← Quay lại trang sách

1. CƯỚP BIỂN NHÀ SINH VẬT HỌC LÀM NGHỀ CƯỚP BIỂN

Khi thẩm phán đập búa, William Dampier gục đầu tỏ vẻ xấu hổ. Một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất thời đại của ông ấy hiện là một kẻ phạm trọng tội.

Đó là vào tháng 6 năm 1702, và vì đây là một phiên tòa trong ngành hải quân nên tòa án xét xử trên boong tàu, trong bầu không khí thấm đượm vị biển. Mọi người đều biết rằng, hầu hết các cáo buộc chống lại Dampier sẽ không có cơ hội thành hiện thực. Lời tố cáo về vụ giết người thiếu thuyết phục, và các cáo buộc rằng ông ấy là một hoa tiêu không có năng lực thật nực cười: ông ấy là hoa tiêu giỏi nhất từng tồn tại, một chuyên gia quốc tế về gió, dòng chảy và thời tiết. Nhưng khi phiên tòa diễn ra, Dampier - người có mái tóc dài, lòa xòa và một vẻ ngoài để tiện, với đôi mắt lồi - cảm thấy rằng bằng một cách nào đó, tòa án quyết tâm trừng phạt ông ấy vì một điều gì đó. Và mọi việc đã diễn ra như vậy: Các thẩm phán kết tội ông ấy vì đã dùng gậy đâm một trung úy trong một chuyến đi gần đây, và tuyên bố ông ấy "không phải là người phù hợp để được bổ nhiệm làm chỉ huy của bất kỳ con tàu nào của Hoàng gia". Ông ấy bị phạt ba năm lương và bị sa thải khỏi lực lượng hải quân.

Dampier loạng choạng rời khỏi con tàu nham nhở và hỏng hóc. Tại sao ông ấy lại sa sút đến vậy? Ông ấy là nhà tự nhiên học vĩ đại nhất trong thời đại của mình - đến mức Charles Darwin sau này cũng tự nhận mình là học trò của người đàn ông này. Những câu chuyện về những chuyến đi đáng kinh ngạc của Dampier cũng gây ảnh hưởng đến các tác phẩm Robinson Crusoe và Gulliver's Travels (tên tiếng Việt: Gulliver du ký). Tuy nhiên, bất kể ông ấy đã làm được những gì đi nữa thì William Dampier sẽ luôn là kẻ có tội trong mắt lực lượng Hải quân. Ông ấy là một nhà khoa học và nhà hàng hải xuất sắc, điều này không có gì phải nghi ngờ, nhưng trong phần lớn cuộc đời, ông ấy cũng từng là một tên cướp biển.

Có lẽ vì hai yếu tố - sự nghèo khó và nỗi ám ảnh về sinh học - khiến việc Dampier sa vào nghề cướp biển là điều không thể tránh khỏi. Ông ấy ra khơi sau khi mồ côi cha mẹ ở tuổi 14, ghé thăm Java và Newfoundland trước khi có khoảng thời gian không hạnh phúc trong hải quân. Cuối cùng, Ông ấy lên đường đến vùng biển Caribbean vào tháng 4 năm 1674 ở tuổi 26. Sau một thời gian lênh đênh, ông ấy định cư ở Vịnh Campeche thuộc miền đông Mexico và kiếm sống bằng nghề chặt gỗ huyết mộc, một loại cây to lớn có phần lõi bên trong màu đỏ tươi. Dampier sau đó đã mô tả những người khai thác gỗ xung quanh mình là một đám lưu manh, sẵn sàng "đấm đá và xả súng vào nhau liên tiếp trong ba hoặc bốn ngày.... Chúng không bao giờ có thể tự giải quyết vấn đề dưới bất kỳ Chính phủ dân sự nào, mà vẫn tiếp tục sự ác độc của chúng". Dù có lẽ đã uống say, nhưng Dampier vẫn đi bộ đường dài giữa thiên nhiên ở Campeche và xúc động khi nhìn thấy những sinh vật mà ông ấy vốn chỉ được nghe qua những câu chuyện cổ tích - nhím và con lười, chim ruồi và con tatu. Đối với một người yêu thích lịch sử tự nhiên, đó là thiên đường.

Những rắc rối của ông ấy bắt đầu vào tháng 6 năm 1676, vào một ngày đầu mùa hè tuyệt đẹp, khi được làm việc ngoài trời gần như là một đặc ân. Nhưng trong khi những người khai thác gỗ khác phơi mình dưới ánh nắng mặt trời, Dampier nhận thấy rằng, gió đang chuyển hướng một cách kỳ lạ: nó "rít về phía nam, rồi xoay về phía đông". Sau đó, những người khai thác gỗ nhận thấy rất nhiều những con chim nhỏ bé bay phía trên đầu.

Những con chim này thường đi cùng tàu biển vào bờ, vì vậy, hầu hết các thuyền viên coi đây là một điềm lành; có thể một nguồn lợi phẩm nào đó đã đến. Nhưng trái với mọi người, Dampier lại cau mày. Cả đàn chim với đủ loại kích thước bay tán loạn như thể đang chạy trốn một cái gì đó. Điều kỳ lạ nhất là con lạch của địa phương. Lũ lụt thường xảy ra ở Campeche; mọi người thường bước trực tiếp từ giường xuống một vũng nước đầm lầy vào mỗi sáng. Nhưng ngày hôm đó, con lạch chính bắt đầu rút hết nước một cách bí ẩn, như thể bị hút bởi một Ống hút khổng lồ cho đến khi gần như khô cạn ở giữa dòng.

Nhà sinh vật học - cướp biển William Dampier là người có ảnh hưởng lớn đến Charles Darwin, đồng thời là một kẻ bất hảo và một kẻ lừa đảo. Tranh của Thomas Murray. (Xem thêm hình ảnh cho tất cả các chương, tại samkean.com/books/the-icepick-surgeon/extras/photos.)

Hai ngày sau những điềm báo này, một dải mây đen quỷ dị như được phóng ra từ địa ngục cuồn cuộn xuất hiện trên bầu trời. Không ai trong số những người khai thác gỗ có thể tưởng tượng ra một cơn bão dữ dội như vậy trước đó. Những hạt mưa đâm vào da thịt như những con ong bắp cày khiến họ không thể quan sát, và gió đánh sập từng túp lều cho đến khi chỉ còn sót lại một nơi trú ẩn cuối cùng. Những người đàn ông lảo đảo đi qua bùn đất bước về phía trước, hét lên để người khác có thể nghe thấy, và cố gắng lên bờ để tới nơi trú ẩn cuối cùng dựng bằng những cây cột gỗ và dây thừng buộc vào các gốc cây. Họ ướt đẫm toàn thân và run rẩy, rồi sau đó co ro sát lại gần nhau trong hàng giờ đồng hồ - rơi vào trạng thái lo lắng, hỗn loạn. Con lạch khô đã đầy nước trở lại và nước tràn lên đám bùn đất xung quanh họ. Cây cối mọc um tùm khắp nơi, rễ của chúng bện vào nhau thành những mảng dày. Dampier và một số người khai thác gỗ khác đã chèo chiếc xuồng cuối cùng còn sót lại để đi đến vịnh và tìm thấy một bãi toàn cá chết trôi nổi khắp nơi. Trong số tám con tàu neo đậu trong vịnh vài giờ trước đó, chỉ còn một chiếc duy nhất không bị cuốn ra biển. Những người khai thác gỗ đi xin thức ăn từ thủy thủ đoàn của con tàu sống sót, "nhưng chỉ nhận lại được những thái độ lạnh lùng", Dampier nhớ lại. "Chúng tôi không thể có được một chiếc bánh mì hay một ly rượu pân, chứ đừng nói đến một ly rượu rum".

