← Quay lại trang sách

-- 2 --

-- 2 --

hơ như vầy:

KHOAI NGỌT BÁNH ĐẮNG

Ngày xưa, hồi còn thơ
Một chiều nắng đẹp khoe màu tơ
Tôi cùng em, hai đứa
Thơ thẩn ngồi chơi trên ngạch cửa.
Tóc em chừa bánh bèo
Môi chưa hồng, da mét vì nghèo !
Đầu tôi còn húi trọc,
Khét nắng, hôi trâu, thèm đi học
Em cầm một củ khoai
Cạp vỏ bằng răng rồi chia hai.
Thứ khoai sùng lượm mót,
Mà sao nó ngọt thôi là ngọt !

Bây giờ, giữa đường đời,
Kỷ niệm ngày xưa xa mù khơi,
Gặp nhau chiều mưa lạnh
Hai đứa đều sang trong bộ cánh,
Dung nhan em coi tươi
Anh mừng, tưởng đâu đời em vui,
Dè đâu đây là quán,
Em bẹo hình hài rao lên bán
Nghe nói anh cầm viết

- Nghệ thuật là gì? Em muốn biết.

- "Mùi hôi nói mùi thơm
Cây bút cầm tay: cần câu cơm
Đó, em ơi ! nghệ thuật!
Nhắm mắt, quay lưng, chào sự thật."

Rồi đôi ta nhìn nhau,
Không có ai đánh mà lòng đau,
Em mời ăn bánh ngọt,
Nhắc củ khoai sùng mình lượm mót.
Đường bánh tươm vàng mơ,
Như nắng chiều xưa khoe màu tơ.
Mới cầm tay, chưa cắn,
Mà sao nó đắng thôi là đắng !

Xin anh một nụ cười

- Cười là sao nhỉ ? Anh quên rồi !
Xin em chút nước mắt

- Mạch lệ em, từ lâu, đã tắt !
Hỏi nhau: „buồn hay vui ?"
Biết đâu ? Ta cùng hỏi cuộc đời. 1

Vần thơ như trái chín muồi, rụng xuống đất dễ dàng và mau lẹ đến đỗi Minh ngạc nhiên mà thấy hôm nay sao mình ít tốn công như thế. Chàng đọc lại lầm thầm và sướng như một con gà mái vừa đẻ trứng muốn cục tác reo mừng đã giải thoát được cái bụng nặng vì cục nợ nó cứ đòi chun ra.

Nỗi sung sướng sáng tạo này chàng luôn luôn cảm nghe mỗi khi làm xong một bài thơ, nhưng chưa bao giờ nó to lớn bằng hôm nay. Cô Hoàng và tửu lâu như không còn nữa trước thế giới vô hình mà trong đó chàng sống mê man.

- Anh không ăn, em ăn hết rồi đừng có la đa nghen.

Minh giựt mình dòm lại thì cái tiềm đựng nước canh hải vị không còn lên hơi nghi ngút như khi nãy nữa, và Hoàng quả đã ăn hết nửa dĩa hải trân.

Chàng thương xót Hoàng quá khi thấy mắt nàng sáng lên vì sung sướng được ăn ngon, khổ sở với cái nĩa và con tôm mà vẫn vui, và thương xót chính mình quá khi nghĩ rằng muốn hưởng được món bouillabaisse này, chàng đã phải dùng cây bút để câu mấy con tôm kia.

„Đó, em ơi, nghệ thuật!". A ha, chàng đã phải đánh đĩ cây bút của chàng, nuông chiều thị hiếu người đọc mới tìm được cái ăn. Bữa cơm chiều nay tốn ít nhứt ba trăm đồng, tức là sáu kỳ tiểu thuyết võ hiệp mà trong đó nhơn vật đánh nhau chí tử không vì một mục đích rõ rệt nào cả.

Bỗng nhiên những vần thơ của một nữ thi sĩ ở ven trời xa vẳng lên khiến chàng càng nghe đau hơn, cái niềm đau số kiếp:

BÁN TÂM HỒN

Đem tâm hồn đi bán,
Nhưng chợ trưa mất rồi.
Khách mua đâu hết cả.
Đành phải mang về thôi

Cô nàng bán nhan sắc
Ta đưa bán tâm hồn
Người khen và chê đắt
Chiều về gieo cô đơn

Phấn son xiêm áo đẹp
Cô nàng chờ khách mua.
Ta gò lưng ghi chép,
Ai hơn mà ai thua ?

Cô nàng đau thể xác
Lo buồn nhan sắc phai,
Ta nhìn đêm ngơ ngác.
Cắn bút tìm đề tài.

Chúng ta đều mệt mỏi,
Khi ngày mai hé màu.
Não nề mà tự hỏi:
"Rồi sẽ đi đến đâu ?"

Người chê cô nàng xấu
Người chê văn ta tồi,
Cô nàng buồn đóng cửa
Ta ném bút đi chơi.

Môi hồng và giấy trắng
Cô nàng cũng như ta !
Chung một niềm cay đắng,
Khinh nhân tình xấu xa.

Có những đêm ta buồn,
Ngồi nhìn màu giấy trắng,
Mực ngập ngừng không tuôn,
Vì tâm hồn hoang vắng.

