CHÚ THÍCH
.
- Cuối những năm 1600 và đầu những năm 1700 là thời kỳ đỉnh cao của nạn cướp biển vì một lý do. Một số cuộc chiến tranh kéo dài ở châu Âu đã kết thúc trong khoảng thời gian này, có nghĩa là rất nhiều thủy thủ tài giỏi không có việc làm. Dù họ có thể gia nhập hải quân, nhưng nhiều người đã phản đối những quy định hà khắc ở đó. Cũng có quá nhiều của cải vận chuyển qua lại trên các đại dương và việc quản lý các vùng biển rộng lớn là một điều khó khăn, đến mức mọi người sẽ cảm thấy kỳ lạ nếu hải tặc không phát triển mạnh mẽ.
- Ngày nay, chúng ta coi viết lách là điều hiển nhiên, nhưng Dampier không thể chỉ cầm lấy một cây bút và bắt đầu viết ra mọi thứ. Mỗi khi tìm thấy thứ gì đó đáng để ghi lại, ông ấy phải lấy một cây bút lông từ trong chiếc hộp của mình dưới boong tàu, dùng dao gọt nó, pha bột với nước để làm mực, và tìm một nơi không quá tối hoặc ẩm ướt hay quá đông đúc với những thủy thủ ồn ào - tất cả những điều đó chỉ để viết ra một vài câu từ. Công việc cũng không dừng lại ở đó. Sau khi viết xong, ông ấy phải chà nhám giấy để loại bỏ bớt phần nước mực và tránh các dòng chữ bị nhòe, sau đó xếp chúng lại và mong Chúa đừng để thứ gì nuốt chửng nó trong tương lai. Viết lách không bao giờ là một công việc dễ dàng, nhưng thời ấy nó là một công trình thực sự.
- Cướp biển nhận được 600 đồng Tây Ban Nha khi mất cánh tay phải, 500 đồng Tây Ban Nha khi mất cánh tay trái hoặc chân phải, 400 đồng Tây Ban Nha khi mất chân trái và 100 đồng Tây Ban Nha khi mất một mắt hoặc ngón tay. Những thông tin này được đúc kết trong các tài liệu chính thức vì tỷ lệ cướp biển có khả năng đọc hiểu cao một cách đáng ngạc nhiên (khoảng 3/4), phần lớn là do họ cần đọc hiểu các bản đồ. Cướp biển cũng tổ chức các cuộc bỏ phiếu về vùng đất tiếp theo sẽ đi đến để cướp bóc (thiểu số phục tùng đa số), và giờ ăn cũng dân chủ một cách đáng ngạc nhiên. Họ chia sẻ tất cả thức ăn như nhau và, không giống như trong hải quân hợm hĩnh, các sĩ quan không thể can thiệp vào việc lựa chọn đồ ăn.
- Chắc chắn Dampier sẽ không thể vượt qua bất kì bài kiểm tra hiện đại nào về sự giác ngộ; giống như tất cả mọi người khi đó, ông ấy có những định kiến riêng. Nhưng người viết tiểu sử về ông ấy đã gọi ông ấy là một “người nhân đạo trong một thời điểm không nhân đạo” - một tóm tắt mô tả khá đầy đủ cho điều này. Trên thực tế, nếu dành thời gian để thực sự đọc các tác phẩm của ông ấy thì sẽ thấy điều nổi bật nhất là khả năng chịu đựng các nền văn hóa xa lạ. Bất cứ khi nào thấy một phong tục hoặc nghi thức kỳ lạ, ông ấy luôn hạn chế phán xét và cố gắng hết sức để tìm hiểu nó. Ông ấy cũng khắt khe hơn nhiều trong việc đánh giá đồng hương của mình. Chẳng hạn, ông ấy đảo mắt khi các sĩ quan khác từ chối tin tưởng một nữ tù nhân đa chủng tộc làm hướng dẫn viên, đơn giản là vì con người của cô ta. Vì vậy, dù hầu như không bị ảnh hưởng bởi các tiêu chuẩn hiện đại, nhưng nhà sinh học cướp biển này dường như rất khoan dung với thời đại của mình, và ông ấy nhận ra rằng người châu Âu thường bạo lực với chính họ: “Theo tôi, không có người nào trên thế giới này dã man đến mức giết một người vô tình rơi vào tay họ, hoặc đến sống cùng họ, trừ trường hợp trước đó họ từng bị tổn thương do một số sự phẫn nộ hoặc bạo lực nào đó”.