Những mô tả chân thật về cơn bão như một thước phim điện ảnh này là bản tường thuật chi tiết về mặt khí tượng học đầu tiên về một cơn bão, và nó khởi đầu cho mối quan tâm về gió và thời tiết trong suốt cuộc đời ông. Ngay lập tức, cơn bão đã định hướng lại toàn bộ cuộc đời ông. Tất cả các dụng cụ khai thác gỗ của ông ấy - rìu, cưa, dao rựa - đã bị cuốn trôi. Ông ấy không có tiền, không có công cụ, không có triển vọng kiếm tiền. Vì vậy, sau này ông ấy ghi lại rằng, "Tôi buộc phải ra ngoài để kiếm sống". Đây chỉ là một cách nói giảm nói tránh. "Ra ngoài" ở đây có nghĩa là trở thành một tên cướp biển đánh thuê.

Cướp biển đánh thuê khi đó là một lớp hải tặc + khác biệt. Một số cướp biển được gọi là cướp biển tư nhân, những kẻ được chính quyền địa phương cho phép hoạt động ngầm để quấy rối tàu thuyền của đối phương. Các cướp biển tư nhân người Anh thường tập trung vào các tàu Tây Ban Nha, và nhiều ngôi nhà người Anh ở Caribbean được sở hữu nhiều đồ đạc từ lụa, thiếc và những chiếc ghế chạm khắc kiểu dáng đẹp có nguồn gốc từ Barcelona hoặc Madrid. Do đó, cướp biến tư nhân được dung thứ, nếu không muốn nói là được trân trọng. Cướp biển đánh thuê không được phép đột kích bất cứ con thuyền nào. Họ là những tên tội phạm đơn giản, và chính quyền địa phương khinh bỉ họ hệt như kẻ thù của họ. Đội cướp biển mà Dampier tham gia thậm chí còn nằm trong tầng lớp thấp kém hơn hầu hết các tầng lớp khác, bởi thay vì đánh phá những con tàu xa xỉ, họ lại xông vào các trại nhỏ thảm hại ven biển, cướp bóc của những người không khá giả hơn mình là mấy.

Chúng tôi không biết chính xác Dampier đã làm gì trong những cuộc đột kích vì ông ấy bỏ qua hầu hết các chi tiết này trong cuốn nhật ký của mình, có lẽ vì cảm thấy xấu hổ. Ông ấy cũng có thói quen khiến người khác bị phân tâm bởi lịch sử tự nhiên. Ví dụ, mô tả một cuộc tấn công vào Vera Cruz, ông ấy miêu tả hành vi giết chết hàng chục người bạn đồng hành chỉ bằng một vài từ, và lướt qua ngay trước thực tế rằng cuộc đột kích chỉ là một việc làm vô giá trị: người dân thị trấn đã bỏ chạy cùng những đồ vật có giá trị khi thấy những dấu hiệu đầu tiên của bọn cướp biển, để lại một thị trấn không còn chút chiến lợi phẩm nào. Thay vào đó, Dampier làm nổi bật khung cảnh hàng chục con vẹt bị bỏ lại trong lồng mà ông ấy và những người khác đưa lên tàu như một kho báu hợp pháp. "Chúng có lông màu vàng và đỏ", ông ấy mô tả, "trông rất xấu xí, và chúng sẽ luyên thuyên một vài câu thú vị". Không cướp bóc được chiến lợi phẩm cũng không vấn đề gì - những con vẹt cũng đủ làm phần thưởng cho ông ấy.

Cuối cùng, Dampier trở về Anh vào tháng 8 năm 1678 và thực hiện một cuộc hôn nhân bí mật với một người phụ nữ tên là Judith, người hầu gái của một nữ công tước. Cố gắng hoàn lương, ông ấy sử dụng của hồi môn của vợ để mua một số hàng hóa và lên đường đến vùng biển Caribbean một lần nữa vào tháng 1 năm 1679 để buôn bán, và hứa với vợ sẽ trở lại trong vòng một năm. Ông ấy đã không thể giữ được lời hứa đó. Vài tháng sau khi đến nơi, ông ấy đi cùng một số thủy thủ đến Nicaragua trong một chuyến đi buôn, và thủy thủ đoàn dừng chân tại một thành phố ở Jamaica, nơi yêu thích của những người thuộc tầng lớp thấp kém. Sau này, Dampier nói rằng ông ấy bị sốc - thực sự bị sốc! - khi toàn bộ thủy thủ đoàn quyết định hùn của cải với một số tên cướp biển ở đó và hành nghề cướp biển. Trên thực tế, một số nhà sử học tin rằng Dampier biết rõ sẽ gặp cướp biển ở Jamaica, và đến đó với mục đích rõ ràng là quay trở lại biển cả.

Ông ấy đã làm điều đó vì một vài lý do. Lý do đầu tiên, giống như nhiều người khác trong lịch sử, Dampier khao khát trở nên giàu có, và luôn mơ đến một ngày cả nhóm cướp biển của ông sẽ tình cờ bắt gặp một chiếc thuyền buôn to lớn của Tây Ban Nha chứa đầy những đồng tiền doubloon và giúp họ có được một tài sản kếch xù. Nhưng sâu xa hơn thế, Dampier không thể nào quên được những ký ức về vùng đất Campeche - những cuộc ngao du trong rừng rậm, những loài sinh vật kỳ lạ, những ngày tháng lạc bước giữa thiên nhiên. Cướp biển là phương tiện duy nhất giúp ông ấy tìm lại cảm giác đó. Chắc chắn, cướp biển cũng là một công việc bẩn thỉu, đầy rẫy những vụ tấn công và giết người. Trong nhiều năm liền, Dampier đã chứng kiến cảnh các linh mục bị đâm giết, tù nhân bị ném lên tàu và những người da đỏ bản địa bị bắn bằng súng trường và bị tra tấn để khai thác thông tin. Không có lý do gì để nghĩ rằng Dampier không liên quan đến những vụ việc đó hay ông ấy sẽ cảm thấy buồn bã vì những hành vi của bản thân. Nhưng Campeche đã đánh thức niềm đam mê đối với lịch sử tự nhiên, một thứ cuốn hút đến mức mãnh liệt, và dù đôi khi ông ấy có hối hận đến mức nào đi chăng nữa, thì ham muốn đối với những bến bờ mới, bầu trời mới, động thực vật mới vẫn quá mạnh mẽ. Như những gì bản thân nhớ lại, ông ấy đã "đủ hài lòng" với bất cứ nơi nào bản thân đặt chân đến, "biết rằng chúng tôi càng đi xa, tôi càng có nhiều Kiến thức và Kinh nghiệm, đó là Điều cốt yếu mà tôi coi trọng".

Dampier gia nhập nhóm cướp biển Jamaica với nhiệm vụ làm hoa tiêu, và những chuyến đi tiếp sau đó là những cuộc phiêu lưu bất tận, liên quan đến nhiều thủy thủ đoàn và các con tàu khác nhau; vốn dĩ không thể tóm tắt trong những đoạn hồi ký gọn gàng. Họ bắt đầu đột kích các thành phố ở Panama, sau đó lên đường đến Virginia, nơi Dampier bị bắt không rõ lý do; ông ấy chỉ đề cập đến sự việc như một số "rắc rối". Sau đó, nhóm cướp biển tràn đến bờ biển Thái Bình Dương của Nam Mỹ, bao gồm cả Galápagos.

