Chương 129
Chốc chốc quân lính lại phải gò người kéo xe ngựa và đại bác ra khỏi bùn. Gió Tây thổi từ mấy ngày nay trong khi các đạo quân của tướng Vaide và tướng Artamon Golovin đang chậm chạp tiến về phía Tây, rải ra trên khoảng một trăm dặm. Sư đoàn Repnin vẫn chưa rời khỏi Moskva: hơn mươi lăm ngàn bộ binh và kỵ binh và khoảng mười ngàn xe ngựa.
Sương mù giá lạnh vương trên các ngọn cây trong rừng. Mưa đã làm rụng nốt những chiếc lá cuối cùng trên những cây phong và hoàn diệp liễu. Xe thụt đến tận trục bánh, nhiều con ngựa gãy chân trong bùn xanh trên các ngả đường sụt lở. Suốt dọc đường, xác ngựa chết thối nằm sóng sượt, bụng trương phình, chân chổng lên trời. Binh lính ngồi lặng thinh trên bờ các hào hố, - có giết họ, họ cũng không nhúc nhích. Đặc biệt bọn sĩ quan nước ngoài tỏ ra yếu sức; họ đã xuống ngựa từ lâu, áo khoác ngoài ướt sũng, bộ tóc giả đẫm nước, họ ngồi run lập cập giữa một đống đồ táp nham lộn xộn, dưới mui bằng vải gai của các xe ngựa.
Rời Moskva ra đi, đoàn quân trông thật đẹp mắt, mũ lông, áo chẽn, tất xanh. Nhưng tới gần biên giới Thuỵ Điển thì họ đã chân không giầy, quần áo bẩn thỉu, hàng ngũ xáo lộn. Khi họ vòng quanh hồ Inmen, nước dâng cao, tràn lên các cánh đồng cỏ bên hồ: một số lớn xe quân lương chìm nghỉm.
Tình trạng hỗn loạn đến nỗi các đoàn xe không theo kịp, đoàn nọ đi lẫn vào đoàn kia. Tới các trạm nghỉ, không sao nhóm được lửa, - trên đầu thì mưa dội xuống, dưới chân thì bùn lầy. Đám kỵ sĩ của đội cảnh vệ quý tộc còn tệ hại hơn cả quân thù; không khác gì đoàn châu chấu, chúng cướp lương thực của các làng lân cận.
Khi đi ngang qua bộ binh, chúng thét: "Tránh ra, đồ súc sinh!" Aleksey Brovkin, đại uý của trung đoàn tiên phong Von Sveden, thường chửi mắng và cầm gậy đánh bọn quý tộc nhỏ đi ngựa. Khó khăn và thiếu thốn thì nhiều nhưng trật tự thì kém.
Mãi tới sông Luga, gần biên giới, đoàn quân tiên phong mới thoát khỏi bùn lầy và hạ trại tại chỗ, chờ đoàn xe quân lương. Mọi người dựng lều, hong tạm quần áo khô được tí nào hay tí nấy. Binh lính nhắc đến những chiến dịch Azop; có người nhớ lại những cuộc hành quân của Vaxili Golixyn ở Krym. So sánh làm sao được: trước kia là đi qua những đồng cỏ phóng khoáng tiến về miền Nam ấm áp! Vừa đi vừa ca hát… Còn ở đây! Cái vùng nầy mới tệ hại làm sao! Toàn những bãi sình lầy ảm đạm, toàn là mây và gió. Sẽ phải đổ rà biết bao nước mắt mới chinh phục được cái vùng chết đói nầy.
Những đóng lửa đốt trước các lều bốc lên một làn khói cay xè. Binh lính vá víu áo quần, xuống bờ sông trơn tuột để giặt rũ. Giầy quân đội phát đã nát bươm.
Sung sướng thay những kẻ kiếm được giầy gai và tất cả còn những người khác thì phải lấy giẻ rách quấn chân. Chưa cần chiến đấu, một nửa số quân cũng có thể sẽ chết trước tháng mười một. Thỉnh thoảng lính kỵ lại dẫn về một tù binh Phần Lan, dây thừng thòng lọng ở cổ. Mọi người xúm quanh nó, hỏi nó bằng tiếng Nga và tiếng Tarta về đời sống của dân vùng nầy. Nhưng những gã Phần Lan nầy mới ngốc nghếch làm sao chứ: chúng chỉ chớp chớp mắt, lông mi như lông mi bê con và chẳng nói chẳng rằng. Người ta giải chúng đến lều của Aleksey Brovkin để lấy cung. Ít khi chúng được thả về. Người ta trói gô chúng lại, giải chúng đến đoàn xe quân lương, bán chúng lấy sáu mươi lăm kopeik, - bọn khỏe mạnh thì giá đắt hơn, - cho bọn chủ quán. Bọn nầy đem chúng bán lại ở Novgorod, nơi có đám nhân viên của bọn nhà thầu cho quân đội.
Aleksey Brovkin quản lý chặt chẽ đại đội của hắn: binh lính của hắn được ăn uống no đủ, hắn chỉ trừng phạt họ khi họ thực sự đáng tội, hắn ăn cùng với họ nhưng không tha thứ một sự cẩu thả nào. Ngày ngày thường có người nằm sấp, hai mông đít lột trần, kêu la trước lều của Aleksey vì bị đòn. Đang đêm Aleksey Brovkin thức giấc và đích thân đi kiểm soát các trạm gác có lần đi rón rén tới ria rừng, hắn lắng tai nghe: có tiếng cây cót két hoặc có lẽ là một con vật đang kêu rên. Hắn khẽ gọi. Hắn trông thấy lờ mờ một người lính đang ngồi trên một gốc cây đã đốn, tay ôm khẩu súng, má áp vào nòng. Aleksey hỏi gã:
- Ai đang phiên gác đấy?
Người lính bật dậy và thì thào:
- Chính tôi
- Ai đang phiên gác đấy? - Aleksey quát lên.
- Golikov Andriuska.
- Chính mi đã kêu rên phải không?
Người lính nhìn thẳng vào mặt Aleksey một cách kỳ quặc:
- Tôi không rõ?
- Tôi không rõ! Hừ, cứ thế đi, đồ mặt mẹt!
Đáng lẽ phải đánh gã, đúng thế… Aleksey nhớ lại ngọn lửa bốc cao trên khu rừng, trên ngôi nhà thờ sụp đổ lên đầu dám người bị thiêu sống và trên bãi tuyết sáng rực, gã nầy đang thất vọng vò đầu bứt tai. Aleksey đã ra lệnh giải gã đi cùng với gã mugic điên dại và lão già Nectari. Dọc đường, một đêm ngừng lại nghỉ dưới những cây tùng, Nectari đã trốn mất, - có ma quý biết lão trốn bằng cách nào. Andriuska Golikov nằm trong xe trượt tuyết, dưới tấm chiếu gai, bất tỉnh, chẳng ăn chẳng nói. Tại Povenez, trong đồn cảnh sát, khi hỏi cung, người ta lấy roi doạ quất gã, gã bỗng chồm lên:
- Tại sao lại hành hạ tôi? Người ta đã hành hạ tôi đủ rồi… Cứ làm như người ta chưa hảnh hạ ai bao giờ.
Và gã đã khai hết. Viên lục sự viết không kịp chấm mực nữa. Gã giật bỏ chiếc áo tu sĩ ngắn, chỉ vào những vết sẹo do các trận đòn để lại. Aleksey nhận thấy gã không phải là một con người thường, và lại có học. Hắn ra lệnh cắt tóc cho gã và dẫn gã đi tắm để đưa vào lính.
- Một người lính không được kêu rên… nhưng có lẽ mi ốm chăng?
Golikov cứng đờ người trong tư thế nghiêm, không trả lời. Aleksey giơ gậy lên doạ rồi đỏ đi. Golikov tuyệt vọng gọi:
- Thưa ngài đại uý?
Tiếng nói đó từ trong bóng tối vọng ra làm Aleksey rùng mình: chính bán thân hắn xưa kia cũng đã từng như thế. Hắn dừng lại và nghiêm giọng hỏi:
- Thế nào, còn cái gì nữa?
- Tôi sợ bóng tối, thưa ngài đại uý, tôi sợ cảnh vắng lặng đêm hôm… Sự lo sợ còn tệ hại hơn cái chết! Tại sao người ta lại dẫn chúng tôi đến đây?
Aleksey ngẩn người ra, hắn đi lại phía Golikov:
- Sao mi dám nói năng như thế, đồ vô lại! Với những lời lẽ như vậy, mi có biết mi đáng tội gì không?