- Nếu bạn thích những câu chuyện về Đức Quốc xã - và thành thật mà nói, mọi câu chuyện đều hay hơn khi có một số nhân vật phản diện của Đức Quốc xã - thì tôi khuyến khích bạn xem podcast của tôi, có tên The Disappearing Spoon (tên tiếng Việt: Chiếc thìa biến mất), để tìm hiểu nhiều câu chuyện khác nhau. Nó giải thích cách thức một vài tên Đức Quốc xã lừa đảo có thể đã cứu được nhiều người Mỹ hơn bất kỳ ai khác trong suốt Thế chiến thứ hai nếu cung cấp quinine cho họ vào thời điểm tuyệt vọng. Nhìn chung, podcast chứa tất cả các câu chuyện mới, những câu chuyện không xuất hiện trong sách của tôi. Bạn có thể đăng ký qua iTunes, Stitcher hoặc bất kỳ nền tảng nào khác hoặc truy cập trang web của tôi tại samkean.com/podcast.
- Tàu của tư nhân được chính phủ giao nhiệm vụ chuyên đi bắt tàu buôn địch.
- Scurvy (hay scorbut) là một căn bệnh gây ra do thiếu vitamin C (axit ascorbic).
- Những người sưu tập tại nhà đôi khi bị khinh miệt là “những nhà tự nhiên học ngồi ghế bành” vì sự thiếu hiểu biết của họ về thực vật và động vật thực tế có thể dẫn họ đến những kết luận vô lý. Ví dụ, khi loài chim Papuan lần đầu tiên xuất hiện ở châu Âu vào giữa những năm 1700, các nhà sưu tập đã đặt tên cho nó là “loài chim thiên đường” vì bộ lông tuyệt đẹp và không có chân - một dấu hiệu khiến họ kết luận rằng, loài chim này không bao giờ đậu. Thay vào đó, nó dành cả cuộc đời bay qua các tầng mây. Trên thực tế, những người bản địa đã bắt con chim, cắt chân nó để làm đồ trang trí. Mọi vết thương đều được che giấu bên dưới lớp lông xù. Những người bản địa sau đó đã giao những xác chết không chân cho các nhà tự nhiên học châu Âu, những người mà họ không bao giờ ngờ có thể ngây thơ đến vậy. Một nhà sử học cho biết: “Tình yêu đối với những thứ kỳ diệu và yêu thích phỏng đoán đã chiếm ưu thế”, và một huyền thoại khoa học đã ra đời.
- Mặc dù họ có thể đã được đào tạo về khoa học, nhưng các bác sĩ phẫu thuật trên tàu không phải lúc nào cũng biết chi tiết và có kinh nghiệm trong việc thu thập mẫu vật. Vì vậy, một nhà sưu tập ở London đã hỗ trợ bằng cách cung cấp bộ dụng cụ dành cho người mới bắt đầu với lọ đựng côn trùng và loại giấy đặc biệt để ép một số loại thực vật. Ông ấy cũng đưa ra những lời khuyên độc đáo trong các lá thư gửi cho các phụ tá của mình, bao gồm tầm quan trọng của việc xem xét hệ tiêu hóa của các loài động vật ăn thịt để tìm những loài mới được tiêu hóa một nửa: “Bất cứ khi nào các anh bắt được bất kỳ con nào trong số này”, ông ấy nhấn mạnh, “hãy nhìn vào ruột và dạ dày của chúng và lấy ra những con vật các anh tìm thấy ở đó”. Trên thực tế, đây là lời khuyên hữu ích ngay cả trong thời đại hiện nay: vào năm 2018, các nhà khoa học ở Mexico đã phát hiện ra một loài rắn mới bên trong ruột của một loài rắn khác.
- Một số nhà sử học cho rằng, công việc của Wallace ở Malaysia thậm chí có thể đã thúc đẩy ông ấy tiến tới việc đồng khám phá quá trình tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên. Cuối cùng, ông trở thành một nhà sưu tập tham gia nghiên cứu hàng ngàn loài côn trùng để tìm các biến thể về màu sắc, kích thước và các đặc điểm khác cũng như những đột biến là nguyên liệu thô để chọn lọc tự nhiên vận hành.