Thường thì nhóm cướp biển đều thu được những chiến lợi phẩm đáng kể: đá quý, nhung lụa, rất nhiều quế hoặc xạ hương. Có lần họ cướp được tám tấn mứt cam. Thông thường, một con thuyền lớn sẽ giúp họ có thể vươn ra biển khơi và thả mình vào làn sóng để tìm đến một cảng biển khác. Hoặc họ có thể sẽ phải chịu đựng một cuộc bao vây lâu dài và vô ích tại một thị trấn ven biển, chỉ để biết rằng những người dân nơi đây cũng có thể cướp đi kho báu ngay trước mặt những tên cướp biển, khiến bọn chúng trắng tay.

Dampier và thủy thủ đoàn suýt chết đuối trong một cơn bão dữ dội trên đường tới Indonesia. (Khắc họa bởi Caspar Luiken.)

Thay vì kiếm được nhiều tiền ở Nam Mỹ, "chúng tôi gần như chẳng thu hoạch được gì... ngoài sự mệt mỏi, khó khăn và mất mát", Dampier nhớ lại. Đôi khi họ phải uống nước "nhiễm đồng hoặc nhôm" từ "những lỗ đá bốc mùi" và trải qua nhiều đêm ngoài trời mà không có gì ngoài "nền đất lạnh giá trở thành chiếc giường ngủ và bầu trời trong xanh đầy sao trở thành tấm chăn che chở chúng tôi". Trong một lần, một cơn bão dữ dội ập tới đến mức những người đàn ông không muốn mạo hiểm kéo buồm, Dampier và một thủy thủ đoàn khác đã phải trèo lên boong tàu và cởi áo khoác ngoài ra để chèo lái con tàu.

Với hy vọng tìm thấy một vận may nào đó, cuối cùng thủy thủ đoàn đã lên đường đến Guam, một chuyến đi đầy khó khăn kéo dài hơn 7000 dặm. Họ loạng choạng bước lên bờ 51 ngày sau đó, trong tình trạng gần như chết đói. Sau đó, Dampier nhận ra rằng mọi việc còn tồi tệ hơn nữa, thủy thủ đoàn đang âm mưu giết chết và ăn thịt thuyền trưởng và các sĩ quan, bao gồm cả ông ấy. (Thuyền trưởng nhận tin này với thái độ đầy hài hước. Ông ấy quay sang người hoa tiêu của mình và cười, "À, Dampier, anh có thể sẽ mang đến cho họ một bữa ăn kém chất lượng đấy!" "Tôi gầy gò, không phốp pháp như thuyền trưởng đâu", Dampier giải thích. Từ Guam, thủy thủ đoàn đã thực hiện chuyến hải trình đến Trung Quốc và Việt Nam, và Dampier sau đó trở thành người Anh đầu tiên đặt chân đến Úc. Ngoài việc nghiên cứu động thực vật ở mỗi điểm đến, Dampier đã tận dụng thời gian trên biển khơi để nghiên cứu gió và dòng chảy, và dần trở thành một nhà hàng hải hạng nhất. Ngay cả những người coi thường Dampier cũng phải thừa nhận rằng, ông ấy có một khả năng siêu phàm là gần như có thể phán đoán được vị trí của đất liền nằm ngoài cả đường chân trời bằng cách đọc các luồng gió và dòng chảy.

Trong suốt những chuyến đi này, Dampier đổi tàu nhiều lần và tham gia vào các đoàn thủy thủ khác nhau. Đôi khi những thay đổi diễn ra một cách thoải mái; Dampier chỉ đơn giản là muốn đến một nơi nào đó mới mẻ, và "Không chuẩn bị kế hoạch nào cho việc tham quan những khu vực mà tôi chưa từng đặt chân đến trên thế giới có thể trở thành một sai lầm", ông khẳng định. Trong một số trường hợp khác, Dampier phải chạy trốn khỏi một thuyền trưởng chuyên quyền trong hoàn cảnh khốn khó, một lần bằng cách chui qua cửa sổ trong đêm khuya. Trong những lần trốn thoát như vậy, ông ấy thường chỉ mang theo một vật sở hữu duy nhất, thứ có giá trị nhất trên đời đối với ông ấy - ghi chép của ông về lịch sử tự nhiên.

Cuộc trốn chạy cuối cùng của ông ấy ở Nam Thái Bình Dương hết sức khó khăn. Mong muốn được trở về nhà, ông ấy và một vài người cùng cảnh ngộ, trong đó có bốn tù nhân người Indonesia, trốn ra một hòn đảo và chuẩn bị một chiếc thuyền ở đó. Trong lần trốn thoát đầu tiên để tìm kiếm sự tự do, họ bị lật thuyền, và Dampier phải dành ba ngày để hong khô từng trang ghi chú của mình trên đống lửa. Nỗ lực lần thứ hai lại đẩy họ vào một cơn bão, và họ mất sáu ngày tiếp theo lênh đênh trên đại dương mênh mông, cố gắng đẩy mái chèo và cầu nguyện. "Biển đã gầm thét, khạc vào mặt chúng tôi những làn nước trắng xóa... và chiếc thuyền của chúng tôi gần như bị những con sóng nuốt chửng", Dampier nhớ lại. Tệ hơn cả, ông ấy không xưng tội trong nhiều năm, và vô số tội lỗi không tên đang đè nặng lên tâm hồn ông ấy: "Tôi đã có những suy niệm rất đau buồn... và nhìn lại những điều Kinh dị và Ghê tởm, về những Hành động mà trước đây tôi không thích, giờ đây tôi run sợ khi nhớ lại". Thật kỳ diệu, cuối cùng họ cũng đến được đất liền tại Sumatra, nơi Dampier gục ngã ngay khi bước lên bờ và mất sáu tuần để hồi phục thể lực. Cuối cùng, ông ấy lên đường trở về nhà trên nhiều con tàu khác nhau và đến London vào tháng 9 năm 1691, 10 năm sau thời điểm ông ấy hứa với người vợ mới cưới của mình rằng sẽ trở lại sau 12 tháng.

Là một người hầu gái, Judith có cuộc sống của riêng mình và đã xoay xở tốt mà không cần người chồng tàn nhẫn. Những kẻ cướp biển này giờ đây phải kiếm sống. Và với rất ít lựa chọn nghề nghiệp - bạn không thể đưa nghề nghiệp "cướp biển" vào sơ yếu lý lịch của mình - Dampier bắt đầu sắp xếp các ghi chú thực địa của bản thân thành một cuốn sách ghi chép lại hành trình. Những cuốn nhật ký mà ông ấy vẫn còn được lưu giữ sau chuyến đi đúng là một điều kỳ diệu. Chúng bị nước làm hỏng nhiều lần và ông ấy đã từng phải nhét chúng vào ống tre để bảo quản. Nhưng nỗ lực đã được đền đáp + . Cuốn sách có tựa đề A New Voyage Round the World (tạm dịch: Một chuyến du hành mới vòng quanh thế giới) cuối cùng đã ra đời vào năm 1697 và là một thành công vang dội, với một số đoạn văn sống động nhất về lịch sử tự nhiên và nhân loại học từng được viết.