- Aleksey Ivanovich, xin ngài cứ việc giết chết tôi ngay tức khắc… Chính bản thân tôi là kẻ thù tệ hại nhất của tôi… Sống như thế thì một con vật cũng đã chết toi từ lâu rồi… Thế giới nầy không muốn thu nhận tôi! Tôi đã xoay đủ mọi cách - cái chết cũng không vời đến tôi… Thật là vô lý… Súng của tôi đây, xin ngài đâm cho tôi một nhát lê!
Để đáp lại Aleksey nghiến răng đánh vào Andriuska vào mang tai - đầu anh ta lắc lư nhưng anh không than vãn một lời.
- Nhặt lấy mũ, đội vào. Đây là lần cuối cùng ta nói tử tế với mi, đồ vô thần, vô đạo… Mi đã theo học các thánh lão! À ra họ đã dạy mi khôn ngoan thế đấy! Mi là lính. Người ta bảo mi ra trận, mi phải đi. Người ta bảo mi chết, mi phải chết. Tại sao? Vì phải làm như vậy. Hãy đứng đó cho tới sáng… Nếu mi lại kêu rên và ta còn nghe thấy thì liệu hồn!
Aleksey bỏ đi không quay đầu lại. Trở về lều, hắn ngả lưng xuống đống rơm. Còn lâu mới tới sáng. Không khí ầm ướt nhưng trời không mưa cũng không gió. Hắn kéo chiếc chăn ngựa chùm lên đầu và thở dài "Đứa nào cũng im không nói, có thế, nhưng chúng vẫn nghĩ cá đấy thôi… A, cái bọn người nầy…".
Tên lính Fetka Mõm bẩn, vẻ mặt ủ rũ, lom khom đổ nước trong gầu vào tay Aleksey. Aleksey thổi vào nước lạnh buốt, da hắn sởn gai lên. Buổi sáng trời lạnh: trên đám cỏ đổ rạp, sương giá nom như xanh lơ, dưới gót những đôi ủng lớn, một thứ bùn quánh kêu lép nhép… Khói từ các đống lửa bốc lên cao giữa các dãy lều. Trung uý Leopondux Mirbac tỉnh dậy hãy còn ngái ngủ, tấm da cừu khoác trên chiếc áo có đính lon, không biết thét gì với hai người lính: hai người nầy người cứng đờ, mặt người lên, lo sợ.
- Phải quật cho chúng mầy một trận mới xong! - Y nhắc lại giọng khàn khàn. - Quỷ bắt chúng mầy đi!
- Schwein(1) - Y nắm lấy mặt một trong hai người lính, bóp chặt, đẩy anh ta. Xốc lại tấm da cừu trên vai, y bước về phía lều của Aleksey. Bộ mặt y đã lâu không cạo, sị ra, mi mắt húp híp.
- Không có nước nóng… Không có gì ăn… Không phải là một cuộc chiến tranh… Một cuộc chiến tranh chuẩn bị tốt thì người sĩ quan hài lòng. Tôi không hài lòng chút nào… Lính của ông toàn là lính tồi!
Aleksey không trả lời, đang bận lấy khăn mặt xoa mạnh hai bên má. Hắn khục khặc ho, mình mặc chiếc sơ mi nhem nhuốc, hắn giơ lưng ra cho Fetka: "Đấm đi!". Fetka lấy lòng bàn tay đấm đấm… "Mạnh vào"
Giữa lúc đó một chiếc xe chở nặng, mui làm bằng một tấm vải dày căng trên những khung vòng cung, từ trong rừng chạy ra. Sáu con ngựa màu lông khác nhau, bốc hơi dày đặc. Độ mươi kỵ sĩ, áo khoác ngoài bê bết bùn, theo sau. Chiếc xe lắc la lắc lư trên những gốc rạ đã bị dẫm nát, đi bước một tới chỗ trại quân. Aleksey vớ lấy chiếc áo chẽn, hắn vội quá đến nỗi không sỏ được tay áo. Hắn vớ lấy thanh gươm và chạy về phía các lều:
- Trống đâu, nổi trống tập hợp?
Chiếc xe đã đỗ lại. Vua Piotr bước xuống, đầu đội mũ cát két lông thú có che tai. Melsikov xuống sau, tấm áo choàng rộng màu đỏ tươi lót lông hắc điêu thử vướng vào đinh thúc ngựa hình sao. Các kỵ sĩ cũng xuống ngựa. Sa hoàng nheo mắt nhìn trại quân, hai bàn tay đỏ ứng thọc vào trong túi áo bông ngắn. Trong không khí trong suốt, tiếng kèn, tiếng trống vang lên giòn giã. Binh lính từ trên các xe nhảy xuống, từ các lều chạy ra, cài vội khuy áo, quàng dây đeo kiếm. Họ tập hợp thành ô vuông. Các trung uý cưỡi ngựa phi nước kiệu chạy dọc hàng quân, lấy gậy thúc họ, chừi bới bằng tiếng Đức. Aleksey Brovkin, tay trái đặt trên đốc gươm, tay phải cầm mũ, dừng lại trước mặt vua Piotr. Trong lúc hấp tấp hắn đã không tìm thấy bộ tóc giả. Sa hoàng vừa nói vừa nhìn qua đầu tóc rối bù của hắn:
- Đội mũ vào. Trong chiến dịch, người ta không bỏ mũ ra, đồ ngu. Đoàn xe chở thuốc súng của ngươi đâu rồi?
- Hiện ở lại bên hồ Inmen, thuốc súng bị ẩm hết thưa Ngài pháo thủ.
Vua Piotr đưa cặp mắt tròn xoe quay sang nhìn Melsikov. Y uể oái bóp bóp bộ mặt cạo nhẵn nhụi.
- Đề nghị ông trả lời cho biết, - Melsitkov vừa nói vừa nhìn qua đầu Alioska. - Các đại đội khác của trung đoàn đâu? Đại tá Von Sveden đâu?
- Thưa tướng quân, các đại đội đó hiện đóng rải rác dọc sông, mé hạ lưu.
Melsikov vẫn nhếch mép, gật gù. Vua Piotr cau mầy không nói gì cả.
Cả hai người, tầm vóc cao lớn, đi qua những gốc rạ sắc về phía các ô vuông quân lính. Không rút tay khỏi túi áo, Sa hoàng nom có vẻ như lơ đãng ngắm nhìn bộ mặt gầy nhom xám xịt của đám lính, những cái mũ dạ tồi méo mó vì mưa gió. Áo chẽn nhàu nát, chân quấn giẻ rách. Chỉ có các trung uý người nước ngoài là ưỡn thẳng người, ra vẻ oai hùng.
Họ đứng như vậy một lúc lâu trước đội quân sắp thẳng hàng. Vua Piotr lắc mạnh đầu ngẩng lên:
- Chào các chú!
Các viên trung uý giận dữ quay lại phía quân lính. Một tiếng hô chuệch choạc vang lên trong hàng ngũ:
- Chúc sức khỏe Ngài pháo thủ.
- Có ai phàn nàn kêu ca gì không? - Vua Piotr vừa nói vừa tiến gần lại.
Binh lính đứng lặng thinh. Các viên trung uý, một tay đặt trên chiếc gậy chống cách xa người, ung chân trái tiên lên trước, chằm chằm nhìn Sa hoàng. Nhà vua liền nhắc lại, giọng xẵng hơn:
- Nếu ai có điều gì muốn kêu ca, hãy bước ra khỏi hàng không việc gì mà sợ.
Bỗng có tiếng thở dài, não nuột như một tiếng nức nở. Aleksey nhìn Golikov: khẩu súng ngọ nguậy trong tay gã những gã tự trấn tĩnh được và không nói gì.
- Ngày mai, ta sẽ tiến đánh thành Narva. Có rất nhiều việc phải làm, các chú ạ. Tên vua Thuỵ Điển Charles đang đích thân tiến về phía ta. Phải đánh bại hắn. Ta không thể đem Tổ quốc nộp cho hắn được.
Vùng nầy có Yam-Gorod, Ivan-Gorod, Narva - tất cả miền đất đai chạy ra tới biển là tổ quốc ta xưa kia. Chúng ta thắng càng chóng, sẽ càng sớm trở về nghỉ ngơi tại nơi trú quân mùa đông. Các chú rõ chưa?
Nhà vua nghiêm nghị trợn mắt. Binh lính im lặng nhìn Sa hoàng. Thật dễ quá, có gì mà không rõ. Một giọng nói buồn thảm khàn khàn từ trong hàng ngũ thốt lên: "Ta sẽ thắng, khoản người thì ta không thiếu". Melsikov vội tiến lên một bước để nhìn xem ai nói. Aleksey sững sờ cả người: chính là Fetka Mõm bẩn, tên lính tồi nhất.
- Ông đại uý… - Aleksey vội nhảy tới - Ta cám ơn đại uý về trật tự tốt trong đại đội của đại uý… Còn các chuyện khác không phải lỗi tại đại uý. Hãy phát cho mỗì người ba khẩu phần vodka.
