muôn thuở của loài người, chuyện em út, bồ bịch, yêu đương. Chỉ khi nào những làn gió mát dập dìu từ phía biển, rong ruổi giữa bầu trời đêm thi nhau lướt đến làm rung rinh những cành lá trong khu vườn kê sát nhà hàng như những nhịp điệu quen thuộc của đất trời cùng vạn vật, và cũng là lúc bầu trời đêm chi chít những vì sao nhấp nhay vu vơ, An cùng đám bạn bè trở về doanh trại.

Chất cafein lúc này vẫn vận hành khỏe khoắn trong huyết quản, từ từ tác động vào hệ thần kinh một cách dai dẳng khiến đầu óc An tỉnh táo, không buồn ngủ. Nằm duỗi dài trên giường, hình ảnh Hằng hiện lên đậm nét trong đầu. Màn đêm trở nên đỡ quạnh vắng hoang vu vì trái tim anh ấm áp ngọn lửa yêu đương. Lấy mấy lá thư của Hằng gửi cho anh vừa mới đây, giở ra để đọc lại. Cảm giác em yêu như đang bên anh tâm tình với lời lẽ dịu dàng, xiết bao yêu thương. Lòng ngập tràn nỗi nhớ, tình thương, An thả mắt nhìn sao trời lung linh qua khung cửa mở, cảnh đêm thơ mộng quá, huyền diệu như ánh mắt em. Có lẽ nơi nào cũng lung linh nhấp nháy, bát ngát sao trời. Đột nhiên ý nghĩ lan man trôi chảy vô định, anh thầm tính toán, khoảng cách không gian địa lý từ nơi mình đóng quân đến Sài Gòn cũng ngang bằng đến đất Bắc, nơi mẹ và các em của anh đang sống. Chao ôi, thật buồn, phương trời ấy hoàn toàn cách biệt. Bắc Nam đôi ngả chia ly, hun hút ngàn trùng cách biệt. Hai chế độ xã hội đối lập nhau, hai nhà nước riêng biệt, không dung hòa.

Đã năm, bảy năm rồi bặt tin mẹ, An chỉ phỏng đoán mơ hồ cuộc sống của mẹ và các em trên đất Bắc, chắc chẳng sung sướng gì. Sự sống và cái chết của mẹ cũng thoáng chợt trong suy nghĩ vẩn vơ. Rồi An tự khuyến cáo mình, đừng nghĩ dại, nghĩ quẩn, nó vận vào mình thì khốn. Bởi vậy, anh không dám đào sâu những suy nghĩ tàn nhẫn ấy. Cầu Trời, khấn Phật cho mẹ và các em bình yên. Đã bao lần hình ảnh mẹ bám riết trong suy tưởng. Sao mà đời mẹ khốn khổ thế, gia đình mình không còn tấc đất cắm dùi. Giận hờn tụ lại trong lòng. Giận hờn thật khó nguôi ngoai bởi những kênh thông tin đày dụng ý phê phán đả kích mà anh vô tình tìm đến. Đài phát thanh Sài Gòn, đài BBC, đài Hoa Kỳ và một vài tờ báo ấn hành tại Sài Gòn với những bản tin thời sự chính trị mà An nghe được, đọc được về xã hội miền Bắc, lộ rõ thái độ chống đối. Và, những lời thuyết giảng của sỹ quan Nha tâm lý đã kích động tinh thần chống Cộng quyết liệt. An hình dung chuyện mất mùa đói kém, chuyện tem phiếu phiền hà, đời sống nghèo đói. Giờ đây anh kiên định ở trận tuyến chống Cộng. Nhiều người miền Bắc di cư và những người cầm súng như anh chẳng ngại ngần cầm cây súng, nhả những làn đạn giận hờn về phía đối phương. Anh và bao người cầm súng không thể hiểu cuộc chiến thấm máu đồng bào, thấm máu nòi giống lạc hồng. Những hành động nhả đạn diệt quân giải phóng được mệnh danh là chống giặc, bảo vệ tự do chính nghĩa. Lứa tuổi thanh niên rất dễ bất bình với thực tế phản cảm để rồi ngả theo đường lối tuyên truyền chính trị khôn khéo. Vậy nên, An có chút hãnh diện về việc cầm súng, về cuộc đời binh nghiệp mà thể chế miền Nam tôn vinh là những chiến sỹ chống Cộng, bảo vệ tự do, bảo vệ chính nghĩa quốc gia.