Sau thời gian ở Sumatra, Dampier xuất bản tài liệu đầu tiên bằng tiếng Anh về "ganga" hay cần sa: "Một số loại khiến chúng ta buồn ngủ, một số mang lại cảm giác vui vẻ, một số khiến chúng ta cười sảng khoái, và một số khác thì khiến chúng ta phát điên". Ông ấy mô tả hàng loạt cuộc cắt bao quy đầu cho những đứa trẻ 12 tuổi ở Philippines, và cách "chúng đi giạng hai chân trong hai tuần sau đó". Ông ấy cũng mô tả về hoạt động xăm mình ở Polynesia và tục lệ bó chân ở Trung Quốc (mà ông ấy tố cáo chỉ là "mưu kế" của những người đàn ông để làm phụ nữ không thể đi lại và giữ họ trong nhà). Khi nghe một truyền thuyết địa phương ở Tây Ấn, ông ấy đã ăn hàng chục quả lê một lúc và vui mừng khi thấy chúng thực sự khiến nước tiểu chuyển sang màu đỏ. Gần 1000 trích dẫn trong Từ điển tiếng Anh Oxford bắt nguồn từ các bài viết của ông, và ông ấy đã du nhập hàng chục từ ngữ vào tiếng Anh, bao gồm banana (chuối), posse (sở hữu), smugglers (kẻ buôn lậu), tortilla (bánh ngô), avocado (bơ), cashews (hạt điều), và chopsticks (đũa).

Cũng có nhiều yếu tố khoa học ở đây. Thậm chí ngày nay, không có ai vượt qua Dampier với vai trò là một nhà quan sát tự nhiên thuần túy. So với các tài liệu của Damper, các tài liệu khác về động thực vật dường như vô hồn - giống như một con sư tử nhồi bông so với con thú thực sự đang gầm thét. Một phần của sự sống động đến từ việc Dampier sử dụng tất cả năm giác quan, trong đó có vị giác. Người đàn ông này gặp con vật nào cũng ăn thịt nó. Ông ấy ghi chép lại rằng, gốc lưỡi hồng hạc có "một cục thịt nhỏ béo, mềm; Món Lưỡi Hồng hạc phù hợp với Bàn ăn của một vị Hoàng tử". Ông ấy đã nấu món xúp thịt bê và kỳ nhông, bánh bao dầu rùa, cùng hàng chục công thức nấu ăn khác. Và nếu tất cả những điều đó khiến miệng bạn chảy nước miếng thì Dampier cũng có thể nhanh chóng cướp đi cơn thèm ăn của bạn. Trong một đoạn ghê tởm, ông ấy chọc thủng một cái nang sán kí sinh trên chân và rút ra những con sán dài cả inch một cách đau đớn. Ông ấy cũng kể chi tiết - xin lỗi vì đã kể ra những điều này - một trong những cơn tiêu chảy kinh khủng nhất từng được ghi lại trong biên niên sử văn học Anh. Cơn tiêu chảy bắt đầu sau khi ông tìm cách điều trị một cơn sốt, bằng cách sử dụng "bí kíp" địa phương để tẩy ruột. Đúng là một ý kiến tồi. Ông ấy liên tục mắc phải các căn bệnh liên quan đến đường ruột trong suốt một năm, và đôi khi phải nhấp nhổm cả ba chục lần mỗi lần đi vệ sinh dù không thải ra được gì. Không ai có thể nói rằng công việc nghiên cứu thực tiễn là một việc làm thú vị.

Câu chuyện nổi bật về Dampier liên quan đến một cuộc tấn công của cá sấu. Ông ấy mở đầu câu chuyện bằng một đoạn văn miêu tả sự khác biệt giữa cá sấu châu Mỹ và cá sấu châu Phi. Trong thời đại mà hầu hết các học giả vẫn gộp chung cá voi với các loài cá khác thì khả năng phân biệt rõ ràng như vậy là điều rất ấn tượng và không có vẻ trái ngược với các tài liệu nghiên cứu về động vật học ngày nay. Sau đó, câu chuyện đột ngột chuyển hướng mà không có bất kỳ lời dẫn nào. Dampier bắt đầu câu chuyện về chuyến thám hiểm săn bắn vào ban đêm ở Campeche. Tại đó, một người Ireland tên là Daniel vấp phải một con cá sấu, nó quẫy đạp và ngoạm chặt chân anh ta. Anh ta hét lên cầu cứu. Nhưng những người bạn đồng hành "cho rằng anh ta đã rơi vào tay của một số người Tây Ban Nha", nên đã bỏ rơi anh ta, để anh ta một mình trong bóng tối với một con cá sấu đang gặm nát cơ thể mình.

Thật ngạc nhiên, Daniel vẫn giữ được bình tĩnh và nghĩ ra một kế hoạch. Không giống như động vật có vú, loài bò sát không có phần môi và không thể nhai. Thay vào đó, chúng nuốt thức ăn bằng những cú đớp lớn và phải mở miệng để đưa con mồi vào sâu bên trong. Vì vậy, khi kẻ săn mồi mở hàm một lần nữa, Daniel lao về phía trước và gài khẩu súng trường vào họng cá sấu thay cho chân anh ta. Hoàn toàn bị lừa, con cá sấu kéo cây súng ra phía xa để ngấu nghiến nó, và trong khoảng thời gian đó, Daniel lồm cồm bò quay lại.

Với tâm trí hoảng loạn, anh ta lê mình lên một cái cây và kêu cứu. Các đồng đội của anh ta nhận ra không có người Tây Ban Nha nào ở đây và mang theo những thanh gỗ đang cháy quay trở lại để đánh đuổi con cá sấu. Sau đó, Dampier cho biết, Daniel "ở trong tình trạng tồi tệ, và không thể đứng vững, đầu gối của anh ta rách bươm do những vết răng của cá sấu châu Mỹ. Khẩu súng của anh ta được tìm thấy vào ngày hôm sau... với hai cái lỗ lớn trên phần báng súng, mỗi bên một lỗ, sâu gần 3cm". Nói chung, câu chuyện này thể hiện một Dampier kinh điển - uyên bác, tỉ mỉ và khiến người khác phải dựng tóc gáy.

Một số nhà sử học đánh giá cao cuốn sách A New Voyage khi nó đánh dấu sự khởi đầu của thể loại du ký khám phá, và sau khi cuốn sách được xuất bản, Dampier đã nhận được lời mời thuyết trình tại Hiệp hội Hoàng gia (Royal Society) uy tín Ở London, câu lạc bộ khoa học hàng đầu thế giới. Một điều không tồi với một tên cướp biển. Ông ấy cũng dùng bữa với một số chính khách lỗi lạc, bao gồm cả tác giả hồi ký Samuel Pepys. Tất nhiên, các nhân vật tầm cỡ này muốn nói về lịch sử tự nhiên, nhưng một vài trong số họ chắc chắn cảm thấy rất phấn khích khi biết rằng đang có một tên cướp biển bằng xương bằng thịt đang ngồi cùng bàn ăn với họ.