Vua Piotr đầu cúi gằm xuống ngực, bước nhanh về phía xe ngựa. Melsikov nháy mắt với Aleksey, giờ đây y mới hạ cố nhận ông bạn cũ của mình: y rút bàn tay chải chuốt từ trong áo choàng lông thú ra, ôm hôn Alioska, và ghé vào tai bạn thì thầm:
- Tốt lắm, Piotr Alekseevich hài lòng đấy. Tại đơn vị của cậu không như các đơn vị khác… Nếu cậu lập công trước thành Narva thì sẽ được thăng đại tá đấy! Mình đã gặp Ivan Artemist ở Novgorod, ông cụ có nhờ mình chuyển lời chào cậu.
- Xin cảm ơn, Alekxandr Danilovich!
- Chúc cậu may mắn!
Nâng phía trước áo choàng lên, Melsikov chạy đuổi theo vua Piotr. Hai người lên xe. Xe chạy dọc theo bờ sông, tới nơi dòng sông lượn quanh khu rừng tùng, phản chiếu bầu trời lạnh lẽo.
Cách Narva hai dặm về phía hạ lưu, người ta dựng một chiếc cầu nổi vắt qua hai nhánh sông Narova ôm lấy hòn đảo Kampechom dài thườn thượt và sình lầy. Các trung đoàn kỵ binh của Seremetiev đã vượt qua cầu đó, tiến trên đường đi Revan để đánh địch.
Theo sau họ, các đơn vị của sư đoàn Trubetxkoi đã vượt sang tả ngạn. Cách các pháo đài của thành Narva một dặm, họ dừng lại đóng quân, cố thủ sau các xe quân lương. Quân lính đóng trong thành Narva không ngăn cản họ vượt sông, ó lẽ đội quân bị vây hãm trong thành có ít, không dám kéo ra nơi trống trải.
Ngày hai mươi ba tháng chín, toàn bộ đội quân tiên phong, rời con đường đi Yam-gorod, đổ vào cánh đồng ngổn ngang gò đống; khi xa xa, xuất hiện những ngọn tháp to bè bè cỏ mọc kín của Ivan-gorod, một ngôi thành cổ xưa kia của Ivan Hung đế, những ngôi nhà thờ xanh lơ trên có mũi tên, và những mái ngói của thành Narva, nhấp nhô bên kia sông, đạo quân tiến về phía đảo Kampechom và bắt đầu vượt qua sông những chiếc cầu rung rinh của dòng sông nước đục và chảy xiết.
Ngày hôm đó yên tĩnh. Mặt trời chỉ hơi lóe sáng, lờ mờ. Các nhà thờ xây bằng gạch ở Narva và Ivan- gorod kéo chuông báo động.
Trên con đường rải cát, rộng thênh thang, lồi lõm, gập ghềnh, binh lính nhốn nháo đổ về phía các cầu, quân xtreletz đầu đội mũ viền lông cáo mà Sa hoàng ghét cay ghét đắng, những xe ngựa bốn bánh gây nát vá víu tạm bợ, chở đầy thùng, bị, hòm, bánh mì mốc meo; những người mugic đánh xe, sau cuộc hành trình, áo quần rách bươm, quất đàn ngựa nhỏ bé gầy còm, mệt lử, vòng cổ làm bằng sợi gai; bên trên đám người nhấp nhô một lá cờ buộc vào cán hoặc một lá cờ hiệu ở đầu một ngọn giáo, hoặc cái chổi thông nòng súng trên vai một pháo thủ bị lạc đơn vị; một sĩ quan cưỡi ngựa, một vạt áo choàng vắt trên vai cấm gậy đánh vào đầu binh lính để mở đường. Con mắt lãnh chúa, áo bông mở phanh, khoác trên người áo giáp của ông nội, vừa phi ngựa nước đại vừa hét; theo sau gã, lính của gã tròn xoe nhe những thùng rượu trong bộ áo giáp nẹp bằng dạ khâu đột, lưng đeo cung tên kiểu Tarta nhấp nhổm trên lưng những con ngựa già hom hem.
Trên đường đi, mọi người đều quay đầu về phía một ngọn đồi trọc, ở cách xa đường, nơi Sa hoàng mặc áo giáp sắt, cưỡi một con ngựa xám, đang giương ống nhòm nhìn. Melsikov, bàn đạp chạm bàn đạp của Sa hoàng, một tay chống nạnh, cưỡi một con ngựa ô, mặt mầy tươi tỉnh, những chiếc lông cắm trên mũ sắt thếp vàng óng ánh của y phất phơ trước gió.
Đạo quân triển khai thành hình móng ngựa trước thành Narva cách xa một tầm súng đại bác, hai sườn dựa vào dòng sông Narova; các đơn vị thuộc sư đoàn Vaide đã chiếm lĩnh vị trí trên mé thượng lưu, ở chính giữa; dưới chân núi Hermansberg rậm rạp là sư đoàn Artamon Golovin; bên cánh trái, trước chiếc cầu bắc tới đảo Kampechom là các trung đoàn Xemionovski, Preobrazenski, và các trung đoàn xtreletz của Trubetxkoi. Lều của quận công Von Kroi được dựng lên ở đó, ông ta đi theo đạo quân với tư cách là cố vấn cao cấp. Vua Piotr và Melsikov vào nghỉ tại một căn nhà gỗ của ngư dân ở ngay trên đảo.
Dọc suốt trận tuyết, binh lính đào một đường hào sâu có lỗ khoét ở bờ, có ụ chiến đấu ở các góc và pháo đài quay ra phía ngoài để đề phòng quân Thuỵ Điển từ phía đường đi Revan tiến đến. Trước những pháo đài của thành Narva, quân Nga xây dựng những công sự cho pháp hãm thành. Kỹ sư Halac điều khiển các công trình. Các lỗ châu mai trên thành nhả ra những đám khói mù mịt, đại bác nổ ầm ầm trong không khí ẩm ướt mùa thu; đạn trái phá vạch trên bầu trời những dường vòng cung cao ngất, xì khói, rơi xuống, nổ tung bên cạnh xe ngựa, lều vải trong các hầm hố, binh lính ở đó nhảy vội cả ra ngoài. Đạn trái phá đã đốt cháy nhiều trại ấp có vườn hoa và vườn rau xung quanh.
Khói từ những đám cháy và các đống lửa của đạo quân đóng ngoài trời bốc lên thành một đám mây trắng và bị cuốn về phía thành phố, ở đó phụt ra những lưỡi lửa của đạn trái phá. Tư lệnh thành Narva là đại tá Hooc, một viên tướng dũng cảm và dày dạn kinh nghiệm.
Vua Piotr và kỹ sư Halac, cưỡi ngựa, lẩn trong vườn và núp sau những ngôi nhà, đi xem xét các pháo đài Toma, Gloria, Chriation và Triumf. Đôi khi hai người tới gần quá đến nỗi trông thấy cả khuôn mặt khắc khổ của bọn pháo thủ Thuỵ Điển qua những cửa súng trên thành. Không hấp tấp vội vã, nhưng lanh lẹn, chúng chuyển pháo đến, ngắm thận trọng.
- Bắn!
Viên đạn phăng phăng đè không khí, rít qua đầu. Mắt vua Piotr mở rộng, tròn xoe, các thớ thịt trên gò má căng lên nhưng nhà vua không cúi đầu. Kỹ sư Halac vốn đã từng trải nhiều, ông ta là một con người nghiêm trang, điềm tĩnh và không vui, thúc ngựa đúng lúc và lánh ra xa. Melsikov, ăn mặc lộng lẫy, vả lại chính hắn là mục tiêu của mỗi phát đạn địch, chỉ lắc lắc những chiếc lông cắm trên mũ; tính vốn huênh hoang, hắn thét bảo bọn pháo thủ: "Ngắm chệch rồi, Camarads(2)" và vỗ vỗ vào cổ con ngựa của hắn đang chồm. Khoảng năm chục long kỵ binh, to lớn như hộ pháp, râu ria rậm rạp đứng đó đợi không nhúc nhích: ai sẽ bị quả bóng đen quật phải đây.
Tường thành thì cao. Các pháo đài nhô ra theo hình cánh cung xây bằng đá tảng, vững chắc đến nỗi những quả đạn gang văng vào, vỡ tan như những quả hạt dẻ. Qua lỗ châu mai và cửa súng trên các cháp thò ra những họng pháo hạng nặng, thành Narva có ít nhất ba trăm khẩu loại nầy; quân đồn trú trong thành có khoảng hai nghìn bộ binh, kỵ binh và dân được vũ trang. Quân trinh sát đã nói láo khi bảo rằng chỉ cần một trận xung phong là chiếm được Narva.
