CHÚ THÍCH
- Ngoài liệu pháp gây hôn mê bằng insulin và liệu pháp sốc điện, một số bác sĩ đã thử liệu pháp trò chuyện Freud với các bệnh nhân ở bệnh viện tâm thần. Nhưng họ sớm nhận ra rằng, việc hỗ trợ những người bệnh này và trò chuyện về các vấn đề thể trạng không hiệu quả với những người mắc chứng mất trí thực sự, thường bắt nguồn từ chứng rối loạn não hữu cơ. Vì lý do này, Moniz và Freeman không cho rằng liệu pháp trò chuyện có nhiều tác dụng đối với những người thực sự bị rối loạn. Freeman từng châm biếm rằng, bất kỳ người pha chế rượu ở mức trung bình nào cũng có thể thực hiện chức năng thiết yếu tương tự như một nhà phân tích tâm lý - lắng nghe một cách đồng cảm.
- Sức ảnh hưởng của hội nghị tại London đến Moniz là một điều gây tranh cãi. Moniz sau đó tuyên bố rằng ông ấy đã bí mật nghiên cứu về phẫu thuật tâm lý trong nhiều năm trước khi nghe nói về Becky, và một số nhà sử học tin ông ấy. Tuy nhiên, câu chuyện này có vẻ hơi mang tính tư lợi, và các nhà sử học khác vẫn còn tranh cãi về thông tin này. Có điều, Moniz cũng tuyên bố đã trò chuyện với các đồng nghiệp về phẫu thuật tâm lý từ rất lâu trước khi tham dự hội nghị London; nhưng khi được hỏi về điều này, các đồng nghiệp của ông đều không nhớ về bất kỳ cuộc thảo luận nào. Nhiều bài viết của Moniz về thần kinh học cũng không có bằng chứng nào cho thấy ông ấy nghiên cứu về phương pháp phẫu thuật như vậy trước năm 1935. Và một lần nữa, sự thật vẫn còn để ngỏ.
- Vấn đề của Rosemary xuất hiện từ lúc mới sinh. Vào một ngày tháng 9 năm 1918, mẹ cô bất ngờ bị vỡ ối và không có bác sĩ nào có mặt để giám sát việc sinh nở. Thật đáng kinh ngạc khi một y tá có mặt ở đó bảo bà Kennedy vắt chân vào nhau để giữ đứa bé bên trong. Khi đầu Rosemary thò ra khỏi cửa mình, y tá này đã đẩy cô bé trở lại vào trong. Kết quả là, não của Rosemary bị thiếu oxy trong vài phút và không bao giờ hoàn toàn bình thường được nữa; khi còn là một đứa trẻ, cô ấy gặp phải rất nhiều khó khăn khi học cách cầm thìa và đi xe đạp. Nhưng Rosemary vẫn là một cô gái hoạt bát và được nhiều người coi là cô gái xinh đẹp nhất của nhà Kennedy. Nhưng đối với một gia tộc đầy tham vọng, cô là một nỗi xấu hổ, và họ đã giam cầm cô trong một tu viện khi cô còn là một thiếu niên. Tất nhiên, Rosemary phản đối điều này, la hét với các nữ tu và lẻn trốn ra vào ban đêm - mà theo họ, có thể là để bắt đàn ông. Thời đó, một đứa con gái mang thai sẽ làm ảnh hưởng đến vận mệnh chính trị của gia tộc, vì vậy, cha của Rosemary, Joseph bắt đầu tìm hiểu về phẫu thuật thùy não. Kathleen, chị gái của Rosemary, cũng đã xem xét về phương pháp này và thực sự khuyên cha không nên thực hiện, nhưng Joseph đã gạt bỏ ý kiến đó và tiến hành phẫu thuật thùy não cho Rosemary khi vợ ông đi vắng. John Kennedy luôn đau đáu về việc gia đình mình bỏ rơi Rosemary như vậy, và ông ấy đã thúc đẩy thông qua một dự luật cải cách sức khỏe tâm thần trên diện rộng với tư cách là tổng thống. Mục tiêu của dự luật là đóng cửa các bệnh viện tâm thần lớn của tiểu bang để ủng hộ các trung tâm nhỏ hơn đặt tại cộng đồng nhằm cung cấp dịch vụ chăm sóc gần gũi hơn. Thật đáng tiếc, các tiểu bang đã đóng cửa các bệnh viện tâm thần nhưng bỏ qua việc thay thế chúng bằng các trung tâm tại cộng đồng, có lẽ để tiết kiệm chi phí. Sự phổ biến của các loại thuốc tâm thần chỉ khiến các bệnh viện tâm thần sớm trở nên vắng vẻ, và biến mất hoàn toàn kể từ đó.