Trong bối cảnh công chúng đang kêu gọi xuất bản nhiều hơn, Dampier đã xuất bản phần tiếp theo của A New Voyage vào năm 1699. Nó bao gồm bài viết nổi tiếng của ông, có tựa đề "Discourse on Winds" (tạm dịch: Nghiên cứu về những cơn gió), mà sau này các thuyền trưởng như James Cook và Horatio Nelson coi là chỉ dẫn thực tế hoàn hảo nhất đối với việc điều khiển tàu thuyền mà họ từng đọc được. Bài luận cũng thúc đẩy rất nhiều nghiên cứu khoa học về gió và dòng chảy. Hai trong số những người cùng thời với Dampier, Isaac Newton và Edmond Halley (nổi tiếng trong nghiên cứu về sao chổi), đã xuất bản các luận thuyết về nguồn gốc của thủy triều và mưa bão trong thời gian này. Bài luận của Dampier sau đó xác định rõ ràng nơi khởi nguồn của gió và dòng chảy. Sau đó, chỉ trong thời gian ngắn, ba nhà khoa học này đã giải đáp được một số bí ẩn lâu đời về biển và sự chuyển động tuần hoàn của nước trên Trái đất. Chúng tôi thường sẽ không đưa tên của một tên cướp biển vào cùng hàng ngũ với Halley hoặc Isaac Newton, nhưng Dampier xứng đáng về mọi mặt trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên, kỳ lạ thay, Dampier không ở Anh để chứng kiến cuốn sách thứ hai của mình được xuất bản. Thực tế, ông ấy kiếm được rất ít tiền từ lần xuất bản đầu tiên, một phần vì luật bản quyền không tồn tại ở thời điểm đó và hầu hết lợi nhuận của cuốn sách đã bị cướp đi, trớ trêu thay, bởi chính những kẻ "cướp biển" trong lĩnh vực văn học. Dampier vẫn cần kiếm sống bằng cách nào đó. Hơn nữa, ông ấy rất muốn bỏ nghề cướp biển và thay đổi bản thân để trở thành một nhà khoa học đáng kính. Vì vậy, chủ tịch của Hiệp hội Hoàng gia đã giới thiệu Dampier với Bộ trưởng Bộ Hải quân, người cho ông ấy cơ hội chỉ huy con tàu của riêng mình, Roebuck, và dẫn đầu một chuyến thám hiểm đến New Holland (nước Úc ngày nay). Mặc dù có thể có một số hoài nghi khi tái gia nhập hải quân nhưng Dampier đã chấp nhận lời đề nghị. Một phần trong nhiệm vụ của ông ấy là tìm ra các cơ hội thương mại. Nhưng mục tiêu chính là khoa học; đây là chuyến đi khoa học rõ ràng đầu tiên trong lịch sử. Đó là ý tưởng cao quý nhất mà bất cứ ai từng nghe đến. Tuy nhiên, với Dampier, đó là một thảm họa ngay từ giây phút đầu tiên.

Thoreau từng chê trách con người Dampier: một kẻ lỗ mãng yêu thiên nhiên nhưng lại cộc cằn với đồng loại của mình. Ông ấy cũng là một người kiêu ngạo. Những con tàu cướp biển Dampier tham gia trong giai đoạn đầu thường có một đặc điểm dân chủ đáng ngạc nhiên. Một số người thậm chí còn có bảo hiểm y tế sơ cấp, với mức bồi thường đa dạng cho những trường hợp bị mất mắt và chân tay + . Tuy nhiên, Dampier háo hức bỏ lại quá khứ trước khi bước lên tàu Roebuck. Ông ấy khẳng định rằng bản thân thông minh hơn tất cả mọi người trong mọi vấn đề, lĩnh vực khoa học cũng như trong các lĩnh vực khác, nhưng thiếu sức hấp dẫn và kỹ năng chính trị để dập tắt những vấn đề bất ổn đã xảy ra.

Đặc biệt là khi đối mặt với các sĩ quan, cấp phó của Dampier, một trung úy hải quân tên là George Fisher, coi Dampier như một tên cướp biển cặn bã. Anh ta thề rằng Dampier đang âm mưu chỉ huy tàu Roebuck và thực hiện hành vi cướp bóc ngay khi đến vùng nước ngoài khơi. Tàu Roebuck ra khơi vào tháng 1 năm 1699, và thậm chí trước khi nó đến điểm dừng đầu tiên (quần đảo Canary, để tích trữ rượu mạnh và rượu vang), Dampier và Fisher đã cãi nhau. Như một nhân chứng kể lại, theo cách nói thẳng thừng của các thủy thủ, Fisher đã "chửi bới, móc mỉa và mạt sát thuyền trưởng, đồng thời nói anh ta sẽ chẳng thèm để ý đến ông ấy".

Những căng thẳng đó bùng phát thành bạo lực vào giữa tháng 3. Giống như nhiều rắc rối trong cuộc sống, vụ bạo lực đó bắt đầu với một thùng bia. Khui một thùng bia là truyền thống trong ngành hàng hải bất cứ khi nào con tàu đi qua đường xích đạo, để những người đàn ông giải cơn khát trong thời tiết khắc nghiệt. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn của Dampier nhanh chóng uống cạn thùng bia và phàn nàn rằng cổ họng của họ vẫn bị khô. Họ đề nghị Fisher cho phép khui thêm thùng bia thứ hai.

Thay vì hỏi ý kiến Dampier, theo quy định trong ngành hải quân, Fisher đã tự quyết định.

Đây không phải là một cuộc nổi loạn. Nhưng Dampier đã vô cùng tức giận: Có tin đồn rằng Fisher lên kế hoạch đẩy ông ấy xuống biển để làm mồi cho cá mập. Và hành vi cố ý làm suy yếu quyền lực thuyền trưởng của anh ta đã phá vỡ dải băng kiềm chế sờn rách cuối cùng còn lại của Dampier. Khi nhìn thấy thùng thứ hai, ông ấy chộp lấy cây gậy, tìm người đã mở nó và vặn cổ anh ta. Sau đó, ông ấy nói với Fisher và yêu cầu được biết lý do tại sao anh ta lại cho phép làm vậy. Trước khi Fisher có thể đưa ra câu trả lời, Dampier đã đánh và tra tấn anh ta một trận tơi bời. Sau đó, Dampier xích chân Fisher và giam anh ta trong một căn phòng nhỏ suốt hai tuần. Fisher thậm chí không kịp suy nghĩ về những việc đang diễn ra, và phải tự chôn chân trong đống rác rưởi của chính mình. Khi con tàu đến Bahia, thuộc bờ biển Brazil, Dampier tống giam viên trung úy mà không cung cấp thức ăn.

Tuy nhiên, nếu Dampier nghĩ rằng mình sẽ chiến thắng trong cuộc thị uy quyền lực này, thì ông ấy đã tính toán sai. Khoảnh khắc cánh cửa phòng giam đóng lại, Fisher trèo lên cửa sổ và bắt đầu la hét về phía những người đang đi qua trên đường, chửi bới về việc anh ta bị giam cầm và phỉ báng Dampier. Sau đó, anh ta viết thư cho các nhà chức trách ở Anh để vạch trần bộ mặt bạo chúa của nhà khoa học cướp biển kia. Giờ đây mọi ý nghĩ của Fisher đều nhắm vào việc triệt hạ Dampier.

Ngược lại, Dampier giải quyết vấn đề bằng cách vùi đầu vào lịch sử tự nhiên. Trong khi Fisher lên kế hoạch cho đủ mọi âm mưu, Dampier lại biến mất vào các bụi cây xung quanh Bahia, ghi chép về chàm, dừa và các loài chim nhiệt đới. Một quan sát trong chuyến đi này cho thấy vai trò nổi bật về tầm quan trọng trong lịch sử của nó. Sau khi quan sát một số đàn "gà chân dài" tại các địa điểm khác nhau, Dampier nhận ra rằng, mặc dù mỗi đàn gà đều có đặc điểm khác biệt, nhưng không có một nhóm nào đủ khác biệt để được coi là một loài riêng. Có một sự biến đổi liên tục. Vì vậy, ông ấy đặt ra một từ mới, "phân loài", để mô tả trạng thái này. Điều này dường như chỉ là một quan sát nhỏ bé, nhưng Dampier đang dò dẫm hướng đến một ý tưởng - về sự biến đổi trong tự nhiên và mối quan hệ giữa các loài - mà người ngưỡng mộ ông - Charles Darwin - sau này sẽ thực hiện trong cuốn sách On the Origin of Species (tên tiếng Việt: Nguồn gốc của các loài).