Xắn từng mảnh tâm hồn
Viết lên cho người đọc
Người mãi theo vàng son
... Sương chiều như ai khóc2

Chàng không còn khinh Hoàng nữa, Hoàng, cô gái mà chàng tuyên bố yêu vì ngông một lúc, nói yêu mà thâm tâm vẫn coi rẻ nàng.

- Hoàng ơi, anh đã yêu Hoàng, thật tình đó Hoàng à !

Hoàng ngước lên cười:

- Viết thơ cho mèo hay sao mà say sưa dữ vậy ? Anh có ăn hay không nè ? Cứ nói nhảm !

- Ăn thì ăn ! À Hoàng nè, anh quên hỏi thử xem em ở xóm nào ?

- Xóm Sáu Lèo.

- A ha, hay quá ! Rõ ràng là:

Xóm Sáu Lèo, thục nữ quyết ra tay.

- Nãy giờ em ra tay mạnh, nên tôm cua gì cũng gần hết sạch.

- Em mướn nhà riêng hay ở trọ ?

- Em mướn một cái chõng hai trăm rưỡi một tháng, kê ở buồng trong. Quần áo, em bỏ tiệm giặt ủi, còn hễ mỗi lần tắm là trả một đồng rưỡi tiền nước.

- Và muốn đỡ tốn nhiều lần một đồng rưỡi, nên mấy tuần lễ em mới tắm một lần phải khỏng ?

- Tầm bậy ! Muốn cho đáng đồng tiền, mỗi lần tắm, em xối nước thả cửa, xối gần hết hai thùng nước của họ em mới nghe cho.

° ° °

>Rõ ràng là họ ghiền lẫn nhau. Minh đang buồn hiu, thấy Bắc Hãi lơn tơn bước vào quán thì mắt chàng sáng lên.

Trạng từ lơn tơn chỉ đúng ngay bon tướng đi của anh chàng dễ mến ấy. Anh ta bước những bước thong thả mà vụng về, không ung dung như người dạo mát mà ngơ ngác như kẻ chẳng biết phải đi đâu.

Bắc Hải còn trẻ nhưng gương mặt già xọm và anh trông càng đạo mạo hơn với đôì kính trắng trên sóng mũi và chiếc bíp dài giữa đôi môi.

Tay cầm tờ "Mưu Sinh" xếp tám, tờ báo mà anh cộng tác, Bắc Hải mới để chơn lên thềm đã hỏi:

- Cụ Các đã đến chưa ?

- Đã đến, Minh đáp, nhưng cụ bỗng nhớ ra là nhà có người ốm nên vội vàng đi ngay, hẹn sẽ trở lại.

- Á, Minh nè, ủa Dương Châu nè, cái bài thơ mầy đưa tao xem hôm trước đó, bài "Khoai ngọt bánh đắng" đó, tụi nó bàn tán với nhau dữ lắm đa nghe.

- Ủa, có đăng báo rồi sao ? Báo nào đó ?

Minh cố che giấu nỗi vui mừng nó cứ chực nhảy vọt ra trên người, trên mặt anh. Có ai tinh ý thì thấy anh run lên.

- Tạp chí "Tinh Anh". Hình như là thằng Thanh Vân can thiệp giùm mầy. Nó nói mầy ngu lắm, có thơ hay mà gởi đăng báo hằng ngày của nó là tờ báo không cần thơ thì làm sao mà nổi danh được, nên nó làm tài khôn đi năn nỉ tạp chí "Tinh Anh" đăng giùm mầy đó. Vụ này làm tao khổ lắm.

- Sao lại khổ ? Mầy cà nanh à ?

- Tao có phải thi sĩ đâu mà đi ganh với mầy. Tao khổ vì dưới bài thơ mầy lại đề "Viết tại quán Tai heo một chiều thu", tụi nó nói giọng thơ chơn thật, chắc là quán có thật, nên đổ xô nhau đi tìm quán của ta.

Suýt một chút nữa là tao giận mầy, nhưng đọc kỹ thì thấy thơ quả hay, nên tha cho mầy đó.

Bắc Hải là ký giả bất đắc dĩ và nhà khảo cổ miễn cưỡng nên anh ta còn luyến tiếc văn thơ; khiếu thưởng thức của anh ta rất vững nên anh khen bài thơ ấy bằng một giọng đầy phấn khởi.

Minh, tức Dương Châu hỏi:

- Chính mầy đã ao ước quán Tai heo của chúng ta biến thành quán văn nghệ sĩ, sao bây giờ mầy lại sợ lũ nó kéo đến ?

- Tao ích kỷ, cứ muốn quán này là giang sơn riêng của tao.

- Nếu vậy thì quán sẽ không có được không khí mà mầy ghiền.

- Chớ lại không có cụ Các, không có mầy à ?

Bắc Hải còn nói gì nữa đó không rõ, nhưng Dương Châu không nghe. Chàng đang hưởng cái sung sướng riêng của chàng, phấn khởi đến ứa lệ. Đây là bài thơ đầu tiên của chàng được đăng vào một tờ báo văn nghệ, và hơn thế được văn giới chú ý đến. Có thể nói bài thơ ấy là đứa con đầu lòng, những đứa khác được đăng vào báo hằng ngày với mục đích trám lỗ, toàn là con đẻ non (vì háo danh nên chàng sảo thai) thì tính như là hữu sinh vô dưỡng, không đáng kể.