- William, cha của James Cleveland, xuất thân từ một gia đình danh giá ở Anh. Anh trai của William là Bộ trưởng Bộ Hải quân. Nhưng tính tình William rất tồi tệ, và sau khi bị đắm tàu gần Banana vào những năm 1750, ông ấy loạng choạng lên bờ và tuyên bố mình là vua. Ông ấy kết hôn với một số phụ nữ địa phương và cuối cùng chọn James, người đã xây dựng một doanh nghiệp buôn bán nô lệ phát triển dù bản thân là người lai châu Phi. Để làm Cleveland vui, những người châu Âu trên hòn đảo của anh ta phải thường xuyên cống nạp cho anh ta súng, rượu rum, vải và đồ sắt, chưa kể đến chiếc thắt lưng vàng kỳ quặc hoặc chiếc sừng đầy họa tiết trang trí để uống rượu. Có lúc, Henry Smeathman đặt hàng cho Cleveland một “máy điện” cực kỳ đắt tiền từ Anh, có thể tạo ra các điện tích (có lẽ là do ma sát) và sử dụng một quả cầu thủy tinh để gây sốc cho mọi người nhằm mục đích giải trí.
- Cách dùng tương đương đôi khi có thể giúp chúng ta hiểu các hệ thống khoa học, nhưng việc sử dụng tên “chúa” đối với mối, kiến và ong là sai lầm. Những con chúa này không phải là “kẻ cai trị” thuộc địa theo bất kỳ nghĩa nào. Trên thực tế, cuộc sống của một con mối chúa có vẻ khá đau khổ. Khi lập một địa hạt mới, các con mối thợ về cơ bản nhốt “chúa” vào một “căn phòng hoàng gia” nhỏ bé, nơi nó sống phần đời còn lại trong bóng tối, không thể làm gì khác hơn là bị ép đưa thức ăn xuống miệng và bơm ra những đứa con suốt cả ngày. Hãy tưởng tượng, bạn phải sinh đẻ trong suốt phần đời còn lại, và bị đầy hơi đến mức không thể nhúc nhích. Thay vì nghĩ chúng là “chúa”, ta nên gọi chúng là “máy đẻ” hoàng gia.
- Trái ngược với Kwasi, một số nô lệ đã sử dụng kiến thức thực vật siêu việt của mình để trả thù những kẻ bắt giữ mình bằng cách đầu độc họ. Sắn là một chất độc đặc biệt phổ biến vì nó là một món ăn ngon nếu được nấu chín đúng cách nếu không sẽ rất độc hại. Các nô lệ thường phơi khô và tán bột những con giun đã được cho ăn nhựa sắn, sau đó giấu một chút bột dưới móng tay và lén lút thả vào đĩa thức ăn của chủ nhân khi phục vụ họ.
- Thật kỳ lạ, Hans Sloane cũng phát minh ra sô-cô-la sữa ở Jamaica; ông ấy coi đây là một cách dễ dàng hơn để tiêu thụ ca cao, thứ mà lúc đó được coi là một loại thuốc. Khi trở về London, Sloane bán công thức này cho một tiệm thuốc tây, người này sau đó bán nó cho một hãng đồ ăn nhỏ tên là Cadbury. Mỗi khi bạn nhấm nháp một thanh sô-cô-la ngày này, bạn có thể truy ngay nguồn gốc của nó là sự kết hợp của khoa học - nô lệ - công nghiệp.
- Những người chết trong mùa hè may mắn hơn ở chỗ cơ thể họ bị phân hủy nhanh hơn dưới cái nóng. Và cũng do các nhà giải phẫu học thường nghỉ hè nên chúng ít được sử dụng. Những cái chết vào mùa đông hầu như luôn kèm theo một vụ trộm xác. Vào những ngày đặc biệt lạnh giá, khi cơ thể vẫn còn cứng, những kẻ trộm mộ thậm chí không cần phải che đậy chúng. Họ có thể chỉ cần nâng chúng lên trong các toa giống như hành khách và đưa chúng đến ngay cửa sau của nhà giải phẫu. Trong những trường hợp khác, thi thể được giấu trong vải liệm hoặc bao tải, hoặc thậm chí được vận chuyển trong các thùng có nhãn “thịt lợn” hoặc “thịt bò”. Điều này có thể giải thích về “thịt bò” trong bài đồng dao ở phần sau của chương này.