Tòa án dị giáo Công giáo ở Brazil cuối cùng đã chấm dứt những chuyến đi của Dampier. Họ không thích ý nghĩ về một tên cướp biển theo đạo Tin Lành lang thang khắp nơi và ghi chép mọi thứ, và có tin đồn rằng nhà thờ đã lên kế hoạch bắt giữ hoặc thậm chí đầu độc ông ấy. Có lẽ vì lo sợ bản thân sẽ bị giam cầm bên cạnh người cấp phó của mình, Dampier đã vội vàng ra khơi. Ông ấy cũng sắp xếp để đưa Fisher trở lại Anh và cho rằng đây sẽ là một phiên tòa nhục nhã vì sự không phục tùng. Dampier chỉ đúng một nửa. Sẽ có một phiên tòa, và rất nhiều sự sỉ nhục, chỉ là không dành cho Fisher.

Với sự vắng mặt của Fisher, căng thẳng đã hạ nhiệt trên con tàu Roebuck, và vào giữa tháng 8, thủy thủ đoàn đã đến được miền tây nước Úc, thả neo trên những bãi biển trắng lấp lánh của vịnh Shark. Họ dành vài tuần tiếp theo để quan sát những con chó dingo, rắn biển, cá voi lưng gù, và nhiều hơn nữa - một khởi đầu tuyệt vời cho một chiến dịch khoa học.

Vận may của họ không kéo dài được lâu. Miền Tây nước Úc cũng ảm đạm như sự khô cằn của nó, và mặc dù đã lùng sục khắp bờ biển nhưng Roebuck không thể tìm thấy nguồn nước ngọt nào. Các thủy thủ nhanh chóng khát khô cổ, vì vậy họ cố gắng tiếp cận một số thổ dân, những người mà họ cho rằng có những mánh khóe để tìm được nguồn nước. (Những thổ dân đúng là có thể làm những việc như vậy, bao gồm cả việc theo dõi chim chóc, ếch nhái và đốn đẽo rễ cây.) Nhưng bất cứ khi nào các thủy thủ đến gần, những thổ dân lại chạy tán loạn. Vì vậy, Dampier nghĩ ra một kế hoạch liều lĩnh. Sau khi chui lên bờ, ông ấy cùng hai người bạn đồng hành nấp sau một cồn cát để phục kích những người bản địa. Kế hoạch của họ là bắt cóc một người và buộc anh ta dẫn họ đến một con suối. Khi những người Anh nhảy ra ngoài, những thổ dân một lần nữa bỏ chạy, và những người Anh đuổi theo - mà không nhận ra rằng họ đang rơi vào một cái bẫy. Ngay khi Dampier và những người đi cùng bị dụ vào một bãi đất trống, những người Úc bản địa đã quay ra tấn công họ bằng những mũi giáo. Một người của Dampier bị chém vào mặt, và bản thân Dampier suýt bị đâm trúng. Khi những phát súng cảnh cáo không thể xua đuổi được đối phương, Dampier đã rút khẩu súng lục ra, nhắm bắn khiến một người bị thương. Đó là khoảnh khắc hiếm hoi ông thừa nhận đã có hành vi bạo lực trong các cuốn sách của mình + .

Trở về London mà không có một mẫu vật nào, chưa kể đến con tàu, đã đủ tồi tệ rồi. Nhưng khi đặt chân lên quê nhà vào tháng 8 năm 1701, ông ấy phát hiện ra rằng, George Fisher đã đầu độc xã hội Anh để tất cả mọi người chống lại ông ấy - chỉ trích kẻ cướp biển này bằng những lời tố cáo mạnh mẽ, đến mức Bộ trưởng Bộ Hải quân cảm thấy có nghĩa vụ phải mở một phiên tòa án binh đối với Dampier và xét xử ông ấy trên một con tàu.

Dampier bào chữa cho bản thân hết sức có thể, sắp xếp các nhân chứng để họ thề rằng Fisher đang âm mưu chống đối. Dampier cũng đấu tranh một cách bẩn thỉu, buộc tội Fisher - không ai biết sự thật như thế nào - đã quan hệ tình dục với hai chàng trai trẻ phục vụ trên tàu trong chuyến hành trình của họ. (Cướp biển chấp nhận đồng tính luyến ái ở một mức độ nào đó; hải quân thì không.) Về phần mình, Fisher chỉ trích tính cách của Dampier, tố cáo ông ấy là một tên khốn nạn và vô lại. Anh ta cũng cáo buộc Dampier sát hại một thành viên thủy thủ đoàn tài giỏi bằng cách nhốt anh ta vào cabin để làm bùa phép, dù 10 tháng sau khi phải chịu hình phạt, người đàn ông này mới chết, về phần mình, các thẩm phán đã bác bỏ cáo buộc đó cũng như các cáo buộc khác, bao gồm cả những sơ suất khiến con tàu Roebuck bị chìm. Nhưng họ không thể phớt lờ việc Dampier đánh đập và tra tấn Fisher, một sĩ quan đồng nghiệp, và tuyên bố Dampier phạm tội "chỉ huy nghiêm khắc và tàn nhẫn" đối với người cấp phó. Để trừng phạt, họ cấm ông ấy chỉ huy bất kỳ tàu Anh nào khác và phạt ba năm lương.

William Dampier đã cố gắng tỏ ra đáng kính, và điều đó chẳng mang lại lợi ích gì cho ông ấy. Ông ấy vẫn không một xu dính túi như ngày nào, và giờ đây đã trở thành một kẻ hạ đẳng trong giới cai trị. Ông ấy chỉ còn một lựa chọn duy nhất: nhà tự nhiên học 49 tuổi sẽ phải quay trở lại công việc cướp biển.

Cuộc đời và thời đại của Dampier có vẻ xa vời với chúng ta, nhưng những vấn đề đạo đức mà ông ấy nêu ra vẫn còn phù hợp cho đến ngày nay. Có một điều đó là, nạn vi phạm bản quyền khoa học chưa kết thúc vào những năm 1700. Hơn nữa, kiểu nghiên cứu thực địa mà ông ấy thực hiện, theo một khía cạnh nào đó, thậm chí còn nguy hiểm hơn nhiều thế kỷ trước.

Trong những năm qua, vô số các nhà tự nhiên học đã chết khi vẫn còn đeo đôi ủng nghiên cứu thực địa. Hầu hết đều không chống chọi được với bệnh sốt rét, sốt vàng da hay một căn bệnh khác, nhưng họ phải chịu đựng đủ những vết rắn cắn, giẫm đạp, thú dữ tấn công, lở bùn và ngộ độc để có thể viết ra toàn bộ một tập sách. Các nhà khoa học cũng bị sát hại. Năm 1942, Ernest Gibbins, một nhà sinh vật học người Anh nghiên cứu các bệnh lây truyền qua đường máu ở Uganda, đã bị phục kích trong xe và bị đâm chết bởi các chiến binh địa phương, những người tin rằng ông ăn cắp máu của họ cho những "hoạt động tà ác của người da trắng". Một sĩ quan cảnh sát cho biết, cơ thể của ông ấy "cắm đầy những ngọn giáo như một con nhím đẫm máu". Kể từ đó, các cuộc chiến giữa các bộ tộc và xung đột sắc tộc trong thế kỷ XX ngày càng tăng, trầm trọng hơn là nạn buôn bán vũ khí trên toàn cầu, làm gia tăng nguy hiểm cho công tác nghiên cứu thực địa ở nhiều khu vực. Dampier và những người cùng thời phải chịu đựng rất nhiều nguy hiểm, nhưng ông ấy không bao giờ phải lo lắng về việc bị một lực lượng dân quân vũ trang bắt cóc và đòi tiền chuộc 6 triệu đô la, như chuyện đã xảy ra với một nhà khoa học nghiên cứu lúa gạo ở Colombia vào những năm 1990. Vì những lý do này, nhiều viện nghiên cứu ngày nay ít chấp nhận những may rủi hơn và bỏ qua công tác nghiên cứu thực địa.