- Người ta còn đồn đại rằng những vi phạm của Freeman còn tồi tệ hơn thế. Freeman là một kẻ trăng hoa và dù không có bằng chứng về điều này, các đồng nghiệp nghi ngờ ông ấy có khi còn từng ngủ với bệnh nhân. Có lẽ không phải trùng hợp khi từng có những nữ bệnh nhân vác súng lục xông vào phòng làm việc của ông ấy. Cũng có tin đồn rằng Freeman sẽ gọi bệnh nhân đến để điều trị bằng sốc điện, sau đó bí mật phẫu thuật thùy não trong khi họ đang choáng váng. Cách ông ấy giải thích về những đôi mắt thâm quầng của họ cũng không bao giờ rõ ràng.
- Ngoài cái tên “lobotomobile — xe phẫu thuật”, những tin đồn sai lệch khác về Freeman bao gồm những quan điểm cho rằng: có thời điểm ông ấy đã mất chứng chỉ hành nghề y; ông ấy sử dụng những chiếc dùi mạ vàng để phẫu thuật; và sau này ông ấy đã phát điên. Không có điều nào trong số đó là sự thật.
- Một trong những câu chuyện thú vị được yêu thích trong bài giảng của Freeman liên quan đến cuộc trò chuyện của ông ấy với một bệnh nhân trong quá trình phẫu thuật não. Vì não không có các mút cuối thần kinh nên các bác sĩ có thể phẫu thuật nó mà bệnh nhân không cảm thấy đau. Trên thực tế, các bác sĩ thường muốn bệnh nhân tỉnh táo và nói chuyện trong khi phẫu thuật để họ có thể theo dõi và đảm bảo rằng họ không cắt vào bất cứ thứ gì quan trọng. Một ngày nọ, khi đang phẫu thuật, Freeman hỏi bệnh nhân rằng ông này đang nghĩ gì trong đầu. “Một con đao”, người đàn ông trả lời. Freeman thấy chuyện này thật buồn cười.
- Ngoài các phương pháp của Moniz (tiêm cồn, cắt mô não bằng vòng dây) và phương pháp của Freeman (cắt mô bằng lưỡi dao cùn, dùng dùi đâm xuyên), một số bác sĩ phẫu thuật khác đã phát triển các phương pháp phẫu thuật thùy não của riêng họ, bao gồm đóng băng mô não, đốt cháy, kích nổ bằng điện hoặc bức xạ, và sử dụng ống hút để hút - Freeman mô tả những phương pháp này một cách đáng nhớ: giống như là sử dụng “máy hút bụi trên một hộp mì Ý”.
- Gold có thể lấy lý do rằng, việc đánh cắp bí mật khoa học thương mại về cơ bản không phải là hành vi phạm pháp trong thập niên 1930 để biện minh cho hành động đánh cắp thông tin từ Penn Sugar. Đúng hơn, đó là một hành vi phạm tội dân sự. Vì vậy, về lý thuyết, nếu Penn Sugar phát hiện ra hành vi trộm cắp của Gold, họ có thể kiện các công ty Liên Xô ra tòa. Nhưng thiệt hại thì bạn biết rồi đấy. Chúc may mắn!
- Lời bài hát: “Hãy cùng chơi một bản nhạc với chiếc đàn accordion/ Hãy để tôi hát cùng người bạn gái/ Về vinh quang vĩnh cửu của Viện sĩ Lysenko”.