Đêm nay chàng sẽ không ngủ được như đã uống nhiều cà phê. Từ lâu rồi, chàng có rất nhiều việc trong lòng muốn nói bằng thơ, nhưng cứ như đứa bé, bập bẹ mãi mà không thốt được nên lời. Nay bỗng dưng vụt thình lình thằng bé nói lên được một câu dài và cha mẹ, cô bác, anh chị chung quanh đều rộ lên cười để khen ngợi thì thằng bé sướng biết bao nhiêu.

Nó cũng cười, nhưng nó sẽ chui vào xó nào đó để mà khóc ra những giọt nước mắt hài lòng. Tối nay chàng sẽ chui vào xó lòng chàng để mà thao thức và rưng rưng lệ hạnh phúc. Không, tối nay chàng sẽ yêu Hoàng, yêu nàng tiên đã khai quang điểm nhãn cho anh chàng câm, mù, bằng chiếc đũa phép tài tình, giúp hắn cụ thể hóa được trong giây phút những ý, tình, ủ từ lâu trong tiềm thức.

Tình yêu như một luồng điện đã làm cho cả bộ máy sáng tạo bí mật ẩn tận đáy lòng, đáy trí của văn nghệ sĩ hoạt động ráo riết lên. Nếu chàng không yêu, rồi thì cũng làm thơ hay được, nhờ một sức va chạm tâm lý nào đó, như một tang khó chẳng hạn. Nhưng tình yêu trong đời người đến sớm hơn là tang ma, nên luồng điện ái tình vẫn lợi hơn.

Đêm nay thằng bé sẽ không ngủ, và giờ đây nó đang núp trong xó kẹt lòng nó để nghĩ miên man về sự nghiệp văn nghệ của nó. Nó giựt mình khi nghe Bắc Hải nói gì mà có tiếng "thơ" trong câu nói của anh ta.

- Hả mầy nói sao ?

- Tao muốn gặp cụ Các để hỏi xem ai dịch bài thơ Đường "Phong kiều dạ bạc" hay nhứt.

- Ối, lão ấy là một nhà khảo cổ gàn, sành sao được thơ mà hỏi cho mất công. Năn nỉ tao, tao nói cho mà nghe.

- Thôi đi tổ sư. Chó dắt làm được một bài thơ hay, đã song tàn rồi.

- Thật chớ. Bài "Phong kiều dạ bạc" đến nay có tất cả bốn người dịch. Hai câu đầu ai dịch cũng khá cả, chỉ có hai câu sau mới là đáng kể.

- Tao muốn nghe rõ thêm.

- Ngô Tất Tố đã dịch là:

Chùa đâu trên núi Cô Tô.

Tiếng chuông đưa đến bến đò canh khuya.

Trần Trọng Kim lại dịch:

Con thuyền đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn san.

Một người bạn của nhà khảo cứu Nguyỗn Hiến Lê dịch:

Thuyền đậu thành Tô chùa núi lạnh

Nửa đêm chuông nện tiếng boong boong.

Nhưng bản dịch hay nhứt là bản dịch xưa nhứt mà dịch giả là ông Hàm Ninh:

Thuyền ai đậu bến Cô Tô

Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn san.

- Thế thì Trần Trọng Kim đã cóp Hàm Ninh rồi gì ?

- Chưa chắc, hai linh hồn to gặp nhau mà !

Họ nói vừa tới đó thì giáo sư Lê Thiệu Các xách gậy đi đến. Ông Các hôm nay mặc y phục cổ điển của ông, tức là đồ ka-ki vàng, cà vạt vàng, áo bơ-luôi-dong tay dài, đi ghệt da. Ông vẫn sói trán, đẹp người và mặt đỏ gay như thường lệ.

Thấy mặt ông là cô Bạch Tuyết, nãy giờ đang ngáp vặt, vội đi rót ngay một ly rượu thuốc. Ông Các không thèm chào mấy thằng nhãi ranh nầy, mà chúng nó cũng chẳng chào ông. Vừa ngồi xống ông than to, giọng pha trò:

- Ứ hự ! Vợ với con !

Bỗng tiếng đàn Tây ban cầm của ai gảy từ xóm Chuồng bò đằng sau vẳng lại. Ông Các nâng ly rượu đen như cà phê đậm lên rồi nhè nhẹ ngâm:

Bồ đào mỹ tưởu dạ quang bôi;

Dục ẩm, tỳ bà mã thượng thôi.

- Các anh có biết Bồ đào là gì không ? Ông hỏi.

- Là gì thưa cụ ? Dương Châu vốn dốt chữ nho nên ngớ ngẩn hỏi đáp.

- Anh Bắc Hải, có biết hay không ?

- Bồ đào là trái nho, ai lại không biết.

- Giỏi ! Vậy bồ đào mỹ tửu là gì ?

- Nam-kỳ-cục quốc kêu là rượu chát, Bắc-kỳ-quốc gọi là rượu van, các chú kêu là liệu-chát-lớ.

Cả bọn cùng cười rộ lên, cô Bạch Tuyết đang ngủ gục cũng ngẩng lên rồi cười hùn một cách đần độn.

Cụ Các chắc có việc buồn trong gia đạo hay sao không biết mà hay "mượn tửu bôi giải phá thành sầu" lắm. Cụ ngủ trưa nơi bàn rất thường, làm như là kẻ không nhà.