Vua Piotr xuống ngựa ngồi lên một cái trống, và mở một tờ giấy đặt lên đầu gối. Miska, người liên lạc của nhà vua đưa ra một lọ mực. Halac, ngồi xổm bên Sa hoàng, ước lượng khoảng cách bằng mắt, bàn tay to lớn của vua Piotr cầm chiếc bút lông ngỗng, thận trọng vạch lên giấy những nét run rẩy. Melsikov đi đi lại lại trước hàng long kỵ binh ngồi trên ngựa sắp thành hình cánh cung.
- Mỗi pháo đài phải có mười lăm khẩu pháo hãm thành; và để chọc thủng tường thành phải có sáu mươi khẩu pháo đồng đen nặng bốn mươi tám livrơ - Halac nói, giọng đều đều, tẻ ngắt - Tồi ra cũng phải một trăm hai mươi nghìn viên đạn!
Vua Piotr nói:
- Hay lắm!
- Để gây ra những đám cháy trong thành; trước khi xung phong phải có ít nhất bốn mươi khẩu súng cối mỗi khẩu một nghìn viên đạn!
Vua Piotr vừa nói vừa ghi những con số:
- Đấy ở bên châu Âu, người ta lý luận như thế đấy.
- Mười thùng lớn đựng dấm để làm nguội các khẩu pháo. Chỉ có bắn liên tục, chỉ có một trận pháo kích dữ dội cửa tất cả các khẩu đội như đổ lửa địa ngục mới đánh bại được quyết tâm của những kẻ bị vây hãm trong thành. Thống chế De Lucxemburg dạy ta như vậy. Phải có mười lăm nghìn thủ pháo. Một nghìn thang xung phong cao mười hai arsin khá nhẹ để hai người có thể vác chạy được. Năm nghìn túi đựng len.
- Để làm gì?
- Để bảo vệ binh lính chống đạn súng hoả mai. Khi vây hãm thành Dunkeck, thống chế Voben nhờ có những túi len đó đã tiến được tới sát cổng thành, mặc dầu súng hoả mai bắn hết sức ác liệt vì đạn rất dễ dàng bị len mút mất.
Giọng do dự, vua Piotr vừa nói vừa ghi vào giấy:
- Được Danilys, cần có len đấy, năm nghìn túi!
Melsikov, chống hai tay lên đầu gối giạng ra, cúi xuống nhìn tờ tiấy phập phồng trước gió. Y bĩu môi:
- Thế thì xa xỉ quá, Myn Herz. Vả lại không thể tìm đâu ra len được. - Nói với Halac - Tại Azop, người ta chỉ dùng gươm để leo lên tường và đã chiếm được thành phố.
Phía sau họ, trong hàng long kỵ binh, một con ngựa vùng vầy, một người thốt lên một tiếng kêu ú ớ. Mọi người quay đầu lại. Con ngựa trắng của một long kỵ binh, mình đè lên chân cố ngóc đầu dậy - một tia máu đen, to bằng ngón tay, phọt ra qua mũi. Đám long kỵ binh rậm ria, kinh hãi, liếc nhìn các bụi cây cách đó khoảng một trăm bước; từ đó toả ra những làn khói nhỏ. Vua Piotr, tay cầm bút đang giơ lên, ngồi sững y nguyên trên tang trống.
Trong tiếng đại bác nổ ầm ầm, một đơn vị kỵ binh đã lén xông ra qua cửa một ngọn tháp của thành Narva, lấp sau một chỗ nhỏ ra của pháo đài Gloria, và đã chạy men sau hàng rào các vườn rau. Theo sau chúng, khoảng năm mươi tên kỵ binh Đức, mặc áo giáp sát và mũ sắt dội sụp xuống tận mắt, cưỡi những con ngựa hồng to nặng, nháy ra. Chúng vung gươm, phi nước đại, trải ra trên cánh đồng thạch thảo, định bọc lấy cánh trái.
Alekxandr Danilovich, mắt mở thao láo, đưa mắt nhìn một giây, không hơn, cái trò nghi binh ấy; rồi hắn lao đến chỗ con ngựa ô, cởi áo choàng, quăng đi, nhảy lên yên. Hắn thét to, mặt đỏ tía: "Tuốt gươm ra!"
Hắn tuốt thanh gươm ra khỏi vỏ, thúc dinh ngựa hình sao, nằm rạp xuống cổ con ngựa nòi đang chồm lên, rồi lại thúc ngựa lao như bay về phía trước: "Long kỵ binh, hãy theo ta!" Melsikov và toàn thể đám long kỵ binh, lượn quanh Sa hoàng đang đứng bên chiếc trống, phi nước đại xông tới chặn đường bọn kỵ binh Đức, lúc đó bọn nầy đã ghìm ngựa và quay trở lại
Halac, mím chặt đôi môi mỏng, vẻ lo âu, giắt con ngựa cái màu xám bờm đen đang hoảng sợ lại gần Sa hoàng.
- Xin mời bệ hạ rời khỏi khu vực đạn bắn.
Vua Piotr nhún một chân nhảy lên yên. Nhà vua nhìn đội long kỵ binh và đội kỵ binh Đức đang tiến lại gần nhau. Quân ta phi ngựa thành một khối: phía trước, phất phơ chùm lông cắm trên cái mũ sắt sáng loáng của Alexaska; quân Thuỵ Điển đã tản ra ở đằng xa trên cánh đống; lúc đó bọn kỵ binh ở hai bên cánh, bỗng rẽ ngang, thúc ngựa và lấy sống gươm đánh ngựa. Nhưng chúng đã không kịp tập hợp lại. Vua Piotr thấy con ngựa ô của Alexaska lao cả ức vào con ngựa hồng của một tên kỵ binh Đức, tên nầy ngã ngựa, bám chặt lấy bờm
Chùm lông đỏ xuất hiện thoắc ở chỗ nầy, thoắc ở chỗ kia, giữa đám mũ sắt. Nhưng đội long kỵ binh đã xông đến như thác đổ và không dừng lại, tiếp tục phi nước đại. Họ vung kiếm lên như trò trẻ. Đằng sau họ; người chết nằm la liệt dưới đất: kẻ thì lắc lư cái đầu gục trên ngực, cố nhỏm dậy, kẻ thì ngọ nguậy đầu gối đang giơ cao. Nhiều con ngựa không người cưỡi, hốt hoảng phi nước đại, băng qua cánh đồng.
Halac cứ một mực kéo cương ngựa: "Tâu bệ hạ, ở lại đây nguy hiểm lắm", con ngựa cái màu xám, khuỵu chân, hất hậu. Vua Piotr lấy gót chân thúc vào hai bên sườn ngựa. Đi đã xa nhà vua vẫn ngoái cổ lại. Lúc nầy, bọn kỵ binh Đức phóng thục mạng bỏ chạy trước quân Nga: để chặn đường chúng chạy về phía thành phố, từ bên phải nhiều kỵ sĩ quần áo sặc sỡ, vừa phi ngựa qua những luống rạ màu nâu, vừa vung cao lưỡi kiếm cong của họ, với cái vẻ ngang tàng của người Tarta - đó là một số xotnia(3) của trung đoàn không chính quy của các nhà quý tộc. Từ dưới mái lợp ván gỗ che bờ tường thành, những khẩu súng hoả mai nhắm vào họ nổ đì đùng.
Sa hoàng và Halac tiến vào một khu rừng phong. Nhà vua hít không khí căng lồng ngực và cho ngựa đi bước một. Nhà vua tự trả lời những ý nghĩ của mình: "A, đúng, không phải là chuyện dễ".
- Tâu bệ hạ, xin có lời mừng bệ hạ, - Halac nói. - Bệ hạ có những kỵ sỹ rất xuất sắc.
- Rồi thì sao? Như thế chưa đủ… Nổi giận lên, phi nước dại, chém giết… Chỉ có thế thôi thì không đủ để chiếm được thành…
Vua Piotr giật cương, leo lên một ngọn đồi và trán nhăn lại, nhà vua đứng nhìn hồi lâu hàng quân và xe trải dài ra gần bảy dặm. Khắp nơi, từ các hào hố, những hòn đất bay lên uể oải. Tiếng kêu, tiếng chửi.
Mọi người không có việc làm xúm quanh những đống lửa bên những cỗ xe đã tháo ngựa. Đàn ngựa bé nhỏ, gầy nhom bị tròng chân lại. Những mảnh quần áo rách rưới phơi lòng thòng trên các bụi cây. Người ta có cảm giác như đạo quân to lớn nầy cử động và sống uể oải, miễn cưỡng.
- Đừng nghĩ đến việc đó trước tháng mười một, vô ích, - vua Piotr nói. - Chừng nào trời chưa băng giá thì chúng ta chưa có thể đưa pháo hãm thành đến được. Trên giấy tờ là một chuyện, trên thực tế lại là một chuyện khác
Nhà vua lại cho ngựa đi bước một và hỏi Halac về các chiến dịch và các trận công thành của các vị thống chế lừng danh, Voben và quận công De Lucxemburg, những bậc thầy của nghệ thuật quân sự. Nhà vua hỏi về các xưởng quân giới và các xưởng đúc pháo của Pháp.