- Các nhà giải phẫu học giải phẫu trẻ sơ sinh và trẻ em bất cứ khi nào có thể, một phần vì họ háo hức lập biểu đồ về quá trình tăng trưởng và phát triển của con người, một chủ đề khoa học được nhiều người quan tâm vào thời điểm đó. Thực tế hơn, xác trẻ sơ sinh được sử dụng làm các mẫu vật dạy học hữu ích. Để nghiên cứu các dây thần kinh và mạch máu, các nhà giải phẫu đã phải bơm sáp màu hoặc thủy ngân khắp cơ thể thi thể, đôi khi bằng cách dùng ống thổi. Và việc bơm chất lỏng khắp cơ thể của một đứa trẻ dễ dàng hơn rất nhiều so với một người trưởng thành. Tình cờ, các nhà giải phẫu học đã giải phẫu các cơ thể theo một trình tự nghiêm ngặt, dựa trên tốc độ phân hủy của các mô khác nhau. Đầu tiên là vùng bụng dưới, vì những cơ quan đó nhanh chóng bị thối rữa. Sau đó là phổi (thường có màu đen do không khí ô nhiễm của London) và tim. Cơ bắp phân hủy chậm hơn, vì vậy chúng được sắp xếp sau. Cuối cùng là xương, đôi khi được các nhà giải phẫu học gắn lại để tạo thành bộ xương hoàn chỉnh. Dù các nhà giải phẫu luôn cố gắng nghiên cứu thật nhanh các bộ phận phân hủy nhanh, tuy nhiên các căn phòng giải phẫu thường có mùi thịt thối - các nhà giải phẫu cũng vậy. Để giúp các nhà giải phẫu tập trung vào việc nghiên cứu, các trường y khoa thường cấm những người theo học giải phẫu kết hôn, nhưng với lượng thời gian họ dành phần lớn cho nghiên cứu mỗi ngày, bạn thấy lệnh cấm có cần thiết không.
- Chúng ta cần làm rõ một số vấn đề pháp lý ở đây: Việc sở hữu xác chết không phải là một hành vi phạm tội; nhưng không ai có thể giữ xác trong nhà vì xác không được coi là tài sản. Điều đó cho thấy, những kẻ trộm mộ vẫn có thể bị bắt vì xâm phạm một ngôi mộ, hành vi được cho là bất hợp pháp. Thêm nữa, ăn cắp quần áo, trang sức từ cái xác là hành vi phạm tội, thường bị tuyên án tử.
- Nhà giải phẫu thần kinh nổi tiếng Harvey Cushing cuối cùng đã mở hộp sọ của Người khổng lồ Ireland vào năm 1909 và tìm thấy bằng chứng rõ ràng về một khối u. Cụ thể, ông nhận thấy rằng một cấu trúc có tên là sella turcica - một rãnh hình yên ngựa ở đáy hộp sọ chứa tuyến yên - bị phình to ở Byrne, một điều thường thấy ở những người khổng lồ.
- Dù là một hành động nghĩa hiệp, nhưng câu chuyện của Ann Grey không có một kết thúc có hậu. Chồng của cô, James, đã chết trong vòng vài tháng sau cuộc đụng độ của họ với Burke và Hare, và như nhiều góa phụ thời ấy, cô phải sống trong khổ hạnh suốt phần đời còn lại.
- Ngay cả Abraham Lincoln cũng là mục tiêu của một âm mưu đánh cắp thi thể dù không vì lý do giải phẫu. Vào đêm bầu cử năm 1876, một đêm được định sẵn bởi vì hầu hết mọi người sẽ bị phân tâm với tin tức về bầu cử, một số tội phạm đột nhập vào hầm mộ của Lincoln để đánh cắp xương cốt và giữ chúng để đòi tiền chuộc. Ngoài tiền, chúng cũng muốn sử dụng bộ xương để làm “con tin” giúp bạn thân của chúng, kẻ từng giả mạo chuyên gia, được ra khỏi tù. Thật không may với bọn chúng, cơ quan mật vụ đã cử một điệp viên xâm nhập vào băng nhóm, và âm mưu đã thất bại.
- Một trong những công việc kỳ lạ hơn của Littlefield, nhiệm vụ khiến ông ấy mất cả buổi sáng sau Lễ Tạ ơn, là đi lại xung quanh bức tượng bán thân của vị giáo sư nổi tiếng tại Trường Y Harvard, John Warren. Những người từng đọc cuốn Caesar’s Last Breath của tôi sẽ nhận ra Warren là bác sĩ phẫu thuật đầu tiên gây mê thành công trong y học. Đó là một ví dụ tuyệt vời về việc các nhà khoa học quá hiện đại ở một số khía cạnh, trong khi lại vô cùng cổ hủ ở những khía cạnh khác. Đó cũng không phải là một manh mối liên quan đến hành vi gây mê duy nhất. William Morton (một bác sĩ nha khoa tự tin rằng mình đã phát hiện ra chất gây mê) và Charles T. Jackson (người tuyên bố rằng Morton đã đánh cắp ý tưởng từ ông ấy) sau đó đều ra làm chứng tại phiên tòa xét xử vụ án giết người của Webster. Jackson làm chứng cho việc truy tố về những vết hóa chất kỳ lạ mà ông ấy đã thấy tại Trường Y Harvard. Khó tin hơn là, Webster và Jackson được phép trò chuyện với nhau trong thời gian nghỉ của phiên tòa và Webster đã trách móc Jackson vì chống lại ông ấy. Jackson ngay lập tức đề nghị làm chứng lại - với vai trò là một nhân chứng tại tòa và là người biện hộ.