Xét về nạn vi phạm bản quyền khoa học, bản chất của nó đã thay đổi kể từ thời đại của Dampier. Một lần nữa, Dampier lại trở thành một tên cướp biển phần lớn vì muốn nuôi những nỗi ám ảnh khoa học của mình; ông ấy không có phương tiện nào khác để đi đến những vùng đất xa xôi. Ngược lại, với các nhà khoa học sau này, bản chất công việc của họ là một hành vi phạm tội vì nó liên quan đến việc đánh cắp tài nguyên thiên nhiên - hay còn được gọi là đánh cắp bản quyền sinh học.

Một loại thuốc rất được thèm muốn trong thời thuộc địa là quinine, một loại thuốc có nguồn gốc từ vỏ quế của cây canh-ki-na. Khi được nghiền thành bột và uống với nước, quinine giúp chống lại bệnh sốt rét, căn bệnh nguy hiểm nhất trong lịch sử loài người. (Theo một số ước tính, các căn bệnh do muỗi gây ra đã giết chết một nửa trong tổng số 108 tỉ người từng sinh sống trên Trái đất, và bệnh sốt rét chiếm vai trò lớn nhất trong cuộc tàn sát đó.) Thật không may, trong khi bệnh sốt rét là một tai họa trên toàn thế giới - gây ra cái chết cho nhiều người ở châu Phi và Ấn Độ, Ý và Đông Nam Á - thì cây canh-ki-na lại chỉ mọc ở Nam Mỹ. Vì vậy, các quốc gia châu Âu bắt đầu cử các nhà thực vật học bí mật đến Nam Mỹ để đánh cắp hạt giống cây canh-ki-na. Nó cho thấy mục đích của một kẻ ngu ngốc. Các loài giàu chất quinin, có giá trị nhất sống trên những sườn núi dốc thuộc dãy Andes, nơi được sương mù bao phủ gần như quanh năm. Kết quả là, những kẻ buôn lậu đều thất bại, và một số người đã phải bỏ mạng.

Cuối cùng cũng có người thành công, đó là một người da đỏ Bolivia tên là Manuel Incra Mamani. Có rất ít thông tin về Mamani. Những câu chuyện cho rằng ông ấy là hậu duệ của một vị vua Inca gần như chắc chắn không phải là sự thật, mặc dù ông ấy có thể xuất thân từ một nhóm chuyên gia y học coi trọng kiến thức thực vật học. Chưa kể, ông ấy có thể đi bộ qua rừng Amazon trong nhiều tuần liên, tiếp năng lượng bằng một chút lá coca, và có khả năng tài tình khi có thể phát hiện ra một đốm hồng đỏ nhỏ - màu đặc trưng của lá cây canh-ki-na - giữa bạt ngàn tán cây xanh bất tận của khu rừng. Sau khi thu hoạch một vài bao hạt giống vào năm 1865, ông ấy đi bộ hàng nghìn dặm qua vùng cao nguyên Andes lạnh giá, và giao chúng cho một người Anh đã thuê ông ấy. Với việc này, ông ấy nhận được 500 đô la, hai con la, bốn con lừa và một khẩu súng mới. Ông ấy cũng bị kết án tử hình vắng mặt vì tội phản bội tổ quốc. Người Anh tham lam sau đó đưa ông ấy trở lại khu rừng để tìm thêm hạt giống, lúc đó Mamani bị bắt và bị buộc tội buôn lậu. Ông ấy bị tống vào tù, không được cung cấp thức ăn và nước uống, và bị đánh đập dã man. Hai tuần sau, ông ấy được thả ra, bị tàn tật đến mức không thể đứng thẳng được. Những con lừa của ông ấy đã bị tịch thu còn ông ấy chết vài ngày sau đó.

Các nhà sử học vẫn tranh luận về việc liệu có thể biện hộ cho tội lỗi của Mamani hay không. Một mặt, Peru và Ecuador đã buôn bán một loại thuốc thiết yếu và tính giá cao ngất ngưởng để trục lợi trên cái chết. Hơn nữa, họ trồng loài cây này kém hiệu quả đến mức cây canh-ki-na đứng trước bờ vực tuyệt chủng vào giữa những năm 1800. Sau Mamani, một số quốc gia châu Âu đã lập các đồn điền cây canh-ki-na ở châu Á bằng hạt giống nhập lậu, nhờ đó cứu sống hàng triệu người trên toàn thế giới + . (Tình cờ, các sĩ quan Anh ở Ấn Độ dùng vỏ cây để làm một loại nước bổ dưỡng có vị đắng, họ pha với rượu để dễ uống hơn. Vì vậy, rượu gin và thuốc bổ được sinh ra). Mặt khác, các đồn điền ở châu Á làm suy yếu và cuối cùng xóa sổ ngành trồng cây canh-ki-na bản địa ở Nam Mỹ, khiến người dân ở đó trở nên nghèo túng. Và với giá trị y học của cây canh-ki-na, một nhà sử học đã gọi vụ trộm, hơi cường điệu một chút, là "vụ trộm lớn nhất trong lịch sử". Đó là chủ nghĩa thực dân với mức độ bóc lột nặng nề nhất. Nó cũng đã cứu sống vô số người ở châu Phi và châu Á.

Những vụ việc ăn cắp bản quyền sinh học khác dường như khó biện minh hơn. Một thành phần quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa là cao su, được lấy từ nhựa của một số loại cây có nguồn gốc từ Amazon. Nếu không có lốp xe cao su, ô tô và xe đạp sẽ không tồn tại, đồng thời các đường ống và chiếc gioăng cao su đã tạo ra nền hóa học và y học hiện đại. Chúng ta cũng không có điện nếu không có lớp cách điện bằng cao su cho dây dẫn. Nhưng cao su vẫn là một mặt hàng của thị trường có giới hạn cho đến khi nhà thám hiểm người Anh Henry Wickham phá vỡ thế độc quyền của Brazil đối với mặt hàng này vào năm 1876, khi buôn lậu 70.000 hạt cây cao su, được sử dụng để lập thêm đồn điền ở châu Á. Thế giới nói chung đã được hưởng lợi, không có gì nghi ngờ về điều này, nhưng ăn cắp hạt giống để làm hàng tiêu dùng có vẻ kém đạo đức hơn việc ăn cắp hạt giống để làm thuốc. Các trường hợp buôn lậu khác thậm chí còn kém đạo đức hơn. Hãy xem trường hợp nhà thực vật học người Scotland ở Trung Quốc vào những năm 1840, người mặc trang phục địa phương, cạo nửa đầu phía trước, tết tóc đuôi sam, đột nhập vào một đồn điền do nhà nước quản lý và lấy trộm 20.000 cây chè giá trị để vận chuyển đến Ấn Độ. Bạn sẽ khó có thể đưa ra một biện minh nhân đạo cho Earl Grey.