Nhà vua lắc lắc cái cổ ngẳng của mình, bó chặt trong chiếc cà vạt vải.
- Tất nhiên… Ở đó, mọi việc đều được tổ chức chu đáo có sẵn sàng đủ mọi thứ… Hãy so sánh đường xá của họ và của chúng ta.
Melsikov nhảy qua các hào hố, phi nước đại tới;, đang còn hăng, hắn vui vẻ cười ha hả, cặp mắt long sòng sọc… Trên chiếc mũ sắt chỉ còn lại một chiếc lông độc nhất, bộ giáp đồng mang đầy vết tích gươm giáo. Hắn ghìm ngựa đứng sững lại, sườn con ngựa khó nhọc phập phồng:
- Thưa Ngài pháo thủ… Quân địch đã bị đánh lui và bị nhiều thiệt hại. Chưa được một nửa số kỵ binh Đức chạy thoát khỏi tay quân ta.
Trong lúc phấn khởi, dĩ nhiên hắn có khoác lác chút ít:
- Quân ta có hai người chết và vài người bị sây sát xoàng.
Vua Piotr thích thú nhìn Alexaska đến nỗi nhăn cả mũi lại; nhà vua nói:
- Tốt, ngươi là một chiến sĩ dũng cảm.
Buổi tối, các tướng lĩnh họp trong lều quận công Von Kroi: Artamon Golovin, kiêu kỳ và rất nghiêm nghị. ông là người đầu tiên sáng lập ra đội quân cận vệ trẻ; vương hầu Trubetxkoi - con cưng của các trung đoàn xtreletz - một nhà quý tộc đẫy đà và giàu có: Burtulin, tư lệnh đội cận vệ, lừng danh vì tiếng nói ầm ầm như sấm và quả đấm nặng nề, và Vaide, đầu hói, đang ốm thực sự, run rẩy trong cái áo khoác da cừu.
Khi Sa hoàng, Melsikov và Halac tới, quận công mời tất cả những người có mặt dự một bữa ăn xoàng tại chiến trường. Những món hiếm và thậm chí chưa từng thấy được dọn ra do một liên lạc viên của quận công đã đi kiếm các thứ đó tại Revan, rượu vang Pháp và vùng sông Ranh đổ ra như suối.
Quận công khoan khoái như cá trong nước. Ông cho thắp nến la liệt. Vung vấy bàn tay xương xẩu, ông thuật lại những trận đánh nổi tiếng mà chính ông, từ trên đỉnh cao một ngọn đồi chế ngự cả trận địa đẫm máu, một chân đặt lên một khẩu pháo đã vờ, ra lệnh cho quân giáp ky chọc thủng ô vuông của quân địch và kỵ binh đánh vào hai bên cánh, ông nhận chìm hàng sư đoàn chết đuổi dưới sông, ông đất phá các thành phố
Những người Nga, mắt nhìn xuống, vẻ lầm lì, ăn món măng non và món thịt băm của thành Stradburg.
Vua Piotr lơ đãng nhìn khuôn mặt éo cái mũi dài nghêu và bộ ria ướt của quận công. Lúc thì nhà vua gõ gõ nhịp trên bàn. Lúc thì vặn vặn xương vai như thể có cái gì làm nhà vua ngứa ngáy. Từ hồi đầu chiến dịch, người ta đã để ý thấy cái nhìn lơ đãng của Piotr Alekseevich.
- Narva! - Ông quận công vừa thốt lên vừa chìa cốc không cho viên quan hầu. - Narva! Chỉ cần một ngày pháo kích cho trúng và một trận xung phong ngắn gọn vào các pháo đài phía Nam… là chìa khoá thành Narva đặt trên chiếc khay bạc sẽ được dâng lên bệ hạ. Chỉ cần để đây một đơn vị đồn trú nhỏ và tung tất cả lực lượng của ta với đoàn kv binh triển khai ở hai bên cánh, đánh vào quân của vua Charles. Chúng ta sẽ dự bữa ăn nửa đêm ngày lễ Giáng sinh ở Revan, tôi xin lấy danh dự ra đảm bảo.
Vua Piotr rời khỏi bàn đứng dậy, đi vài bước, đầu cúi xuống để khỏi chạm vào vái lều; nhà vua nhặt dưới đất lên một cọng rơm rồi ngả mình nằm xuống giường của quận công - chiếc giường lấy của một trại ấp gần đấy. Nhà vua lấy cọng rơm xỉa răng.
- Halac đã trình ta bảng liệt kê những thứ cần thiết.
Mọi người ngừng ăn quay cả về phía Sa hoàng.
- Nếu chúng ta có tất cả những thứ nếu ra trong bản kê thì chúng ta sẽ chiếm được Narva. Chúng ta cần sáu mươi khẩu pháo hãm thành… - Nhà vua ngồi dậy rút trong ngực ra một tờ giấy nhầu nát ném lên bàn, trước mặt Golovin - Đọc đi… Trong lúc nầy, ta chưa có lấy một khẩu pháo tốt ở chiến luỹ. Revin đang chật vật trong bùn trước thành Tver với những khẩu pháo hãm thành… Hôm nay ta được biết là các khẩu súng cối đều nằm cả lại trên cao nguyên Vandai… Đoàn xe chở thuốc súng hiện nay còn ở trên hồ Inmen… Vậy các ngài nghĩ gì về việc đó, các ngài tướng soái?
Các viên tướng nhích một ngọn nến lại gần, cúi xuống đọc bản kê. Chỉ có Melsikov mỉm một nụ cười hiểm ác trước cốc rượu đầy tràn của mình, ngồi riêng ra một nơi.
Sau một lát im lặng, Sa hoàng nghiêm nghị, thong thả nói tiếp:
- Đây không phải là một doanh trại, đây là nơi tụ tập của bọn digan. Chúng ta đã chuẩn bị trong hai năm ròng… Vậy mà chẳng có gì sẵn sàng hết… Còn tồi tệ hơn cả trước thành Azop. Còn tồi tệ hơn cả thời Vaska Golixyn…
Alexaska gõ đinh thúc ngựa kêu lách cách, và cười, mồm rộng tới mang tai.
- Thằng vô lại Một doanh trại mà thế nầy à? Lính tráng thì thơ thẩn trong các đoàn xe quân lương… Đầy rẫy lũ đàn bà nông thôn, bọn con gái Phần Lan… Tiếng ồn ào. Sự lộn xộn… Lính tráng làm việc uể oải, trông chúng mà phát tởm… Bánh mì thì mốc xanh… Tại một số trung đoàn, thịt muối chỉ có đủ cho hai ngày… Thịt đâu cả? ở Novgorod à? Tại sao không có ở đây? Mùa mưa sắp bắt đầu, chỗ trú của binh lính đâu?
Trong lều chỉ nghe thấy tiếng nến nổ lép bép. Ông quận công không hiểu rõ vấn đề gì, tò mò hết nhìn Sa hoàng lại nhìn các viên tướng.
- Chúng ta rời khỏi Moskva ra đi đã hai tháng nay mà chúng ta vẫn chưa tới. Thế mà cũng gọi là chiến dịch? Các ngài có biết vua Charles đã bắt vua Chrixtian phải ký kết một hoà ước nhục nhã và nộp một món tiền là hai mươi lăm vạn đồng tiền vàng không? Hiện nay vua Charles đã cho cả đoàn quân đổ bộ lên Perno và đang tiến về Riga… Nếu giờ đây hắn đánh bại vua Auguste ở Riga thì đến tháng mười một, chúng ta phải đón hắn ở đây, trên đất nước chúng ta… Ta sẽ đón tiếp hắn ra sao?
Artamon Golovin, cấp bậc cao nhất và lâu năm nhất bọn, đứng dậy vừa cúi chào vừa nhíu đôi lông mày trắng xoá:
- Tâu bệ hạ, nhờ ơn Chúa…
Vua Piotr ngắt lời, một mạch máu căng phồng trên trán:
- Chúng ta cần có pháo. Cần có đạn trái phá? Một trăm hai mươi nghìn viên đạn pháo. Phải có thịt muối, lão già ngu ngốc kia
Mưa lại trút xuống, không ngớt, liền trong mười lăm ngày ròng rã. Những đám sương mù dày đặc từ biển bay vào. Nước ngập các nơi trú quân, nước nhỏ giọt trong các lều vải, người ta chẳng còn biết tránh ẩm ướt gió lạnh đêm hôm vào nơi nào nữa. Toàn thể doanh trại ngập bùn đến thắt lưng. Binh lính mắc bệnh ỉa chảy, sốt; đêm đêm hàng chục xe mang xác chết đi chôn ở cánh đồng.