Bắc Hải đã cho Dương Châu biết rằng sở dĩ anh đến đây là vì cụ ta, vì anh cần cụ ta lắm để học hỏi thêm trong việc khảo cổ. Rồi anh ta đâm thích chốn nầy.

Đại lộ Lý Thái Tổ là con phố của đồng bào đi cư, hiệu buôn nào cũng mang môn bài rất đẹp, Nào là Vĩnh Thịnh, Xương Ký, Bích Loan v.v..., duy chỉ cái tên ba gai "Tai heo" là vang lên một cách thô lỗ, cái thô lỗ cục mịch mà thât thà rất dễ ưa nên anh mến quán vì lẽ thứ nhì đó.

- Chợt mầy đến, Bắc Hải thường nhắc, tuy mầy chưa có tên tuổi gì cả, nhưng tao thoáng thấy bản lĩnh của mầy, nên xem ra đồng đạo và lại càng mê quán hơn vì mầy.

Dương Châu thì mê quán vì thích hai người kỳ dị kia, và vì tất cả mọi yếu tố khác. Cả ba đều không ngồi Kim Sơn hay Ba Gốt như nhiều nhóm văn nghệ sĩ khác vì hai nơi đó không hề gợi hứng họ lần nào cả. Và ở những nơi ấy, dầu muốn dầu không, họ phải theo khuôn sáo, không bao giờ dám gác chơn lên bàn như ở đây.

Không phải là họ không biết thưởng thức, không thích nơi sang trọng sạch sẽ. Nhưng nơi sang trọng phải là của riêng họ, họ được hoàn toàn tự do bừa bãi kia, họ mới ưng. Các giới khác có chen vào nơi sang trọng của họ thì phải chịu đựng sự vô trật tự, sự bung thùa của họ, chớ họ không ưa phải chịu nền nếp của các giới khác.

Hai Lọt vừa tròng áo thun qua đầu, vừa bước ra ngoài. Đi đến quầy thâu tiền, hắn liếc nhìn bộ ba một cái rồi mỉm cười hơi cảm tình với họ. Giấc trưa, nếu không có ba người khách điên điên này thì quán vắng và buồn bỏ xừ.

Thấy tờ "Mưu Sinh" của Bắc Hải trên mặt bàn, lão ta hỏi:

- Thầy Hai à, thông cáo dán ngoài kia như vậy, còn nhựt trình thì nói sao ?

- Nhựt trình chỉ đăng nguyên văn thông cáo mà không có lời bàn. Để tôi đọc chú nghe:

"Kể từ 25 tháng... năm... sau ngày khai thị chợ Trần Quốc Toản, chợ lộ thiên Ngả Bảy, sẽ được dẹp đi.

Quyền ưu tiên về sạp nơi chợ mới sẽ dành cho những chủ sạp tại chợ lộ thiên Ngả Bảy, miễn là phải ghi tên xin trước bắt đầu từ ngày nay..."

- Chợ lộ thiên là chợ gì vậy à thầy Hai ?

- Nói nôm na là chợ chồm hổm.

- Nguy cho tôi lắm. Chắc phải mất khách !

Nhìn mặt bí xị của Hai Lọt và đầu tóc cứt cu của lão ta, Bắc Hải bật cười. Anh ta vui lắm, và hai bạn anh cũng thế, khi hay tin chợ sắp dẹp. Chợ dẹp thì quán này sẽ sạch hơn vì ít ruồi và ít khách. Anh làm bộ nói một lời an ủi:

- Quán của chú chỉ đông khách nhậu về đêm, có dính líu gì đến chợ đâu mà chú lo ?

- Thầy Hai không rõ, chớ ở trển có cất mấy cái ba ngoài trời, khách sẽ đi lên trển hết vì quán ngoài trời mát hơn.

- Nhưng anh em tôi vẫn ở lại với chú.

- Cám ơn quý ông quý thầy, mà chỉ có ba người, làm sao quý ông quý thầy nuôi nổi một cái quán.

° ° °

Bắc Hải và Dương Châu đứng trước một hiệu kem đang cho xe chở máy móc đi đâu không rõ, nhìn những chiếc sạp gỗ ngổn ngang trên vỉa hè, bùi ngùi nghĩ đến những cảnh hoang tàn sau một trận chiến hay sau một thiên tai. Đằng kia, vài hiệu chạp phô cũng lo dọn đi nơi khác.

- Buồn quá mầy ơi !

- Ừ, buồn quá ! Tụi mình mong dời chợ, để làm chúa ở đây. Giờ chợ dời xong, lại buồn.

- Sao mấy người buôn bán họ không mang sạp đi cả ?

- Sạp này cỏ lẽ cũ quá vì dạn gió dày sương ngoài trời lâu ngày nên đô thành không cho đưa vào chợ mới cất cũng nên. Hoặc nó không đúng thước tấc ấn định cho mỗi người trên chợ Trần Quốc Toản, hay gì gì ai biết đâu.

- Còn bao nhiêu tiệm kia, sao không dọn đi ?

- Có những công cuộc làm ăn, tự nương với nhau mà sống được. Thí dụ tiệm hớt tóc. Họ sẽ hớt cho người xóm này, hiệu may sẽ may áo cho thợ hớt tóc, và tiệm thuốc Bắc sẽ bán thuốc cho thợ may.