Vào những năm 60 cho đến những năm đầu thập kỷ 70, quân lực Việt Nam cộng hòa ( quan đội của chính quyền Sài Gòn ) ra sức tăng cường quân số, mở rộng biên chế các quân binh chủng. Nhiều đơn vị mới được thành lập, nhằm ứng phó với thực tế ngày một gay go khốc liệt trên khắp các chiến trường miền Nam. Đặc biệt là lực lượng tổng trừ binh ( tổng trù binh ) được chú trọng, ưu tiên phát triển làm nhiệm vụ dự trữ chiến lược, sẵn sàng ứng phó, mau lẹ tung vào các chiến trường lửa bỏng để tấn công, phản kích đối phương nhằm dứt điểm chiến trường. Đây là lực lượng tinh nhuệ đặc biệt, dồi dào sức chiến đấu, được khích lệ và hâm nóng tinh thần liều thân quả cảm, hăng hái chống Cộng hàng đầu. Phải kể đến các binh chủng: Nhảy dù, Biệt động quân, Thủy quân lục chiến. Binh lính và sỹ quan ở các đơn vị này được tuyển chọn và huấn luyện kỹ lưỡng. Đội quân ấy mau chóng nổi danh trong quân đội Sài Gòn. Nổi danh bởi quyết chiến trong chiến trận, không lùi bước trước lửa đạn xung mãnh của đối phương. Nổi danh cả trong việc “cứu nguy, chữa cháy”, phải thế mạng cho các đơn vị bộ binh bại trận, hứng chịu những làn đạn dữ dội trong những trận đánh sống còn, không khoan nhượng mà quân Giải Phóng muốn xóa sổ đối phương.

An không muốn mình mãi an phận ở một địa bàn trách nhiệm cố định của đơn vị bộ binh. Anh tình nguyện xin chuyển sang Lữ đoàn Nhảy dù ( Quân lực Việt Nam cộng hòa lúc này duy nhất có một Lữ đoàn nhảy dù ). Anh thích sự có mặt ở các vùng miền khác nhau của chiến trường, muốn được hành quân trên các nẻo đường của xứ sở. Thú giang hồ xê dịch thật ý vị. Anh cũng đã tiên lượng được vào Nhảy dù là phải sẵn sàng đón nhận gian nan thử thách của chiến trường, đối mặt với bom đạn vì, binh sỹ nhảy dù được huy động tham gia những trận đánh ác liệt nhất, một mất một còn để dứt điểm chiến trường cụ thể. Tuy nhiên, tuổi trẻ coi thường gian nguy, chấp nhận mạo hiểm bởi lý tưởng thúc đẩy. Cuộc đời thêm mùi mẫn bởi hương vị của phiêu lưu, chấp nhận nó lại có cơ tỏa sáng. Trải qua ngày tháng can trường cũng ý nghĩa lắm. Những ý nghĩ lãng mạn ấy đưa đẩy An đến với binh chủng Nhảy dù.

Đầu tuần An nhận được thư của Hằng. Cầm lá thư của người yêu trong tay lòng anh ngập tràn vui sướng. Bóc vội lá thư, trái tim xôn xao đập mãi. Vẫn là những nét chữ quen thuộc, đáng yêu,lời lẽ dâng ngập nhớ thương âu yếm và cả khắc khỏai mong chờ. Tình yêu là thế. Cuối thư Hằng viết rằng, anh hãy xin phép cấp chỉ huy cho nghỉ mấy ngày, về ngay Sài Gòn. Ba Hằng muốn nói với anh một việc hệ trọng lắm. An phân vân. Có chuyện gì đây mà hệ trọng nhỉ, sao không viết trong thư? Đoán già, đoán non anh không thể tìm nổi câu trả lời xác đáng. Chuyện không thể viết ra trong thư mà gặp mặt để nói thì chắc là quan trọng. Anh quyết định cầm theo lá thư lên gặp chỉ huy, xin phép về ngay Sài Gòn ba ngày. An khô