Từ trong thành, địch không ngừng nã pháo và các loại súng khác vào đoàn quân vây thành. Thường thường vào tang tảng sáng, địch lại xông ra đột kích: quân Thuỵ Điển giết các lính gác, bò tới các nơi trú quân, ném thủ pháo vào binh lính đang ngủ. Ngày ngày, vua Piotr cưỡi ngựa đi thăm các công sự. Lặng lẽ nghiêm nghị áo choàng đẫm ướt, vành mũ rũ xuống, từ trong màn mưa hiện ra trên con ngựa xám, nhà vua dừng lại, đưa đôi mắt lờ đờ nhìn quanh rồi thủng thẳng bước một xa dần trên cánh đồng lầy lội, và biến vào sương mù.
Các đoàn xe chậm chạp tới. Báo cáo cho biết họ gặp nhiều khó khăn: nông dân đã hết sạch trơn, nên họ buộc phải lấy xe cộ của các diền chủ và các tu viện.
Ngựa thì bẹ nhỏ, gầy nhom rơm cỏ cho ngựa thì mục nát và tình hình một ngày một trầm trọng thêm vì những trận mưa lớn và đường xá lầy lội. Có tin đồn là trong căn nhà gỗ của ngư dân, Sa hoàng đã tự tay đánh tổng quản dốc quân nhu đến chết ngất, và đã ra lệnh treo cổ viên phó tổng quản đốc. Về lương thực, tình hình như có khá hơn đôi chút. Và trong doanh trại cũng trật tự hơn phần nào. Bọn tướng tá chẳng ra gì: người Nga thì chậm chạp quá, vốn sống theo lề thói cũ, họ lại ngu ngốc và ba hoa. Còn bọn tướng tá nước ngoài thì chỉ biết có một việc: nốc vodka để chống lại sự ẩm thấp và đánh đập bừa bãi, chẳng cần biết đúng hay sai.
Duy có một điều chắc chắn là vua Charles sau khi đổ bộ lên Perno quay về phía Riga. Hắn chỉ cần xuất hiện cũng chinh phục được các hiệp sĩ xứ Livoni và dồn được quân của vua Auguste lùi sang Kurlan còn vua Auguste thì hiện đang ở Warsawa, giữa cái tầng lớp quý tộc bị chia rẽ vì những sự tranh chấp và từ đó nhà vua đã cử mật sứ đến gặp Sa hoàng xin tiền, xin quân Cô-dắc, xin pháo, xin bộ binh… Trước thành Narva, mọi người đều biết sẽ phải chạm trán với quân Thuỵ Điển vào tiết băng giá đầu tiên.
Seremetiev dẫn đầu bốn trung đoàn kỵ binh không chính quy, được vội vâ phái đi tiến công địch, tiến đến tận Vedenberg và đánh tan được đạo quân án ngữ của Thuỵ Điển, nhưng đột nhiên, ông rút lui về phía hẻm núi Pihajogi, cách Narva khoảng bốn mươi dặm, và từ đó viết thư về cho Sa hoàng:
"Thần đã rút lui không phải vì sợ hãi mà là để tránh tổn thất cho quân ta. Trước Vedenberg có những đầm lầy ghê gớm và những khu rừng mênh mông bát ngát. Cỏ ngựa không những ở vùng đó mà cả ở các vùng lân cận đều bị thối nát hết. Và điều làm thần lo sợ hơn cả là bị mất liên lạc với Narva… Còn bệ hạ bực bội vì thần đốt phá làng mạc và giết dân Phần Lan thì xin bệ hạ cứ yên tâm: thần có đốt một số nhỏ làng mạc cốt để cho địch không tìm được nơi trú ẩn. Hôm nay thần đã ra lệnh cấm từ giờ trở đi, không được phá phách vùng đó nếu không có lệnh đặc biệt. Tại nơi thần đang đóng quân ở Pihajogi, địch không thể nào lọt qua mắt thần được. Thần sẽ không lùi nữa và ở nơi đây chúng thần sẽ hy sinh đánh đến cùng, xin bệ hạ cứ tin như vậy".
Sau đó, chẳng biết may hay rui cho quân Nga, trời nổi gió Bắc. Trong một ngày, gió xua tan hết sương mù ẩm ướt, mặt trời thấp lè tè, le lói chiếu sáng nơi trú quân chìm ngập trong bùn. Trong thành phố, một con gà trống vang lóe lên trên đỉnh tháp một ngôi nhà thờ.
Băng giá khiến đất chắc lại. Các đoàn xe chở đạn dược dần dần tới nơi. Hai mươi cặp bò kéo đến những khẩu đại bác lừng danh: khẩu "Sư tử" và khẩu "Gấu", mỗi khẩu nặng ba trăm hai mươi pud: những khẩu súng đó đã được Andrey Sokhov và Xemion Dulbinka đúc một trăm năm trước đây ở Novgorod. Những khẩu trái phá, những khẩu súng cối ngắn, có thể bắn những viên đạn nặng ba pud, trườn đi trên những bánh to và thấp nom y tựa những con rùa. Tất cả bộ binh đều súng ống sẵn sàng, tất cả các trung đoàn kỵ binh đều lên ngựa, kiếm tuốt trần, đề phòng quân Thuỵ Điển xông ra đột kích.
Hai trăm người dùng dây thừng kéo khẩu "Sư tử" và khẩu "Gấu" đưa lên luỹ chính, đối diện với những pháo đài phía Nam của thành. Suốt đêm hôm ấy, các khẩu trái phá và súng cối được đặt vào vị trí.
Trong thành, quân địch cũng không ngủ, chuẩn bị đánh lui cuộc tấn công của đối phương; trên các tường thành lập lòe những ngọn đèn con, quân canh gọi nhau í ới.
Tang tảng sáng ngày mồng năm tháng mười một, vua Piotr leo lên đồi Hecmansberg, có ông quận công và các tướng soái theo sau. Gió buốt căm căm, doanh trại còn chìm đắm trong cảnh chạng vạng, ánh mặt trời đỏ lóe đọng trên những mái nhà nhọn hoắc của thành phố và trên lỗ châu mai các tháp. Ở chân đồi, những tia lửa dài lóe lên, súng đại bác nổ vang, rung chuyển cả cánh đồng, đạn trái phá vạch những đường cánh cung tóe lửa bay về phía thành phố, khói phủ kín doanh trại và các bức tường thành. Vua Piotr hạ thấp ống nhòm và phình lỗ mũi, gật đầu ra hiệu cho Halac. Halac cho ngựa tiến lại gần tặc tặc lưỡi:
- Hỏng. Đạn đi không được xa. Thuốc súng chẳng ra gì?
- Làm thế nào bây giờ?
- Ngay tức khắc phải tăng liều thuốc… Miễn là các khẩu pháo đủ sức chịu nổi
Sa hoàng phóng xuống chân đồi, vượt qua chiếc cầu rút và lao qua cổng làm bằng rầm gồ sồi, phi ngựa qua rào gỗ và các chướng ngại vật cự mã. Ở khẩu đội trung tâm, pháo thủ tưới nước pha dấm vào nòng súng dài nghêu của khẩu "Sư tử" và khẩu "Gấu". Khẩu đội trưởng là người Hà Lan Yakov Vintesievec, một thuỷ thủ già béo lùn với bộ râu dài nhét vào trong cổ áo; y tiến lại gần Sa hoàng và bình tĩnh nói.
- Cái thứ nầy chẳng ra gì… Cái thứ thuốc súng nầy chỉ để bắn chim sẻ thì tốt. Nó chỉ tóe ra khói và bồ hóng
Vua Piotr cởi bỏ áo choàng, áơ chẽn, sắn ống tay áo lên và cầm lấy chổi thông nòng súng của pháo thủ, thọc mạnh lau nòng súng đầy bồ hóng.
- Nhồi thuốc!
Từ dưới hầm, các pháo thủ làm dây chuyền, chuyền tay nhau những gói thuốc súng bọc trong giấy màu xám.
Vua Piotr xé một góc gói thuốc, dốc thuốc vào lòng bàn tay, và giận dữ thở phì phì như mèo. Nhà vua nhét sáu gói vào nòng súng
Yakov Vintesievec nói:
- Như thế nguy hiểm đấy ạ!
- Câm mồm, câm mồm… Đưa đạn đây!
Vua Piotr tung tung trên tay viên đạn tròn nặng trĩu, lăn nó vào nòng súng rồi ấn mạnh chiếc chổi thông nòng lèn chặt viên đạn. Nhà vua ngồi thụp xuống để ngắm, - quay một chiếc ốc.
- Châm ngòi! Tránh cả ra.