- Trong khi Gold chỉ cảm thấy một chút căng thẳng sau khi bị bắt, gia đình của ông thì ngược lại. Cha và anh trai của ông ấy đã nhận được rất nhiều cuộc điện thoại quấy rối, châm biếm với những lời nói bài xích người Do Thái - đến mức họ đã xóa số điện thoại của mình. Gold có ý định chống lại chủ nghĩa bài Do Thái bằng cách làm gián điệp, nhưng việc bại lộ thân phận của ông ấy thực sự khiến điều đó trở nên tồi tệ hơn.
- Như một nhà vật lý người Mỹ sau này đã nói, “Fuchs đã làm việc rất chăm chỉ cho chúng tôi, cho đất nước này. Rắc rối của ông ấy là ông ấy cũng đã làm việc rất chăm chỉ để phục vụ người Nga”. Và thực tế thậm chí còn tồi tệ hơn những gì nhà vật lý quan sát được. Tuyệt vọng bám trụ những di sản thuộc địa của mình như một cường quốc thế giới, Vương quốc Anh thời hậu chiến mong muốn trở thành một trong những cường quốc hạt nhân đầu tiên trên thế giới. Vì vậy, Klaus Fuchs thực sự đã đánh cắp tài liệu từ Los Alamos cho người Anh. Nhìn chung, Fuchs đóng vai trò chủ chốt trong việc sản xuất bom nguyên tử cho ba quốc gia khác nhau. Nhà vật lý Hans Bethe đã từng nói về Fuchs, “Ông ấy là nhà vật lý duy nhất mà tôi biết đã thực sự thay đổi lịch sử”.
- Ngày nay, các phương pháp thẩm vấn hiệu quả nhất ít tập trung vào việc tìm kiếm những lời thú tội mà tập trung nhiều hơn vào việc khiến kẻ xấu tự buộc tội chính mình khi nói quá nhiều. Quan điểm ở đây là khi một người càng nói nhiều, họ càng có xu hướng mâu thuẫn với chính mình hoặc có thể tiết lộ thông tin chi tiết về hoạt động của họ cũng như các thông tin giả mạo mà cảnh sát có thể kiểm tra và điều tra. Cảnh sát cũng có thể sử dụng các thủ thuật như yêu cầu mọi người kể lại một câu chuyện hoặc yêu cầu họ phác thảo một bức tranh không liên quan trong khi xem lại câu chuyện của họ vì làm như vậy sẽ làm tăng “gánh nặng nhận thức” đối với họ và khiến họ khó có thể duy trì lời nói dối trong thời gian dài. Phải thừa nhận rằng, những phương pháp “nhẹ nhàng” này không đáp ứng mong muốn trả thù của chúng ta - với mong muốn khiến kẻ xấu đáng bị đối xử thô bạo. Nhưng những người vô tội luôn bị bắt vì những cáo buộc sai sự thật. Và nếu mục tiêu của bạn không phải là để trả thù mà chỉ là mong muốn nhìn thấy những kẻ xấu thực sự bị kết án và bị tống giam, thì việc giúp họ thư giãn và để họ nói ba hoa cho đến khi họ tự tấn công chính bản thân sẽ hiệu quả hơn rất nhiều.
- Trong thời gian học trung học, Kaczynski đã thực sự hỗ trợ tạo ra một quả bom, nhưng vào thời điểm đó, điều đó không được coi là vấn đề lớn. Toàn bộ sự việc thậm chí không phải là ý tưởng của anh ta. Anh ta tình cờ có một người bạn cùng lớp mê bom mìn. Là một học sinh giỏi hóa học, Ted biết cách tạo ra một vụ nổ bằng cách trộn amoniac với iot; nếu bạn chạm vào hỗn hợp - ngay cả bằng một chiếc lông vũ - thì “đùng”, đó sẽ là một quả bom thực sự. Khi người bạn cùng lớp nghe thấy điều này, cậu ta đã cầu xin Ted chỉ cậu ta cách làm. Lúc đó, Ted có lẽ không nên giúp cậu bé kia. Nhưng anh ta đã làm vậy trong một nỗ lực đáng buồn để gây ấn tượng với cậu bé kia, một đô vật nổi tiếng, để mong được kết bạn. Nhưng mục tiêu đó không thành công. Thật không may, quả bom đã được tạo ra và khi cậu bé triển khai nó trong giờ học hóa học vào một ngày nọ, nó làm nổ tung hai cửa sổ và một cô gái bị mất thính giác tạm thời. Rất may, những người khác đều thoát ra ngoài mà không hề hấn gì. Hiệu trưởng của trường đã chứng kiến vụ việc xảy ra - một màn phô diễn ngu ngốc - và đình chỉ học Kaczynski một ngày, sau đó quên đi toàn bộ sự việc. Chỉ nhiều thập kỷ sau, khi nhìn lại, điều đó thật đáng quan ngại.