- Sự ồn ào của vụ án này không dừng lại ở cái chết của Webster. Công chúng vẫn muốn nhiều hơn nữa từ vụ bê bối và để nhượng bộ, cuối cùng Harvard đã biến hiện trường vụ án thành một điểm thu hút khách du lịch. Littlefield cũng trở thành một huyền thoại tại địa phương; những thợ săn đồ lưu niệm đôi khi tìm đến ông ấy và cắt một nhúm tóc của ông ấy làm vật kỷ niệm. Vụ án này vẫn mãi hằn sâu trong ký ức của mọi người. Khi Mark Twain đến thăm Azores vào năm 1861, ông cảm thấy hứng thú khi gặp hai cô con gái của Webster, chắc chắn họ đã chuyển khỏi đó để thoát khỏi cái bóng của người cha. Khi Charles Dickens đến thăm Hoa Kỳ vào năm 1869, một nơi mà ông muốn đến thăm tại Massachusetts chính là hiện trường thảm án Parkman - đó là nỗi xấu hổ đối với người dân địa phương, và họ đảm bảo với ông rằng thành phố vẫn còn nhiều địa điểm đáng tới thăm hơn thế. Thậm chí đến tận đầu những năm 1900, một nhà thiên văn học Cambridge lỗi lạc là Harlow Shapley vẫn không thể nhịn nổi cười khi nghe câu chuyện về vụ án đó, điều kinh ngạc nhất đối với ông là, trong suốt lịch sử lâu đời của ngôi trường, chỉ có một giáo sư Harvard sát hại một vị thành viên Harvard khác.
- Các vụ giết voi phổ biến một cách đáng ngạc nhiên. Là loài hoang dã, voi lại bị nhốt trong những chiếc lồng nhỏ ở vườn thú hoặc bị ép buộc làm trò cho các rạp xiếc. Một số huấn luyện viên cũng vô cùng tàn nhẫn: một người say rượu cho voi của mình ăn một điếu thuốc đang cháy. Không có gì đáng ngạc nhiên khi những con voi bị ngược đãi này đôi khi tấn công và giết người, khi đó chúng sẽ bị giết. Một học giả đã khui ra thông tin về 36 trường hợp giết voi riêng biệt, trong đó bao gồm cả con voi Topsy, bị giết vào năm 1903 bằng giật điện. Có thể hiểu rằng, Edison muốn tự mình giết một con voi và thực tế ông ấy đã giết chết nhiều con vật khác nhau bằng hiện pháp giật điện khiến nhiều người ngày nay tin rằng chính Edison đã nhúng tay vào cái chết của Topsy. Điều đó không đúng - Cuộc chiến của các dòng điện đã kết thúc từ lâu trước năm 1903. Nhưng công ty điện ảnh của Edison đã ghi lại cảnh giết động vật, tạo ra một số cảnh phim tàn bạo.
- Đây không phải là nỗ lực duy nhất của đội Edison nhằm bẻ cong ngôn ngữ tiếng Anh trước đối thủ của ông ấy. Từ electrocute (giật điện) vẫn chưa được chú ý, vì vậy các tạp chí và tờ báo đã trưng cầu các đề xuất từ độc giả về cách gọi cái chết bằng điện năng. Công chúng đã có rất nhiều phản ứng, gợi ý về các từ ngữ như electricize, voltacuss, blitzentod, electrostrike, và electroth-anasia, cùng nhiều cách nói khác nhau. Lời đề nghị của luật sư Edison rõ ràng hơn: biện pháp tử hình đối với Kemmler sẽ là westinghoused.
- Như các nhà sử học đã ghi chép, Kemmler có lẽ đã tự đày đọa bản thân khi quá bình tĩnh và thờ ơ khi đối mặt với cái chết. Nếu anh ta chỉ hoảng sợ một chút - giống như các lính canh và nhân chứng trực tiếp - thì mồ hôi trên da anh ta có thể đã dẫn điện vào cơ thể hiệu quả hơn và giúp giết chết anh ta ngay lập tức.