- Tao chỉ lo quán Tai heo phải dẹp thôi.

- Tao cũng lo như vậy, nên tao cho tụi nó biết địa điểm quán riêng của tụi mình.

- Chết ! Sao mầy lại điên vậy ?

- Cũng tại mầy. Mầy ghi dưới bài thơ là "Viết tại quán Tai heo", nên tụi nó tò mò. Tụi nó lại càng tò mò hơn khi thấy trong truyện võ hiệp "Sơn đông kiếm hận" câu chuyện xảy ra tại quán Tai heo.

Tên quán đã bị mầy cho vào văn chương rồi, thì sớm muộn gì lũ nó cũng tìm ra. Chi bằng ta cho biết ngay, chúng nó hiếu kỳ mò tới thì quán sẽ được tiêm thuốc bồi dưỡng.

Đèn đường đã bực sáng. Hai người bạn văn lần bước xuống cái quán mà Bắc Hải thoáng thấy một tương lai rực rỡ.

- Rất tiếc là quán cất bằng ván, và cất ngay trên đầu một con phố mà đô thành đã phóng.

- Sao lại tiếc ? Dương Châu ngơ ngác hỏi.

- Tao cứ sợ rồi mầy làm cho quán vang danh trong hiện tại và trong lịch sử. Nếu trường hợp may mắn ấy xảy ra thì quán đang được để đời và về sau, người ta phải gắn trước cửa một tấm bảng đồng để kỷ niệm một thi tài như bên Âu châu đã làm. Nhưng quán sẽ còn đâu !

- Mầy làm tao hừng chí đến muốn điên lên.

- Tao lại e mộng không thành, mộng biến cái quán này ra một quán văn nghệ. Điều kiện đã chín muồi rồi, nếu không thành thì uổng lắm.

- Sao lại chín muồi ?

- Mầy còn lạ gì tâm trạng của lũ văn nghệ sĩ, chúng nó ít chịu theo ai, cho dẫu là theo trong những điểm lặt vặt. Mầy cứ thử cất một cái quán thật đẹp đi rồi hô "Văn nghệ sĩ ơi ! Quán này dành riêng cho các anh đó, vào đây mà chơi cho vui !". Chỉ một câu ấy thôi đủ làm cho lũ nó không đến rồi.

- Chúng nó không đến thì mặc chúng nó chớ.

- Nhưng lại cần cho chúng nó qui tựu về một nơi để gây một không khí văn nghệ; chỉ trong một khí hậu thích hợp, chúng nó mới nảy ý và sáng tác được dồi dào.

Ở đây chúng nó sẽ tự nhiên ùn ùn kéo đến, và có lẽ sẽ ở lại vì thích nhau, và ở lại mãi vì thấy đó là nơi chúng nó tạo ra. Nhưng quán lại quá tồi tàn. Một số lớn lũ chúng nó thích sang trọng, và nếu có một mớ không chịu ở lại thì không thể nào "Tai heo" này thành quán văn nghệ được.

Họ đã đến trước bồn binh và rẽ qua tay trái.

Khách trong quán chỉ lưa thưa vài ba bàn và quán đêm nay, đêm đầu tiên, vắng bóng năm cô chiêu đãi viên danh tiếng về sự xấu xí.

Hai Lọt chào họ bằng cái lắc đầu và câu:

- Tụi nó đã đi hết rồi ! Y như là bồ câu.

Nhưng Hoàng thì còn. Nàng đến trễ, không đủ thì giờ làm quen để xin chỗ làm trên kia như mấy đồng nghiệp cô. Nàng lại ở lại vì Dương Châu mà nàng biết đóng đô nơi đây cho tới ngày cuối cùng của thế gian.

Bắc Hải nhìn cô nhơn tình của Dương Châu mà cười cười. Thật là khó hiểu ý nghĩa cái cười của anh ta. Anh ta không thích gái, lại không hề có ý kiến về sắc đẹp phụ nữ. Dương Châu băn khoăn tự hỏi không biết anh ta chê hay khen con bé, phục hay khinh chàng.

Hoàng đang ngồi bàn và một nhóm khách, thấy bọn Hải, Minh bước vào thì vội vàng đứng lên để đón bạn, Dương Châu đứng lặng rất lâu không chú ý đến sự đon đả của cô tình nhơn của anh ta, cũng chẳng chịu ngồi xuống.

Mấy người khách bị bỏ rơi, dửng dưng như không, không có vẻ gì mích lòng trước thái độ của Hoàng cả. Thế nghĩa là Hoàng bị họ xem thường. Sự háo thắng của con trai bị tổn thương sâu quá khiến chàng không khỏi ngẩn ngơ tự hỏi người đời đã đến dễ ngươi chàng một cách gián tiếp như thế sao ?

Không thành công trong cuộc tranh sống, chàng đã bị họ coi rẻ không biết bao nhiêu lần, trong không còn nhớ bao nhiêu dịp nữa. Thế mà nay họ còn đeo đuổi theo để mà khinh miệt chàng bằng thái độ thờ ơ về một vấn đề tình cảm riêng của chàng à ?