- Nói chính xác thì không phải David cũng như vợ anh ấy, Linda, là người đã phá được vụ án. Sau khi đọc bản tuyên ngôn, Linda hỏi David liệu có khả năng Ted (người mà cô ấy chưa từng gặp) có thể là Unabomber hay không vì họ có chung sự khinh thường đối với xã hội công nghiệp. Lúc đầu, David bác bỏ suy nghĩ này, nhưng cuối cùng thừa nhận ý tưởng này có thể đúng khi dựa trên một số manh mối mà anh ta không thể bỏ qua. Ví dụ, David nhận thấy rằng một số quả bom đã được kích nổ ngay sau khi gia đình Kaczynski gửi tiền cho Ted. Ted cũng có hiểu biết về nghề mộc (một số quả bom có các thành phần bằng gỗ), và anh ta đã sống ở một số thành phố nơi những quả bom khiến người dân phải bỏ mạng. Cuối cùng, David đã nhận ra một số cụm từ nhất định trong bản tuyên ngôn mà anh trai anh ấy sử dụng trong các lá thư (ví dụ: “cool-headed logicians (những nhà logic có cái đầu lạnh)”), cũng như cách viết riêng của người anh trai (ví dụ: “analyse”, “wilfully”). Cùng những dòng chữ đó, một trong những đặc vụ FBI sau đó nhận thấy rằng cả hai bức thư của Kaczynski và tuyên ngôn đều có câu “can’t eat your cake and have it too” (không thể vừa ăn chiếc bánh của bạn vừa muốn mãi sở hữu nó trong tay), thay vì cách nói thông thường hơn (can’t have your cake and eat it too” (không thể vừa có chiếc bánh của bạn, vừa được ăn nó.) Nếu bạn nghĩ về những yếu tố này, điều thứ hai có thể phi logic vì bạn thực sự có thể sở hữu chiếc bánh của mình, đợi một lúc và sau đó ăn nó. Điều hợp lý là điều đầu tiên - bạn không thể vừa ăn bánh của mình vừa muốn mãi sở hữu nó trên tay. Ted tất nhiên đã nghĩ kỹ điều này và khẳng định là mình đã sử dụng một câu nói chính xác.
- Hệ thống mã hóa của Kaczynski thể hiện sự thông minh tuyệt đỉnh của anh ta. Nó bắt đầu với một danh sách các ký hiệu bằng số: 4 = THE, 18 = BUT, 1 = các dạng thì hiện tại của TO BE, 2 = các dạng quá khứ của TO BE,... Danh sách này cũng bao gồm các chữ cái riêng lẻ, với 39 = A, 40 = B,... Nhưng anh ta cũng sử dụng một số ký hiệu hại não. Ví dụ, cả 62 và 63 đều là S, và 45, 46 và 47 đều là E, để loại bỏ mọi nỗ lực sử dụng số lượng tần suất chữ cái để giải mã văn bản. Anh ta thậm chí còn sử dụng các chữ cái khác nhau để thể hiện âm “TH” hữu thanh và vô thanh, và gộp tất cả các dạng của I, MY và MINE lại với nhau dưới một chữ số. Tệ hơn nữa, anh ta cố tình viết sai chính tả các từ, đôi khi bao gồm các chuỗi từ vô nghĩa, và hoán đổi bằng các từ tiếng Đức và tiếng Tây Ban Nha (anh ta có khả năng nói cả hai ngôn ngữ) bất cứ khi nào cảm thấy phù hợp. Tất cả các mánh khóe này - và việc bổ sung các kỹ thuật mã hóa khác - sẽ khiến các mật mã gần như không thể giải mã được nếu không có siêu máy tính và nỗ lực chuyên môn.