"Gấu" nổ một tiếng như xé màng tai, khạc ra lửa, nặng nề giật lùi lại trên đôi bánh bằng gang và chúi nòng xuống: Viên đạn bay đi, nom như một quả bóng cứ bé dần; đá trên tháp pháo đài Gloria bắn tung tóe, một cửa pháo trên thành đổ ụp.
Yakov Vintesievec nói:
- Ồ khá đấy.
- Cứ tiếp tục như thế!
Vua Piotr mặc áo chẽn vào rồi phi ngựa đến chỗ khẩu dội súng trái phá. Lệnh được truyền tới tất cả các khẩu đội phải tăng gấp rưỡi liều thuốc nổ. Tiếng gầm của một trăm ba mươi khẩu pháo lại làm rung chuyển mặt đất… Từ các khẩu súng cối, họng súng nghếch lên trời, một ngọn lửa kinh khủng tóe ra. Khi gió đã xua tan những đám khói, người ta thấy hai ngôi nhà cháy bùng bùng trong thành phố. Loạt súng thứ hai đã có kết quả tốt. Nhưng ngay sau đấy, người ta được biết tại trận địa pháo phía Tây có hai khẩu mới đúc ở xưởng của Lev Kirilovich tại Tula đã vỡ tan; trục giá súng của nhiều khẩu đã rạn nứt. "Cái đó sẽ xét sau… Ta sẽ tìm ra thủ phạm… Cứ như thế mà tiếp tục bắn đi!"
Trận bắn phá Narva đã mở đầu như vậy kéo dài và dài không ngừng đến tận ngày mười lăm tháng mười một.
Fenten, đầu bếp của Sa hoàng, vừa bực bội làu nhàu vừa làm món trứng tráng trên những thanh củi nhỏ đặt trước lò. Gã phụ bếp đã phải phi ngựa đến tận vùng lân cận Yamburg, kiếm mãi mới được một chục trứng nhưng trứng đều ung cả.
- Mi làu nhàu cái gì thế? Cho hạt tiêu vào, Fenten, cho hạt tiêu vào!
- Tâu bệ hạ, thần nghe thấy rồi. Hạt tiêu ạ!
Vua Piotr ngồi tựa lưng vào bức tường lò nóng bỏng. Chi có chỗ đó là ấm. Trong căn buồng xép, sau bức vách, nơi Sa hoàng và Alexaska ngủ, gió vẫn lọt qua các kẽ tường - Giờ đây, giữa nửa đêm, người ta nghe thấy tiếng gió gào và cánh chiếc cối xay bên cạnh ngôi nhà nhỏ trên đảo kêu ken két. Những thanh củi nhỏ gỗ phong nổ lách tách nghe vui tai. Anh chàng Fenten béo lùn và hay càu nhàu đã bày thực phẩm ra trước lò thỉnh thoảng lại ngửi. Ánh lửa đỏ rực chiếu sáng cái mũi to cau có.
- Nầy Fenten, nếu quân Thuỵ Điển bắt được mi làm tù binh thì sao?
- Tâu bệ hạ, thần nghe đây!
- Chúng sẽ kêu ầm lên, a, a, tên đầu bếp của Sa hoàng đấy? Và chúng sẽ treo ngươi chân mi lên.
- Vâng, thì chúng cứ việc treo thần lên. Thần biết rõ bổn phận của thần là thế nào!
Gã lấy một chiếc khăn lau tay sạch phủ lên mặt bàn bằng gỗ ván, đã lung lay; đặt lên bàn một cái bình nhỏ bằng sành đựng rượu nặng hoà với hạt tiêu, cắt chiếc bánh mì đen nguội ra từng khoanh. Sa hoàng ngậm tẩu hút từng hơi ngắn, thán phục nhìn các động tác khéo léo, mềm dẻo, nhanh nhẹn của Fenten; chân gã đi ủng dạ và mình mặc áo bông, ngoài thắt một chiếc tạp dề.
- Ta không nói chơi đâu, điều ta nói về quân Thuỵ Điển là ta nói thật đấy… Mi nên thu xếp đồ lề của mi lại cho gọn gàng thì hơn!
Fenten liếc nhìn Sa hoàng. Gã đã hiểu: vua Piotr không nói đùa. Gã nhấc chiếc chảo có đựng trứng tráng từ bếp lò, đặt thẳng lên bàn, rót vodka vào cốc thiếc:
- Tâu bệ hạ bữa ăn đã dọn xong!
Gió làm rung chuyển cả ngôi nhà nhỏ. Ngọn nến chập chờn, Melsikov ồn ào bước vào:
- Thời tiết xấu quá!
Hắn nhăn mặt, tháo nút đai và hơ tay sưởi trên đống củi nhỏ phía trước lò.
- Ông ta sẽ tới ngay đây
Nhà vua hỏi:
- Nhịn ăn mà đến à?
- Ông ta đang ngủ. Thần chẳng chờ đợi gì, cứ kéo ông ta ra khỏi giường
Alexaska ngồi đối diện với vua Piotr và xem lại cái bàn có vững chãi không. Hắn rót vodka, uống và lắc đầu. Trong một lát, hai người im lặng ngồi ăn. Vua Piotr khẽ nói:
- Chậm quá mất rồi… Chẳng còn sửa chữa được gì nữa.
Alexaska nuốt vội, đáp lại:
- Nếu hắn ở cách đây một trăm dặm và nếu Seremetiev không chặn được hắn lại, thì ngày kia hắn sẽ tới đây. Ta cứ ra ngay nơi đồng trống, làm sao mà kỵ binh của ta lại không thắng được? - Hắn tháo khuy cổ và quay về phía Fenten - Còn ít xúp bắp cải nào không? - Hắn lại tự tay rót cho mình một cốc rượu thứ hai - Quân của hắn nhiều lắm là mười ngàn người - bọn tù binh thề trên Kinh thánh là như vậy. Lẽ nào ta lại vụng về đến thế được? Thật là bực mình!
- Thật là bực mình, vua Piotr nhắc lại. - Trong hai ngày, ngươi không thể làm cho người ta trở nên thông minh được đâu… Nếu tình hình trở nên bất lợi ở Narva thì ta sẽ chặn hắn lại ở Pskov và ở Novgorod.
- Myn Herz, chỉ nghĩ đến việc đó cũng đã là có tội rồi!
- Thôi được, thôi được…
Hai người nín lặng. Fenten ngồi xổm, thổi than cho hồng, hãm bia trong chiếc cà mèn đồng.
Trước thành Narva, tình hình trở nên bất lợi. Trong hai tuần, quân Nga đã bắn phá thành phố, đã nổ mìn, đã đào đường hầm để lấn dần tới - mà vẫn không phá nổi tường thành, cũng không đốt cháy được thành phố. Các tướng lĩnh không dám quyết định xung phong.
Trong số một trăm ba mươi khẩu pháo thì một nửa đã bị vỡ hoặc bị hỏng. Hôm qua, người ta đã kiểm lại kho: trong các hầm pháo chỉ còn đủ thuốc súng và đủ đạn trái phá cho một ngày, vậy mà các đoàn xe chở thuốc súng vẫn còn ì ạch tận đâu đó tại vùng lân cận Novgorod.
Quân Thuỵ Điển cố đi gấp tới bằng con đường đi Revan và giờ đây có lẽ chúng đang giao chiến tại hẻm núi Pihajogi với Seremetiev. Quân Nga bị kẹp trong thế gọng kìm, - giữa pháo binh của thành Narva và quân của vua Charles đang tiến đến.
- Chúng ta làm ầm ĩ quá… Cái đó thì ta giỏi lắm - vua Piotr quăng chiếc thìa. - Chúng ta chưa học được cách điều khiển chiến tranh. Chúng ta đã không bắt đầu bằng những việc đúng đắn… Tất cả những cái nầy chẳng có giá trị gì. Muốn một khẩu pháo bắn được tốt ở đây phải nhồi thuốc tận Moskva… Hiểu chưa?
Alexaska nói:
- Khi nãy đi ngựa qua doanh trại, thần có nghe thấy binh lính đại đội một trò chuyện quanh đống lửa. Họ chờ đợi quân Thuỵ Điển. Cả doanh trại đều xôn xao. Họ nguyền rủa các tướng soái ghê lắm… Một tên nói: "Viên đạn thứ nhất, tớ sẽ dành cho thằng trung uý của tớ…".