Phản ứng tự nhiên của con người nhiều tự ái ấy là càng tỏ ra quý mến cô gái má hóp ấy hơn lên, để cho thiên hạ phải kinh ngạc, nghĩ rằng chàng đã si một cách ngu ngốc còn hơn là để họ xem mối tình của chàng như là không có.

Dương Châu níu tay bạn, cả hai ngồi xuống một lượt và chàng hỏi Hoàng, trong khi Bắc Hải cứ cười cười:

- Đêm hôm qua anh không đến, có nhớ anh hay không ?

Hoàng bẽn lẽn thật tình, nhìn ra đường mà cười. Cô gái giang hồ ấy đến lúc phấn hương tàn tạ mới nghe mình được yêu, nên chi sự sung sướng tràn ngập lòng cô, khiến cô bỗng nhiên đâm mắc cỡ như hồi còn con gái được trai tán tỉnh lần đầu.

Nàng cúi xuống cắn móng tay và đáp nho nhỏ một câu ngây ngô của con gái khờ.

- Nói đến mà không đến. Phải dè như vậy, người ta xin thôi, theo mấy chị kia cho rồi.

Dương Châu nói to, cốt cho cả quán đều nghe:

- Anh cũng nhớ em muốn chết, nhưng bận cho tới 11 giờ, rồi thì mệt lắm nên về ngủ luôn. Anh muốn lại nhà em, nhưng lại sợ phá giấc ngủ của em. Em nhỏ ơi ! Hai chai băm ba và ba cái ly.

Chiêu đãi viên của quán Tai Heo đêm nay là hai thằng bé độ mười lăm thôi. Chắc Hai Lọt tiên đoán rằng không tranh đua kịp với chợ Trần Quốc Toản, dầu cho ông có kêu con gái khác thay thế, nên đầu hàng để giảm phí.

Thấy hạnh phúc tràn ngập cả mặt Hoàng, Dương Châu nghe thương cô gái lưu lạc nầy quá. Tình yêu do sắc đẹp gợi ra mà cũng phần nào do sự bằng lòng chính mình. Tạo hạnh phúc cho một kẻ đã hết mong được sung sướng, Dương Châu sung sướng lắm, cái sung sướng nơi người cho có lẽ còn to hơn nơi người được. Chàng nghe tình yêu của chàng rõ rệt ra.

Chàng không đùa nữa, không nói liều trong một phút cô đơn giữa một đêm mưa lạnh nữa, mà yêu thật tình. Những khía đẹp năm cũ còn mơ hồ ẩn hiện trên mặt nàng, trên người nàng, bỗng đậm nét lên. Không, người khác không biết được một cô Hoàng đã có một thời hương sắc chiếm lòng, và ngay cả bây giờ, đôi má hóp ấy, cặp mắt quầng sâu ấy phải chăng là những nét đẹp ghê rợn mà người Âu Mỹ gọi là vamp's ?

Gặp lại một mỹ nhơn xưa, nay đã lạt phấn phai hương, người thường chỉ thất vọng rồi thờ ơ đi qua. Kẻ khác thường nầy cố tìm trong bóng mờ những nếp vàng son cũ, và cố nhiên tìm thấy, để mà mê như có người đã mê những ngôi chùa cổ, những đền đài cung điện hoang tàn để say cái quá khứ vĩ đại của những thứ ấy.

Dương Châu nhớ năm đó chàng đã nuôi trong nhà một nhạc công đàn tranh đã hết hoa tay. Những ngày tưng bừng của nhạc công ấy, nay ông nhà giàu này mời, mai công tử sang nọ đón, những ngày ấy quen nhau, nhưng nhạc công xem chàng như không có, và không có cả những ông nhà giàu kia. Hắn bận sống với ca nhi, với những bạn nhậu, bạn hút.

Khi mà ngón đờn của hắn hết huyền ảo nữa, cả thế gian đón đưa và lắng nghe tiếng đờn của một nhạc công mới lên khác, thì hắn trở về với lòng hắn, quay nhìn dĩ vãng mà ngậm ngùi rồi còn thừa lại bao nhiêu tình, hắn dồn cả qua con người điên dại có công đưa tay cho hắn vịn lúc hắn bước xuống thang xã hội.

Lượm hoa rơi ! Không, kẻ lượm hoa rơi không ngốc đâu, mà cũng không tốt bụng đâu ! Y ích kỷ lắm và tạo hạnh phúc cho chính y bằng cử chỉ mà ai cũng ngỡ là đầy lòng thương ấy. Chỉ có như vậy là y mới được yêu nhiều, chiếm trọn môt mình một chỗ ngồi sang trọng trong tim của hạng người cụt mất đường đi.

Dương Châu cần được yêu, chớ không phải cần yêu, chàng khám phá lòng chàng và nhận thấy như vậy. Thì trên đời này còn ai yêu chàng hơn là cô gái mà trán đã bắt đầu nhăn ?

Hoàng chỉ mới hăm lăm thôi, nhưng sinh nở và thiếu thốn đã làm cho nàng tiều tụy quá. Đêm mới gặp nhau ở đây, chàng có nghe Hoàng ngâm hai câu thơ, không biết là khách nào đã dạy nàng, hai câu thơ ấy đã khiến chàng ngậm ngùi thương phận mình, một kẻ chiến bại về đủ mọi mặt:

Lòng chát chua, không ai mua cho mình bán,

Ngồi mãi giữa chợ đời, chẳng thấy dạng người mua.

