Chuyện thứ mười hai Khi thế giới (không còn) hoàn hảo
Chúng ta nói về Utopia (1) như một ý tưởng hão huyền.
Rồi chúng ta lại nói về hòa nhập nhưng không hòa tan văn hóa.
Chúng ta nói về sự giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Rồi chúng ta lại nói về sự hội nhập thế giới, về “ngôi làng thế giới”.
Có thể những rối ren trong thế giới hiện tại làm cho người ta thấy ý tưởng về một thế giới đại đồng không phân biệt Mỹ, Việt Nam, Ai Cập, Palestine, Israel, Na Uy, Hà Lan v.v... là một ý tưởng điên rồ và không tưởng. Người ta nghĩ sẽ không bao giờ con người triệt tiêu hoặc dung hòa văn hóa dân tộc được đến mức mà họ có thể chấp nhận nhau hoàn toàn để sống chung như trong một nhà, như thể thế giới chỉ là một cái vườn lớn, nhiều cây nhưng cùng sinh ra từ một lòng đất.
Thực ra sự không tưởng này nằm ở chỗ người ta cứ khăng khăng cho rằng mỗi dân tộc nhất định phải có một văn hóa như một thứ thuộc tính đeo bám vào một thực thể có sẵn. Rằng văn hóa Việt Nam là một thuộc tính đeo bám vào thực thể có sẵn là mảnh đất chữ S dài từ Mũi Cà Mau đến chỏm đầu Hữu Nghị Quan, đường bờ biển hơn 3000km. Hay văn hóa Trung Quốc là cái tính “Tàu” đeo bám vào mảnh đất hình cái quạt nằm ở về phía Bắc nước ta. Người ta không chấp nhận nổi ý nghĩ rằng sẽ đến một lúc nào đó, cả thế giới chỉ có một văn hóa, một thứ chuẩn mực đạo đức, một nguyên tắc chung.
Nhưng điều đó hoàn toàn có thể xảy ra trong tương lai khi nhận thức của con người cao hơn, khi các phương tiện kỹ thuật và công nghệ làm biến đổi ý nghĩa truyền thống của không gian và thời gian. Khi ấy sẽ có một khái niệm văn hóa mới: văn hóa cá thể. Người Việt vẫn giữ lấy quan họ, giữ lấy áo dài, khăn xếp, hò Nam Bộ; người da đỏ cứ việc nhảy múa trong áo lông chim; người Scotland cứ việc mặc váy thổi kèn túi dọc bờ biển, nhưng đó không phải là gốc của văn hóa mới. Cái cốt của văn hóa là cách người ta giao tiếp với nhau, cách người ta xử lí quan hệ giữa mình và cộng đồng, cách nhìn nhận và xử lí khái niệm “bản thân” và “công chúng”.
Cái văn hóa cá thể này đòi hỏi người ta thôi không xem xét đám đông như là xem xét một thực thể có ý chí độc lập nữa. Người ta cần nhận ra rằng ý kiến của đám đông - mặc dù là một tiêu chí “đẹp” - rốt cục không phải là một tiêu chí đáng tin cậy khi ra quyết định. Về bản chất, thế giới này vận hành chủ yếu nhờ vào một số những bộ óc lớn - những người dám theo đuổi cái mà họ cho là đúng bằng mọi giá; phần còn lại - tức là phần bao gồm đại đa số những người không bao giờ có đủ sức mạnh để theo đuổi cái đúng bằng mọi giá - thì chủ yếu nhận ra cái đúng và đi theo.
Tôi đã từng cho rằng người Mỹ ưu việt hơn người Việt; hoặc người Nhật có những đặc điểm riêng về di truyền khiến cho họ làm được những việc ta không làm được. Nhưng sau 2 năm ở Mỹ, tôi bắt đầu nhìn thấy người Mỹ, người Việt hay người Nhật - khi xem xét riêng rẽ với tư cách cá thể độc lập với xã hội - hoàn toàn không khác nhau trên các điểm cơ bản. Bạn hoàn toàn có thể hiểu thấu đáo, có thể “đọc” một người Mỹ hay người Nhật như “đọc” một người Việt nam. Bạn có thể nhìn vào một cá thể và đoán định về con đường anh ta đi, cách anh ta xử lý cuộc sống và những nguyên tắc nền tảng khiến anh ta xử lí cuộc sống như thế - kể cả những nguyên tắc thành văn lẫn những nguyên tắc thuộc dạng vô thức. Cốt lõi sự khác nhau không phải là di truyền. Bên trên cái quy định giống loài cơ bản mà tất cả các dân tộc mọi màu da đều được hưởng thì văn hóa chính là điều quyết định sự tiến bộ hay tụt hậu.
Nếu đến một ngày như thế, văn hóa của ngày ấy sẽ là thứ không tồn tại ở cấp độ tổ chức, cộng đồng hay quốc gia nữa - hoặc chỉ tồn tại với ý nghĩa tượng trưng. Văn hóa ấy sẽ tồn tại ở cấp độ cá thể mà tất cả các cá thể trên thế giới sẽ cùng chia sẻ: văn hóa cá thể bình đẳng, ở đó mỗi người nhận thức rõ bản thân; sống trên nguyên tắc, trên mục đích của mình; không sống vì người khác và cũng không yêu cầu người khác sống cho mình; ở đó mọi sự quyết định đều trên tinh thần độc lập và có lí.
☆☆☆