- Trong số các thủ thuật khác, bạch tuộc có thể tung hứng các đồ vật và mở nắp bình mà không cần được chỉ dạy. Hoặc hãy xem Otto, một con bạch tuộc tại một thủy cung ở Đức. Rõ ràng Otto khó chịu với những ngọn đèn chiếu vào chiếc bể của mình vào ban đêm. Vì vậy, nó đã học cách bò lên thành bể và phun nước vào đèn, làm tắt chúng. Nó lặp lại quá trình này 3 đêm liên tiếp, khiến các nhân viên hồ cá bối rối không hiểu tại sao mạch điện cứ bị chập. Cuối cùng họ đã ngủ trên sàn vào ban đêm trước khi chứng kiến hành động của con vật này.
- Dù cộng đồng mạng thích khắc họa Edison là nhân vật phản diện trong cuộc đời của Tesla, nhưng George Westinghouse mới là người thực sự khiến cuộc chiến trở nên căng thẳng. Westinghouse đã ký cho Tesla một hợp đồng tiền bản quyền hào phóng vào cuối những năm 1880; trả cho Tesla 2,5 đô la cho mỗi mã lực do thiết bị của ông tạo ra. Với tốc độ mở rộng đáng kinh ngạc của Westinghouse, con số đó sẽ lên tới 12 triệu đô la vào năm 1893 (323 triệu đô la ngày nay), một khoản tiền có thể khiến công ty bị phá sản. Vì vậy, Westinghouse đã cầu xin Tesla hủy bỏ hợp đồng của họ. Ông ấy nói: “Quyết định của anh quyết định số phận của công ty Westinghouse”. Thật đáng kinh ngạc, Tesla đã làm như những gì ông được yêu cầu. Không giống như Edison, Westinghouse tin tưởng vào Tesla và Tesla cảm thấy có trách nhiệm phải giúp đỡ. Vì vậy, họ đã vô hiệu hợp đồng.
- Đáng buồn thay, Westinghouse đã không hào phóng với Tesla. Nhiều năm sau, khi Công ty Westinghouse sinh lời một cách khó hiểu, Tesla đã quay trở lại, cầm mũ trong tay và yêu cầu trả lại một số tiền. Westinghouse từ chối, và Tesla đã kết thúc cuộc đời của mình ít nhiều trong sự phẫn nộ, thậm chí không thể chi trả ngay cả tiền thuê khách sạn ở New York nơi ông sống. Để biết thêm về kết thúc đáng buồn của cuộc đời Tesla, hãy xem tập 18 của podcast Disappearing Spoon tại samkean.com/podcast - một câu chuyện có liên quan đến Donald Trump, dù bạn có tin hay không.
- Dù bộ xương do Leidy và Cope thực hiện là bộ xương hoàn chỉnh đầu tiên từng được tạo dựng nhưng nó không phải là mô hình được tái tạo đầu tiên về một con khủng long trong lịch sử. Dựa trên một số mảnh xương không đáng kể, các nhà cổ sinh vật học ở Anh đã thực hiện một số tác phẩm điêu khắc mang tính phỏng đoán về một số loài khủng long cho một công viên ở London vào những năm 1850. Chúng giống như một cú đánh mạnh mẽ, đến mức các quan chức ở New York đã lên kế hoạch dựng lên một dàn các con vật khổng lồ tương tự ở Công viên Trung tâm - và, ngoại trừ việc không ai khác ngoài Boss Tweed đến và phá hủy chúng, sau đó đuổi nhà điêu khắc ra khỏi thị trấn. Để biết thêm về câu chuyện phức tạp này, hãy xem tập 6 tại samkean.com/podcast. Marsh vô tình từng tạo dựng một bộ xương của một sinh vật (một loài động vật có vú giống tê giác được gọi là “uintathere”) bằng việc sử dụng giấy bồi để làm khuôn cho xương của nó. về phần giấy, ông ấy tìm được vật liệu dày nhất và chắc chắn nhất có thể: tờ tiền giấy của Hoa Kỳ được cắt nhỏ. Kết quả là, con vật này, có lẽ theo nghĩa đen, là một bộ xương trị giá hàng triệu đô la.