- Tướng soái gì cái lũ ấy! - Mắt vua Piotr long lên. Họ chỉ được cái kéo cờ đi diễu trên tường thành thì giỏi thôi. Bọn tổng trấn… mục nát cả rồi
Lức đó, Alexaska nhìn trộm Sa hoàng, thận trọng nói:
- Piotr Alekseevich… Bệ hạ hãy giao quân cho thần trong ba ngày tới! Thần xin thề là…
Làm như không nghe thấy, vua Piotr lấy túi thuốc lá trong túi áo. Nhà vua vừa lấy ngón tay nén thuốc vừa khẽ bảo:
- Bắt đầu từ ngày mai Von Kroi sẽ là tổng tư lệnh. Hắn là một thằng ngốc hoàn toàn, nhưng được đào tạo ở bên Âu: hắn là một võ tướng. Dưới quyền hắn, bọn nước ngoài trong quân đội ta sẽ cảm thấy phấn chấn hơn… Hãy chuẩn bị đi, nghe chưa? Tang tảng sáng ta sẽ lên đường!
Nhà vua thở rồi kéo cây nến lại châm tẩu. Alexaska khẽ hỏi:
- Piotr Alekseevich, ta đi đâu?
- Đi Novgorod.
Cuối cùng Sa hoàng nhìn vào cặp mắt xanh trong, tròn xoe vì kinh ngạc của Alexaska. Bỗng nhà vua đỏ mặt tía tai, mạch máu căng phồng trên trán nhớp nháp mồ hôi, và cố ghìm cơn giận dữ:
- Thằng ranh con nầy, ngươi chẳng mất gì, không như ta… Ngươi tưởng rằng thành Narva là khởi đầu và kết thúc sao? Chiến tranh chỉ mới bắt đầu thôi… Ta phải thắng… Nhưng với quân đội kia thì không thể nào được… Hiểu chưa? Cần phải bắt đầu từ hậu phương, từ những xe ngựa của các đoàn vận tải… Phi ngựa, gươm tuốt trần chẳng là cái quái gì hết… Đồ ngốc, ngươi muốn tỏ ra dũng cảm hơn Charles chăng?" Cúi đầu xuống! - Một vẻ giận dữ điên cuồng thoáng hiện trên mặt nhà vua. - Ta cấm ngươi nhìn ta như vậy!
Alexaska không tuân lệnh, không cúi đầu xuống; một sự hổ thẹn chua xót làm nước mắt hắn trào ra, một giọt lăn trên gò má rắn rỏi của hắn. Vua Piotr nheo mắt nhìn hắn trừng trừng. Hai người đều nín thở. Bỗng nhà vua khẽ cười, ngả người về đằng sau, tựa lưng vào tường và thọc hai tay vào túi.
Nhà vua nhại giọng nói của Alexaska:
- "Myn Herz", anh bạn tâm tình thân thiết của ta ơi. Nhà ngươi hổ thẹn cho ta ư? Hãy kiên nhẫn. Nếu còn xảy ra chuyện gì nữa là mọi người sẽ quay mặt đi mà bảo rằng: ông ta sợ vua Charles, ông ta đã bỏ quân đội ù té chạy về Novgorod, như xưa kia trốn vào tu viện Ba Ngôi… Thôi được… Hãy chùi mõm đi. Ra đón các vị khách của ta: các ngài tướng soái đã tới!
Tiếng lính gác hô. Tiếng vó ngựa gõ trên mặt đất băng giá. Bên ngoài, lập lòe ánh đuốc. Ông quận công bước vào, đinh thúc ngựa kêu lách cách, theo sau là các tướng soái mặt hoảng hốt và đỏ ửng vì gió rét: có chuyện gì xảy ra vào lúc đêm hôm khuya khoắc thế nầy?
Vua Piotr gật đầu chào họ rồi bước lại chỗ quận công ôm hôn ông ta. Nhà vua giơ tay ra hiệu cho Melsikov cầm lấy cây nến rồi đi vào buồng xép, sau bức vách gỗ ván.
Vào đến trong buồng, Melsikov đặt cây nến xuống một chiếc bàn con, ngổn ngang giấy tờ và rắc đầy sợi thuốc lá vụn. Mọi người đều đứng; vua Piotr ngồi xuống, cầm lấy một tờ giấy và mấp máy môi, nghiêm nghị nhấm đọc lại những dòng chữ nguệch ngoạc, lấm tấm tàn thuốc. Nhà vua dằng hắng rồi chẳng nhìn ai, lên tiếng đọc giọng cương quyết, nghiêm khắc:
- In Gottes Nanlen(4), nhân danh Chúa. Vì đức Sa hoàng có công việc cực kỳ quan trọng đòi hỏi, phải rời khỏi quân đội, ta giao quân đội cho điện hạ quận công Von Kroi, theo những điều khoản dưới đây…
Ông quận công lúc đó đứng sát ngay bên bàn, rung đùi. Vua Piotr nhìn cái đùi gầy nhom bó chẽn trong ống quần dạ trắng rồi nhìn hai bàn tay khắng khiu, đang nắm đốc kiếm bằng vàng.
- Khoản thứ nhất: Điện hạ quận công được bổ nhiệm làm thống tướng… Thứ hai, tất cả các tướng sĩ cho đến binh lính đều phải tuân lệnh quận công như tuân lệnh chính Đức Sa hoàng vậy… Thứ ba… - Nhà vua cất cao giọng - Phải làm tất cả để chiếm ngay Narva và Ivan-gorod… Thứ tư… Trong trường hợp các tướng sĩ hoặc binh lính bất tuân thượng lệnh, có quyền trừng phạt như thần dân, cho đến và kể cả xử tử.
Vua Piotr nhìn các tướng qua đầu ông quận công: Vaide tỏ ý tán thành, gật đầu; vương hầu Trubetxkoi phùng đôi má đẫm mồ hôi; mái tóc bạc trắng, cắt ngắn của Buturlin lay động trên vầng trán ngắn:. Artamon Golovin cúi đầu, dường như tủi nhục và tai hoạ đã đè nặng trên vai.
- Ngoài ra, điện hạ quận công sẽ tìm hiểu cặn kẽ về viện binh của quân Thuỵ Điển. Khi biết rõ là vua Charles đã tới và nếu lực lượng của y tỏ ra hùng hậu thì phải theo dõi y chặt chẽ, không để y lọt được vào thành Narva, và nhờ ơn Chúa phù hộ, tìm cách đánh bại y. Nhưng nếu có thể, đợi viện binh đến vẫn là hơn cả.
Nhà vua hạ thấp tờ giấy xuống và nói với ông quận công:
Repnin và viên Hetman chỉ huy đội quân Cô-dắc cùng các đoàn xe chở đạn dược hiện cách đây vài ngày đường… - Nói với Golovin - Ngồi xuống và chép lại sạch sẽ.
Có người gõ cửa phòng chờ. Melsikov, vẻ lo âu, lách ra, đi sang bếp. Có người nào đó bước vào qua cánh cửa để mở, cùng với tiếng gió rít, tiếng la hét ầm ĩ của nhiều người ở xa xa lọt vào. Vua Piotr, xô một người đứng đó, bước vào bếp.
- Cái gì thế? - nhà vua thét lên giọng dữ dội.
Một người trai trẻ đứng trước nhà vua; mặt mũi hốc hác, nhưng hồng hào như một cô gái, mũi hếch, mắt táo tợn; trên tai mớ tóc vàng hoe bết máu đã đông lại.
Melsikov nói rất nhanh;
- Pavel Yaguzinski, trung uý, hậu cần của Boris Petrovich Seremetiev.
- Thế sao?
Nét mặt người trai trẻ run lên, y ngẩng mặt về phía Sa hoàng:
- Tâu bệ hạ, Boris Petrovich sai hạ thần đến xin chỉ thị của bệ hạ về nơi đóng quân của các trung đoàn.
Vua Piotr nín lặng. Các tướng soái hốt hoảng, chen chúc nhau trước cửa phòng xép.
Melsikov vội vàng mặc chiếc áo bông ngắn.
- Chúng đã nhục nhã bỏ chạy, chạy từ Pihajogi trốn về đây, mất cả mũ… Thế mà cứ tự hào là quý tộc?
Sáng ngày 17 tháng mười một, các trung đoàn chế ngoại của đội cảnh vệ quý tộc được các trạm gác cho biết là đêm qua, quân tuần tra Thuỵ Điển tránh các đường hẻm đã men theo bờ biển lọt vào sau lưng họ, trên đường đi Revan. Thế là hàng ngũ xáo trộn, bất chấp lệnh của Boris Petrovich Seremetiev, họ bỏ Pihajogi, sợ bị cắt đứt với đại quân: Seremetiev phóng ngựa đuổi kịp các đơn vị đã bị hôn loạn, ông nắm lấy dây cương, gào thét, lấy roi quất cả người lẫn ngựa, nhưng những người đến sau cứ xô tôi ngựa của Boris Petrovich quay cuồng trong đảm loạn quân đang ào ào chạy trốn.
Ông chỉ tập hợp được vài đơn vị để bảo vệ hậu quân, ngăn không để một phần đoàn xe rơi vằo tay quân Thuỵ Điển. Quân Thuỵ Điển xuất hiện vào lúc mặt trời mọc, trên khắp các ng