- Năm 2012, Kaczynski gửi một bản cập nhật táo bạo cho tạp chí cựu sinh viên Harvard nhân kỷ niệm 50 năm ngày tốt nghiệp của mình. Thật đáng kinh ngạc, tạp chí đã xuất bản nó. Anh ta liệt kê nghề nghiệp của mình là “tù nhân”, địa chỉ của anh ta là một nhà tù cao cấp nhất ở Colorado, và “giải thưởng” của anh ta là 8 bản án chung thân từ tòa án quận ở California.
- John Money cũng không thực sự nổi tiếng vì những kiến thức nghiên cứu cẩn trọng. Một ví dụ liên quan đến một bộ tộc ở Úc tên là Yolngu mà ông ấy đến thăm vào năm 1969. Mặc dù chỉ dành hai tuần tại đây, ông ấy đã nổi tiếng với một số tuyên bố sâu sắc về đời sống tình dục của họ. Đáng chú ý nhất, ông ấy tuyên bố rằng, những người nguyên thủy nhỏ bé, đáng yêu này chỉ thích ở truồng và quan hệ tình dục; theo ông, kết quả là những người trưởng thành Yolngu không có biểu hiện cảm xúc hoặc rối loạn thần kinh tình dục, bao gồm cả việc hoàn toàn không mắc chứng ấu dâm và đồng tính luyến ái - theo ông, cả hai đều là sản phẩm của vấn đề hạn chế tình dục của phương Tây. Ngoài việc ngụ ý rằng đồng tính luyến ái là một chứng loạn thần kinh, những kết luận này cũng hoàn toàn là một câu chuyện hoang đường. Các nhà nhân chủng học thực sự sống và nghiên cứu tộc người Yolngu cho biết tất nhiên giữa họ vẫn có đặc điểm đồng tính luyến ái cũng như các vấn đề cảm xúc tình dục. Mọi bộ tộc trên mọi lục địa trong lịch sử loài người đều có những đặc điểm đó. Tuy nhiên, Money vẫn tiếp tục rao giảng về hạnh phúc tình dục của người Yolngu trong nhiều năm liền, phớt lờ mọi chỉ trích mâu thuẫn với lý thuyết của ông ấy.
- Ngày nay, các nhà tâm lý học sử dụng từ “transgender” (chuyển giới) để mô tả những người có bản dạng giới tính và giới tính sinh lý không đồng nhất. “Transsexual” (Chuyển đổi giới tính) là một thuật ngữ có lịch sử lâu dài hơn, đặc biệt là đối với những người đã trải qua điều trị y tế (bao gồm cả phẫu thuật) để thay đổi giải phẫu hoặc nội tiết tố. Mặc dù thuật ngữ Transsexual ngày nay nghe có vẻ đã lỗi thời, nhưng nó là thuật ngữ phổ biến nhất được sử dụng trong những năm 1960 và 1970. Vì qua sự chính xác trong lịch sử - và bởi vì John Money thực sự đã thúc đẩy mọi người thực hiện các cuộc phẫu thuật - quá trình thể hiện một phần của định nghĩa “transsexuals” - do đó tôi sử dụng thuật ngữ này ở đây. Để biết thêm về vấn đề này, hãy tìm hiểu thêm tại www.healthline.com/health/transgender/difference-between-transgender-and-transsexual.
- Đối với khuynh hướng từ nguyên học, Money yêu thích những từ kỳ quặc và tạo ra hàng chục từ trong số đó, bao gồm ycleptanc - hành động đặt tên cho một thứ gì đó; foredoomance - tỷ lệ tử vong; eonist - một người chuyển đổi giới tính; và apotemnophilia - rối loạn cắt cụt chi. Ông cũng phổ biến nhiều cụm từ tối nghĩa khác: limerent - tình trạng ái kỉ; paraphilia - một chứng lãnh cảm tình dục; ephebic - một người vị thành niên; pedeiktophilia - phô dâm; palodigm - một phong tục cổ xưa, man rợ được bảo tồn trong quá khứ với mục đích hữu ích; quim và swive, các thuật ngữ chỉ những gì một người phụ nữ làm với một người đàn ông trong khi quan hệ tình dục khác giới, trái ngược với những gì một người đàn ông làm với một người phụ nữ; autagonistophilia - khoái cảm tình dục khi được người khác theo dõi hoặc ngắm nhìn, và tất nhiên có phucktology - nghiên cứu về tình dục.