Ăn cắp bản quyền sinh học vẫn diễn ra trong thời hiện đại. Các tỷ phú ở Trung Quốc trả nhiều tiền cho những kẻ săn trộm sừng tê giác và những thứ được cho là quý giá khác. Các công ty dược phẩm phát triển các loại thuốc ưu việt từ nọc rắn và cây dừa cạn cùng các nguồn tài nguyên nhiệt đới khác, và hiếm khi số tiền thu lợi đổ về cho người dân bản địa, trong một số trường hợp, họ chính là người đầu tiên khám phá ra dược tính của các loại cây đó. Nhưng đó chưa phải là tất cả về giới siêu giàu: hằng ngày, mọi người trên khắp thế giới ủng hộ một thị trường chợ đen rộng lớn với các loài hoa và vật nuôi kỳ lạ. Ngay cả khi những kẻ phạm tội không còn săn lùng những đồng tiền vàng Doubloon và những đồng xu Tây Ban Nha thì tinh thần của cướp biển thời Dampier vẫn tồn tại.

Năm 1703, William Dampier cuối cùng cũng có được một bước nhảy. Một cuộc chiến mới với Tây Ban Nha và Pháp đã nổ ra, và nước Anh cần những con tàu lùng + để quấy rối kẻ thù. Vì vậy, dù bị cấm chỉ huy tàu thuyền, nhưng Nữ hoàng Anne đã triệu tập tên cướp biển 51 tuổi này đến diện kiến. Giống như một cận thần, Dampier hôn lên bàn tay hoàng gia và nói những lời nịnh bợ, nhanh chóng nhận lệnh ủy nhiệm làm thuyền trưởng con thuyền St. George.

Than ôi, chuyến đi trên con thuyền St. George là một công việc hỗn độn và đầy biến cố khác. Người của Dampier cáo buộc ông ấy nhận hối lộ (chẳng hạn như bộ đồ ăn bằng bạc) từ thuyền trưởng của những con tàu nước ngoài mà ông ấy bắt được. Đổi lại, Dampier sẽ chỉ tiến hành khám xét qua loa các kho hàng và để họ ra khơi với hầu hết các kho báu còn nguyên vẹn. Cũng có tin đồn cho rằng Dampier uống rất nhiều rượu, mặc dù khó có thể đổ lỗi cho ông ấy. Ngày ngày ông phải tất tả ngược xuôi, quan sát đường chân trời tìm những con tàu xa xôi. Công việc đó buồn tẻ một cách đáng sợ, và không giống như những ngày làm cướp biển trước đây, ông ấy không thể chỉ hoàn thành nhiệm vụ của bản thân và giong buồm đến một bến cảng xa xôi nào đó. Bây giờ, ông ấy có trách nhiệm phải thực hiện, và việc không thể thỏa mãn trí tò mò khoa học của bản thân đã khiến ông ấy cảm thấy khốn khổ. (Nghiên cứu hiện đại cho thấy chỉ số IQ tương quan chặt chẽ với việc lạm dụng rượu, và đó là lý do mà mọi người sẽ uống nhiều rượu hơn khi cảm thấy đầu óc trì trệ.) Khi chuyến đi kết thúc vào năm 1707, danh tiếng thuyền trưởng của Dampier bị lung lay, và ông ấy không bao giờ chỉ huy một con tàu nào nữa.

Dù là một vị thuyền trưởng yếu kém nhưng Dampier vẫn là một nhà hàng hải tài giỏi. Vài năm sau, ông ấy tham gia một chuyến tàu tư nhân khác và điều đó đã tạo nên lịch sử văn học. Trong một chuyến du ngoạn ở Thái Bình Dương, thủy thủ đoàn bắt đầu cạn kiệt nước uống và mệt mỏi vì căn bệnh scurvy + , vì vậy Dampier hướng họ về vùng đất gần nhất, quần đảo Juan Fernandez ngoài khơi Chile. Khi đến gần, họ vô cùng kinh ngạc khi thấy một con thú hai chân lông lá đang đứng trên bờ và vẫy tay. Đó là một thủy thủ tên là Alexander Selkirk, bị bỏ lại trên hoang đảo. Như một nhân chứng kể lại, anh ta đang khoác trên mình những tấm da dê và trông "còn hoang dã hơn những người chủ đầu tiên của chúng". Trong 4 năm, 4 tháng và 4 ngày Selkirk kiếm sống trên đảo - bắt dê, gặm bắp cải dại, làm dao và lưỡi câu từ những chiếc thùng trôi dạt vào bờ biển. Bàn chân của anh ta chai sần như da kỳ nhông, và sau bốn năm bị cô lập, giọng nói của anh ta khàn đến mức gần như không thể nói được. Phi hành đoàn của Dampier đã giải cứu và đưa anh ta trở về Anh trong niềm hân hoan như một chiến thắng vang dội. Câu chuyện của anh ta sớm thôi thúc Daniel Defoe viết Robinson Crusoe.

Defoe không hề đơn độc trong việc khai thác cuộc đời Dampier để lấy cảm hứng viết sách. Jonathan Swift đã đọc những câu chuyện của ông khi viết Gulliver's Travels và Samuel Taylor Coleridge cũng làm như vậy khi cho ra đời tác phẩm The Rime of the Ancient Mariner (tạm dịch: Mấy vần thơ của người thủy thủ xưa). Người hâm mộ có ảnh hưởng nhất của Dampier, Charles Darwin, thậm chí còn mang theo sách của Dampier trong chuyến du hành trên con tàu Beagle vào những năm 1830. Darwin cười khúc khích về những hành động nghịch ngợm của người cướp biển tiền nhiệm, và gọi ông ấy là "Dampier Già" trong ghi chép của mình. Quan trọng hơn, Darwin đã nghiên cứu những mô tả của Dampier về các loài và phân loài, cùng các tài liệu của ông về những địa điểm như Galápagos, và coi Dampier như một hướng dẫn viên nhiệt thành. Darwin có thể không bao giờ trở thành Darwin nếu không nhờ tên cướp biển già này.

Nhưng trong khi các tác giả sách du ký và nhà khoa học luôn tha thứ cho Dampier, thì những George Fishers ngày nay lại thấy khó có thể tôn trọng ông. Khi thị trấn nơi Dampier sinh ra đề xuất dựng một tấm bảng để tôn vinh ông ấy vào đầu những năm 1900, một nhà nghiên cứu sống theo đức hạnh của các vị thần đã đứng lên tố cáo ông ấy là "một tên cướp biển lưu manh đáng ra phải bị treo cổ". Các nhà phê bình ngày nay thậm chí còn đi xa hơn. Họ cho rằng khoa học của Dampier, dù có tính đột phá đến đâu cũng chỉ tạo ra một con đường cho chủ nghĩa thực dân và do đó là một tội ác chống lại loài người.

Vấn đề là, cả hai luồng quan điểm đều có lý. Dampier thiếu trung thực nhưng cũng xuất sắc, là một người truyền cảm hứng cũng như là một kẻ cặn bã. Công việc của ông là tiền đề cho gần như mọi lĩnh vực khoa học tồn tại sau đó - hàng hải, động vật học, thực vật học, khí tượng học - nhưng ông ấy cũng đã làm những điều đáng khinh bỉ trong thời gian đó. Như một người viết tiểu sử lưu ý, "Defoe, Swift và tất cả những người khác nợ Dampier nhiều hơn vai trò là hình mẫu đơn lẻ. Thực tế có thể nói rằng, họ nợ người đàn ông này toàn bộ tinh thần của một thời đại mới".

Than ôi, thời đại mới này sẽ có những hành động tàn ác của riêng nó cần phải xem xét - đặc biệt là chế độ nô lệ. Nhìn sơ qua, khoa học và chế độ nô lệ dường như không liên quan nhiều đến nhau. Nhưng cả hai đều là lực lượng cơ bản hình thành nên thế giới hiện đại, và các nhà sử học đã bắt đầu nhận ra rằng chúng cũng định hình lẫn nhau theo những cách đáng lo ngại.