Bắc Hải cứ nhìn hai người mà cười, không làm sao hiểu được mối tình của Dương Châu. Anh ta là một người thực tế, không sao triệt thấu được những bí ẩn trong những xó hiểm hóc của lòng một người như Dương Châu.

Gõ cối thuốc vào cạnh bàn để trút tàn thuốc, anh ta hỏi:

- Chị Hoàng chắc thích uống nước cam hơn ?

Dương Châu đáp hớt:

- Thôi đi tía, tôi mượn thêm một cái ly để nó uống bia với mình. Cho đỡ tốn. Nước cam hay bia, hay gì đi nữa, nó cũng chẳng thèm nếm tới nhưng không lẽ để nó ngồi mà không có gì trước mặt, khó coi.

Nhà thi sĩ ngông đã tiêu pha gần sạch ghim bạc nhà báo đã ứng cho chàng ba hôm trước đây, nên đâm lo và bắt đầu thắt chặt hồ bao lại. Chàng dự liệu rằng chỉ ba hôm nữa là phải trở lại ngay truyền thống nước đá chanh như trước.

Hoàng hỏi bạn, nhưng lại nhìn nhà báo đang ngậm cái ống cối trống không:

- Sao anh không làm nhựt trình như anh Bắc Hải đây ?

Ấy, họ đã giao kết với nhau là Hoàng không kêu Bắc Hải bằng "thầy Hai nhựt chình" nữa, và không kêu chàng bằng Minh nữa. Cái tên Dương Châu phải được phổ biến ví nỏ sắp nổi danh.

- Ai mà ngu như Bắc Hải. Làm thi sĩ có phải oai hơn không.

- Nhưng em không biết thi sĩ là cái nghề gì.

- Em không cần biết. Chỉ nên biết rằng thằng Bắc Hải chết ba bữa là thiên hạ quên nó mất, chỉ trừ vợ con nó. Còn anh chết ba trăm năm thì...

- ... thì ra tro. Nhưng em không cần biết về cái chết của anh. Em chỉ cần lúc anh sống thôi. Ai chết em cũng quên tuốt, cho đến má em mà em cũng ít dám nhớ. Nhớ rồi khóc, thêm buồn. Quên là hơn.

- Thì anh đã bảo rằng thi sĩ lúc sống oai hơn "nhựt trình" kia mà. Em không tin, để rồi xem. Tụi nó sẽ bu lại đây vì anh chớ không phải vì bảng mặt khỉ già của thằng này đâu.

- Phải rồi, tụi nó sẽ tới để coi bồ như người ta coi nai trong sở Thú. Mại vô nè ! Vào cửa năm cắc nè !

- Coi nai mà coi khỉ già nữa chớ. Kìa, mà thật mầy à, ai như thằng Mạnh Hùng.

- Nó chớ ai.

Một thanh niên đang ngơ ngác đứng tại góc đường bên kia, đưa mắt tìm quanh. Bỗng hắn thấy cái quán, mừng rỡ hết sức rồi lùi lại trên đường Phan Thanh Giản để tìm lằn trắng đặng băng qua bên này.

Mạnh Hùng là tay phóng viên trẻ tuổi nhứt, xông xáo nhứt, và viết liều nhứt trong làng báo. Hắn có rất nhiều kẻ thù và đã nhiều lần bị đánh trộm. Có bần bị người ta xách súng lục đứng rình ngay cửa buồng hắn tại buyn-đin hắn ở, làm cho hắn phải bỏ buồng đến trót tháng. Hắn đánh hơi được cái gì là tức tốc mở ngay chiến dịch săn tin. Người đầu tiên mò đến đây phải là hắn chớ không ai khác được.

Mạnh Hùng mới bước vào quán, chưa kịp nói gì. Dương Châu đã hỏi:

- Chỗ người ta uống nượu, nhà ngươi đến đây làm gì ?

- Xưa quá bố ạ, cái câu bố vừa hỏi đó.

- Vậy hả ? Thế mà mỗ chỉ mới biết đây thôi.

- Thi sĩ thì luôn luôn không hay biết gì cả. À, té ra cái quán danh tiếng đó là đây. Nhưng sao không có gì lạ hết vậy nè ?

- Nếu nhà ngươi muốn viết phóng sự giựt gân thì quả không có gì cho nhà ngươi nói hết. Cái không khí thầm kín ở đây, con mắt phóng viên không sao thấy nổi vì các cha dòm tốc hành như đi đánh cướp. Phải sống nơi đây lâu ngày mới ngửi được cái mùi kỳ lạ mà chỗ khác không bao giờ có...

- Nhức đầu lắm, đừng có làm thơ nữa. Phải nàng đó hay không ?

Câu hỏi ấy Mạnh Hùng nói bằng tiếng Pháp.

- Phải. Dương Châu cũng đáp lại bằng ngoại ngữ.

- Cũng chẳng đẹp bao nhiêu.

- Mầy muốn nói rằng nó xấu và gìà, nhưng lại không có gan nói ra. Vâng, nếu không có cảnh tàn tạ này, tao đã chẳng có bài thơ kia. A, uống gì chớ ?

- Ăn tai heo thử xem sao, coi nó có xứng đáng cho bố đem nó vào lịch sử hay không.