- Không giống như một số môn đồ sau này của ông ấy, Money không tin rằng giới là một thứ vô cùng linh hoạt. Thay vào đó, ông ấy lập luận về một giai đoạn quan trọng - “cổng bản dạng giới tính” - trong vài năm đầu đời của một đứa trẻ. Ông ấy so sánh giai đoạn này với việc học một ngôn ngữ. Bộ não của trẻ em có cơ sở để tiếp thu ngôn ngữ, nhưng rõ ràng ngôn ngữ đó là tiếng Tagalog hay tiếng Nhật hay tiếng Pháp phụ thuộc vào môi trường mà chúng lớn lên. Ngay từ đầu, ông ấy khẳng định, não bộ của trẻ em có khả năng tiếp nhận bản dạng giới. Và trái ngược với sự đồng thuận hiện đại, Money tin rằng bằng cách nuôi dạy con cái trong những môi trường khác nhau, ít nhiều bạn có thể lựa chọn giới tính của chúng theo ý muốn.
- Thật khó để biết chính xác quan điểm của Money là gì - ông ấy là một tác giả yếu kém, gần như không ai biết đến. Trong một số khía cạnh, ông ấy cho thấy sự hiểu biết tinh vi về tác động qua lại của di truyền và môi trường trong việc tạo nên con người của chúng ta. Và không giống như những môn đồ cấp tiến nhất của mình, ông ấy không bao giờ bác bỏ hoàn toàn yếu tố sinh học khi cho rằng nó đã định hình chúng ta. Tuy nhiên, tại những thời điểm khác, ông ấy dường như bác bỏ sinh học và coi các yếu tố xã hội là quan trọng nhất. Tôi luôn thầm hoài nghi (có lẽ là không công bằng), rằng sự thừa nhận của ông ấy về di truyền và các yếu tố sinh học khác chỉ là lời nói đãi môi, và sâu thẳm bên trong ông ấy là một nhà kiến tạo xã hội cứng rắn.
- Không rõ tại sao Money và cha mẹ của Brenda cảm thấy cần phải tiếp tục gặp nhau trong khi họ vẫn tiếp tục che giấu sự thật đang diễn ra. Có thời điểm, họ giải thích rằng một bác sĩ đã mắc sai lầm “ở đó” từ lâu về trước và kết quả là cô bé cần được chăm sóc y tế; có lẽ điều đó đã đủ với một đứa trẻ.
- Vì các bác sĩ đã cắt bỏ tinh hoàn của Brenda nên cô bé không trải qua tuổi dậy thì thực sự của một người nam giới, nhưng cơ thể của cô bé cũng trải qua một số thay đổi tương tự. Chúng ta có thể thấy một điều tương tự ở castrati - các ca sĩ hợp xướng người Ý từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX đã bị thiến khi còn nhỏ để duy trì giọng hát của họ. Ngược lại, castrati thường cao hơn mức trung bình dù thiếu testosterone và các hormone liên quan. Testosterone có thể thúc đẩy tăng trưởng trong thời gian ngắn, nhưng nó cũng gây ra một số thay đổi sinh lý, trong đó chấm dứt quá trình phát triển của các sụn tiếp hợp tăng trưởng ở phần cuối xương dài - vị trí giúp chúng ta phát triển chiều cao. Bởi vì castrati thiếu testosterone nên phần sụn tăng trưởng của họ vẫn được phát triển trong thời gian lâu hơn và giúp họ có chiều cao lớn hơn so với tổng thể. Castrati cũng trải qua những thay đổi cơ thể khác. Tương tự như tay chân, ngực của họ thường lớn hơn bình thường. Việc thiếu testosterone khiến dây thanh quản cũng không bao giờ dài ra và dày lên như ở hầu hết nam giới. Và các tuyến giáp trong cổ họng không bao giờ phình to ra cùng với phần sụn, điều đó có nghĩa là họ thiếu trái táo Adam trong vùng cổ. Tóm lại, những thay đổi này để lại cho castrati chất giọng cao, thuần khiết, có thể leo tốt vào quãng giọng nữ cao, và kích thước ngực nở ra đồng nghĩa với việc họ có thể hát với sức mạnh khác thường.