- Vâng, tôi biết - hãy giữ lại những câu từ bực tức trước đã. Về mặt kỹ thuật, chúng ta nên đề cập đến Brontosaurus (một cái tên đáng yêu) thay cho Apatosaurus (một cái tên vụng về). Theo một số nhà khoa học, cái tên Brontosaurus có thể sẽ được sử dụng lại. Sự lộn xộn về tên gọi này bắt nguồn từ năm 1877, khi Marsh dựng nên Apatosaurus dựa trên một số đốt sống và các mảnh xương chậu. Hai năm sau, ông ấy đặt tên là Brontosaurus cũng dựa vào một cơ sở sơ sài tương tự khi kết hợp đầu của một loài động vật có chân thằn lằn từ một khu vực này với bộ xương của một động vật có chân thằn lằn tại một khu vực khác. Mặc dù một số đồng nghiệp đặt câu hỏi về sự kết hợp này, nhưng danh tiếng của Marsh đã giúp duy trì cái tên Brontosaurus cho đến năm 1975, khi các nhà cổ sinh vật học đánh giá lại một số mẫu vật và quyết định rằng Brontosaurus và Apatosaurus là cùng một con thú. Và dựa trên các quy tắc của danh pháp khoa học, vì tên gọi Apatosaurus xuất hiện trước nên tên gọi Brontosaurus không còn giá trị nữa. (Tên gọi Brontosaurus vẫn còn được giữ lại một phần do các viện bảo tàng chậm cập nhật thông tin trưng bày, vì vậy cái tên này vẫn tồn tại trong nhận thức của công chúng.) Tuy nhiên, theo một số nhà khoa học, Brontosaurus có thể là một cái tên có căn cứ! Họ đã so sánh các bộ xương cũ khác nhau và cho rằng các mảnh xương ban đầu của Marsh đủ khác biệt với Apatosaurus để được coi là một loài riêng biệt. Vì vậy, tên gọi Brontosaurus được yêu quý có thể sẽ trở lại. Thời gian sẽ giải đáp vấn đề này...
- Để chắc chắn, không phải tất cả các loài khủng long của Cope và Marsh đều được công nhận trong thời điểm hiện nay, đặc biệt là không phải dưới tên ban đầu của chúng. Có lẽ hơn bất kỳ ngành khoa học nào khác, cổ sinh vật học đòi hỏi phải liên tục tập hợp, chia tách và phân loại lại các bằng chứng, và các loài mới luôn thay đổi giữa trạng thái tồn tại và không tồn tại. Ví dụ, trong số 26 chi do Cope tìm ra, chỉ có 3 chi còn tồn tại ngày nay. Nhưng bất kể việc phân tích nó như thế nào, những tài liệu phân loại của Cope và Marsh đều đáng kinh ngạc.
- Một ví dụ kinh hoàng về sự độc ác của Đức Quốc xã liên quan đến những chiếc bàn đặc biệt được trang bị ống tia X bên dưới ghế. Phụ nữ thuộc các tầng lớp “không ai ưa” sẽ phải ngồi vào chiếc ghế trong khi họ điền vào một số mẫu đơn vô thưởng vô phạt. Họ sẽ bị tấn công bằng tia X một cách bí mật, một phần của âm mưu bí mật khiến họ vô sinh.
- Trên thực tế, trong tất cả các phương pháp làm ấm được thử nghiệm, đắp chăn cho ai đó và dựa vào thân nhiệt của bản thân tỏ ra kém hiệu quả nhất. Chiếc nôi ánh sáng với 16 bóng đèn cường độ cao hầu như không tốt hơn. Chà xát mạnh tay chân có giúp ích được phần nào, nhưng chỉ khi kết hợp với tắm nước nóng. Rượu thực chất là một chất dự phòng khủng khiếp đối với sự mất nhiệt. Nó tạo ra cảm giác ấm áp tạm thời bằng cách đưa máu dồn về các chi, nhưng nó thực sự làm giảm khả năng giữ nhiệt của cơ thể về lâu dài. Điều đó cho thấy rằng, rượu giúp phục hồi nhiệt cơ thể khi mọi người đang tắm vì xu hướng đẩy máu đến các chi giúp giảm bớt gánh nặng cho tim. Vì vậy, nếu bạn phát hiện ai đó bị hạ thân nhiệt trong tự nhiên, bằng mọi cách, hãy gọi bác sĩ trước. Nhưng trong trường hợp không thể làm điều đó, hãy cho họ vào bồn nước nóng và lấy cho họ thứ gì đó để uống. Một cách ngẫu nhiên, hầu hết mọi người không nhận ra rằng việc loại bỏ đế chế Đức Quốc xã đã dẫn đến việc che đậy hầu hết những hành động tàn bạo này đến mức như thế nào. Trên thực tế, Đế chế này có thể đã ra đi cùng với mọi thứ nếu không nhờ những nỗ lực cố gắng của một bác sĩ Do Thái, Tiến sĩ Leo Alexander. Để biết thêm về công việc đáng kinh ngạc của Tiến sĩ Alexander, hãy xem tập 5 tại samkean.com/podcast.