- Thật vậy, trong một bài đánh giá về cuốn sách liên quan đến David Reimer, tờ Washington Post nói rằng cách Money “xử lý trường hợp sinh đôi được cho là một sơ suất”. Công bằng mà nói, một số bệnh nhân đã bảo vệ John Money với lòng biết ơn vì những hành động mà ông ấy đã thực hiện để hỗ trợ những người chuyển đổi giới tính và các nhóm yếu thế khác trong những năm 1960 và 1970, thời điểm mà những nhóm này bị xã hội chính thống coi là quái đản. Tuy nhiên, bất chấp những người bảo vệ này, nhiều trường hợp như David Reimer đã xảy ra trong hai thập kỷ qua - những người có ký ức đau đớn về chấn thương tâm lý và thể chất mà họ phải chịu đựng sau khi bị Money và những người khác buộc họ phẫu thuật chuyển đổi giới tính.
- Ngày nay, nhiều nhà tâm lý học tin rằng sự tương tác giữa giới tính và giới diễn ra như sau: Ở cấp độ cơ bản, gen và các yếu tố sinh học khác xác định phạm vi của chúng ta. Có nghĩa là, nếu bạn vẽ biểu đồ một đặc điểm như nam tính hoặc nữ tính trên thang điểm 10, thì sinh học và gen có thể định vị bạn ở khoảng giữa, chẳng hạn như mức 4 hoặc 6. Môi trường và trải nghiệm sẽ xác định con số chính xác mà bạn đạt được, hoặc có thể thay đổi bạn theo thời gian. Những người khác nhau với các gen khác nhau có thể nằm trong khoảng từ 1 đến 2, hoặc 6 đến 10, và tất nhiên trải nghiệm độc đáo sẽ ảnh hưởng đến mức điểm họ đạt được. Nhưng cả hai khía cạnh, sinh học và văn hóa, đều đóng một vai trò nhất định.
- Các nhà tâm lý học hiện nay tin rằng não bộ, không phải bộ phận sinh dục hoặc các yếu tố giải phẫu khác, là yếu tố quyết định chính đến bản sắc tình dục và khả năng sinh sản của chúng ta. Trong câu nói bất hủ của Jackie Treehorn, “Mọi người quên rằng não bộ là vùng kích thích tình dục lớn nhất mà chúng ta có”.
- Các luật sư tại căn phòng xử án đã quen thuộc với “Hiệu ứng Kỹ thuật hình sự” (Hiệu ứng CSI) - những kỳ vọng vô lý mà người dân dành cho khoa học pháp y do một thứ văn hóa đại chúng gây ra. Nhưng họ phân biệt xem liệu hiệu ứng CSI có giúp ích cho việc bào chữa hay quá trình công tố hay không. Một số người không có kiến thức chuyên môn tin rằng khoa học pháp y là không thể sai lầm: họ rất ngưỡng mộ nó và họ coi bất cứ điều gì các chuyên gia nói là sự thật. Điều này sẽ mang lại lợi ích cho cơ quan công tố. Sau đó, một lần nữa, bởi vì các kỹ thuật viên của CSI luôn đạt được kết quả hoàn hảo, do đó một số bồi thẩm viên đã thất vọng khi các nhà khoa học ngoài đời thực không thể khớp với độ chính xác đó và họ coi kết quả là vô giá trị. Thái độ này sẽ có lợi cho quá trình bào chữa.
- Để tiết kiệm không gian nội dung trong cuốn sách, tôi sẽ tránh ca ngợi về phán quyết của Melendez-Diaz ở đây. Nhưng bạn có thể truy cập samkean.com/books/the-icepick-surgeon/extras/notes để tìm hiểu thêm về lập luận của tôi.
- Một lãnh thổ không có chủ quyền băng giá khác, Nam Cực, đã chứng kiến một số lượng tội phạm đáng kinh ngạc. Năm 1959, hai nhân viên Liên Xô tại một cơ sở nghiên cứu ở đó cãi nhau về một trận cờ vua và nó kết thúc khi một người dùng rìu giết người kia. (Các căn cứ của Liên Xô được cho là đã cấm cờ vua kể từ thời điểm đó.) Năm 1983, một bác sĩ điên cuồng người Argentina đã đốt cháy trạm nghiên cứu của mình để buộc mọi người phải sơ tán và trở về nhà trước thời hạn. Vào năm 1996, một đầu bếp người Mỹ dùng phần đầu nhọn của một chiếc búa để giết một đầu bếp khác sau một cuộc tranh cãi. Gần đây nhất, tại một căn cứ ở Nga vào năm 2018, một kỹ sư đã dùng dao đâm vào ngực một thợ hàn - bởi vì, theo báo cáo - người thợ hàn đã xúc phạm nhân cách của người kỹ sư khi dùng tiền để yêu cầu người kỹ sư nhảy múa trên bàn, hoặc người thợ hàn liên tục kể lể phần kết của những cuốn sách mà anh kỹ sư đang đọc và cuối cùng ông ấy đã tấn công. (Nếu là tình huống sau, tôi phải nói rằng tôi đứng về phía người kỹ sư.) Tuy nhiên, theo một số khía cạnh, Nam Cực không hoàn toàn giống như một hòn đảo băng. Tất cả các tội ác cho đến nay chỉ liên quan đến công dân của một quốc gia (ví dụ, một người Nga tấn công một người Nga khác) và các căn cứ ở đó về cơ bản được coi là lãnh thổ có chủ quyền. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, những kẻ vi phạm có thể đã thách thức việc bắt giữ và tống giam vì Nam Cực hoàn toàn không có luật pháp về mặt pháp lý.
- Đầu năm 2020, các phi hành gia trên Trạm Vũ trụ Quốc tế đã đạt được một cột mốc quan trọng khi nướng thực phẩm đầu tiên trong không gian vũ trụ, bánh quy sô-cô-la-chip. (Các phi hành gia thường hâm nóng thức ăn, nhưng họ chưa bao giờ thực sự nướng thứ gì đó trước đây.) Đã có một suy đoán trước khi thực hiện thử nghiệm rằng, do đặc điểm khác thường của đối lưu và trao đổi nhiệt trong môi trường không trọng lực, những chiếc bánh quy sẽ có hình cầu. Đáng buồn thay, điều đó đã không xảy ra; chúng vẫn có hình mặt phẳng. Nhưng có một điều ngạc nhiên. Các phi hành gia đã nâng lò nướng không trọng lực đặc biệt của họ lên 150°C, lò nướng trên Trái đất sẽ nướng bánh quy trong vòng 20 phút. Trong không gian, quá trình này mất 2 giờ. Và thật đáng thất vọng, với sự thận trọng của NASA ngày nay, cơ quan này sẽ không để các phi hành gia của mình ăn những chiếc bánh đó. Thay vào đó, những chiếc bánh được niêm phong và đưa trở về Trái đất để nghiên cứu thêm, nhằm xác định xem chúng có an toàn để sử dụng hay không. Hãy tưởng tượng bạn bị giới hạn thực phẩm ngoài không gian trong nhiều tháng, và cuối cùng ngửi thấy một thứ gì đó đậm đà và tươi mới - chỉ để nó bị giật đi mất! Thật là vô nhân đạo.
- Điều đáng kinh ngạc là 40 triệu người trên thế giới hiện đang bị bắt làm nô lệ, hầu hết trong các ngành đánh cá, khai thác mỏ và sản xuất gạch ở các nước đang phát triển. Mặc dù các trại nô lệ có thể dễ dàng lẩn tránh sự phát hiện trên mặt đất, nhưng họ không thể trốn tránh các vệ tinh. Các thuật toán AI có thể tìm hiểu các đặc điểm phân biệt của các trại nô lệ và nhanh chóng sắp xếp thông qua các hình ảnh vệ tinh để xác định vị trí của chúng.