- Công bằng mà nói, có bằng chứng cho thấy Rivers đã bảo vệ ít nhất một người đàn ông tham gia nghiên cứu, một người bạn thân của bà ấy. Bà ấy tuyên bố rằng ông ấy đã qua đời và không thể theo dõi trong khi thực tế ông ấy sống chỉ cách trung tâm y tế quận bốn dãy nhà. Người đàn ông này cũng nhận được một liều đầy đủ penicillin để đối phó với bệnh giang mai của mình vào năm 1944, một thời điểm khá sớm. Hơn nữa, Rivers không hề đơn độc ở đây. Đến năm 1969, chính phủ Hoa Kỳ đang cân nhắc việc đóng cửa nghiên cứu Tuskegee. Nhưng Hiệp hội Y học Hạt Macon - bao gồm gần như toàn bộ là các bác sĩ da đen - đã bỏ phiếu để có thể tiếp tục nghiên cứu. Trên thực tế, các bác sĩ hứa rằng nếu họ được cung cấp danh sách bệnh nhân, họ sẽ loại bỏ thuốc kháng sinh khỏi những người đàn ông đó và chuyển họ đến với y tá Rivers. Dù chủ đề này mang lại cảm xúc nào đi nữa, tôi phải khẳng định lại rằng đây không phải - không phải - một nỗ lực chuyển hết lỗi lầm tại Tuskegee sang Rivers (hay các bác sĩ của Hạt Macon). Những người đàn ông và phụ nữ tại Cơ quan Y tế Cộng đồng, những người xây dựng nghiên cứu này, mới là người đáng phải xấu hổ ở đây. Nhưng Rivers đã tham gia và đáng trách theo khía cạnh của bà ấy. Tôi đưa ra trường hợp của bà ấy đơn giản bởi vì cuộc đời của bà ấy tạo ra một tình huống khó xử hấp dẫn nhất, khi bà ấy bị kẹt giữa hai thế giới, cộng đồng da đen bà ấy sinh sống và cộng đồng khoa học da trắng, những người kiểm soát vận may nghề nghiệp của bà.
- Hunter đã tiêm vào dương vật của mình mủ bệnh hoa liễu đế xác định xem bệnh lậu và bệnh giang mai là cùng một bệnh hay là hai bệnh riêng biệt - một điều mà không ai biết vào thời điểm đó. Than ôi, thí nghiệm của ông ấy đã kết thúc ngay từ thời điểm bắt đầu, vì người đàn ông mà ông ấy thu thập mủ - một người Hunter không hề biết đến - hóa ra mắc cả hai bệnh. Kết quả là, Hunter nhận thấy các triệu chứng của cả hai bệnh trên cơ thể và kết luận sai lầm rằng bệnh giang mai và bệnh lậu trên thực tế là cùng một bệnh. Sự kết hợp này đã gây ra đủ loại nhầm lẫn cho đến khi một bác sĩ khác giải quyết vấn đề vào năm 1838. Và dù Hunter có vẻ là người anh hùng khi tự mình thử nghiệm bản thân, tuy nhiên ông ấy chắc chắn không bỏ qua tất cả các vấn đề đạo đức ở đây. Có điều, không rõ vợ tương lai của ông ấy nghĩ gì về tất cả những điều này - hay liệu Hunter có nói với người đó những gì ông ấy đang làm hay không.
- Tôi không có đủ khả năng để đưa toàn bộ câu chuyện vào cuốn sách này, nhưng câu chuyện Susan Reverby khám phá ra công việc bị chấm dứt từ lâu của Cutler trong một kho lưu trữ - một vụ án cuối cùng được đưa đến Nhà Trắng - rất đáng để tìm hiểu toàn bộ. Hãy xem samkean.com/books/the-icepick-surgeon/extras/notes để tim hiểu về câu chuyện này.
- Ngay cả Susan Reverby, người đầu tiên tiếp xúc với tội ác của ông ấy, đã phản đối ý muốn gọi John Cutler là một con quái vật. Dù bà ấy chắc chắn quy trách nhiệm cho ông ấy về sự khủng khiếp tại Guatemala, tuy nhiên, với tư cách là một nhà sử học nữ quyền, bà ấy cũng thừa nhận những điều tốt đẹp mà ông ấy đã làm sau này ở các nước đang phát triển.