Mạnh Hùng, trong khi ngồi chờ thức ăn, đưa ra một nhận xét nhà nghề:

- Chỉ có năm con đường đổ ra đây, sao họ lại kêu là Ngã Bảy ? Từ thuở giờ mỗ không để ý, nay nhờ tìm quán hồi nãy, đếm thử mới hay.

Hai Lọt đáp với từ đằng xa:

- Còn một con đường nữa, đường Bà Hạt, sắp xong. Con đường thứ bảy sẽ trổ ra giữa cái quán này.

- Nó đâm từ sau lưng đâm tới à ?

- Dạ.

- Không có tinh thần võ hiệp chút nào hết và như vậy thì tai heo bị cắt mất còn gì ?

- Chừng đó sẽ hay.

Mạnh Hùng nãy giờ cứ xét nét Hoàng để tìm hiểu vì đâu mà Dương Châu yêu nàng được đến đỗi sáng tác nên một bài thơ hay. Không phát hiện ra được nét quuyến rũ nào cả đối với anh ta, anh ta xoay kế, phỏng vấn khéo:

- Tại làm sao mà khoai sùng lại ngọt chị ? Hoàng ngơ ngác hỏi lại:

- Khoai sùng mà có ngọt bao giờ đâu ?.

- Vậy mà ảnh khoe là ảnh và chị chia nhau củ khoai sùng: Nó ngọt thôi là ngọt.

Mạnh Hùng ám chỉ đến bài thơ danh tiếng mà Hoàng không hề biết, mặc dầu bài thơ ấy đã sáng tác trước mặt nàng trong một đêm đáng ghi nhớ nhứt trong đời nàng.

Dương Châu ngăn bạn:

- Đừng thèm trả lời nó nữa em. Thằng tiểu quỷ này nguy hiểm lắm, nó toan gạt gẫm em gì đó. Em tróc chó một cái cho nó thất kinh chơi.

Hoàng cười rồi tróc lên một tiếng vang động cả quán, khiến khách bàn khác và cả lão Hai Lọt quạu quọ đều cười vang nhà...

- Bis.

Ở bàn bên kia, khách yêu cầu nàng làm lại, như trong trà thất, thính giả nài nỉ ca sĩ hát bài ca mà họ thích.

Hoàng lại tróc và cả quán lại cười.

- Kể ra thì cũng đặc biệt thật đó.

Mạnh Hùng phê theo quan điểm con nhà báo, phải thấy cái gì cụ thể mới cho là đáng chú ý.

Anh không sao chịu nhận rằng một sáng tác phẩm không cần mang những sự kiện đã xảy ra thật sự mà chỉ cốt có đủ những yếu tố thật, rải rác khắp nơi, khắp thời, gom lại để tạo một thế giới nào đó. Chắc trong bụng anh nói: "Bài thơ cảm động quá, đọc cứ nghe như thật, không dè thằng Dương Châu nó láo khoét".

Mạnh Hùng làm xong dĩa tai heo và chai băm ba thì đứng lên ra về. Anh không lưu luyến cái nơi mà sự vui nhộn vắng bóng một cách tuyệt vọng, mà nét thơ anh tìm mãi cũng chẳng thấy đâu.

Bắc Hải nói, sau khi đồng nghiệp của anh ra khỏi quán:

- Nó thất vọng lắm.

- Chắc chắn là không bao giờ nó trở lại đây cả.

- Thôi tôi đi. Tối nay phải vô Gia định tìm ông Vương Hồng để hỏi thêm vài chi tiết về bộ dĩa Mai Hạc mới được.

- Mầy đi à ? Còn tao ở lại đây với ai ? Thôi tao cũng đi luôn. Nhưng tía phải làm khổ chủ hôm nay mới được.

- Để đó ông Hai biên vào sổ tao.

- Đi em !

Hoàng cùng đứng lên một lượt với hai người bạn trai. Nàng đã thỏa thuận với Hai Lọt là nàng muốn đi lúc nào cũng được, do sự đòi hỏi rất là thình lình của Dương Châu. Để bù vào đó, Hai Lọt muốn trả lương bao nhiêu cũng xong.

Cả hai thả bộ vô xóm xa xôi của Hoàng, là xóm Sáu Lèo. Dương Châu bảo rằng đi như vậy nên thơ hơn nhưng thật ra cốt là để đỡ tốn tiền tắc-xi.

Sự tình cờ là cái may mắn cho tác giả truyện Sơn Đông Kiếm Hận. Chàng cho nhơn vật nữ của truyện ở Tại xóm Sáu Lèo, nhưng không biết tí gì về xóm ấy hết. Nay gặp bạn, thỉnh thoảng về đó với nàng, chàng có dịp thuộc lòng các ngõ hẻm hiểm hóc ở đó để mà cho các tay kiếm khách của chàng có đường rút lui, một khi thua trận.

Họ xuôi đại lộ Lý Thái Tổ cho đến công trường Cộng Hòa thì rẻ vào con đường chạy dọc theo đường hỏa xa. Dương Châu nói:

- Hoàng có muốn về quê hay không, anh đưa đi.

Hoàng cảm động đến rưng rưng nước mắt, cầm tay bạn siết chặt lại mà rằng:

- Cám ơn anh không biết bao nhiêu. Nhưng dưới ấy còn ai đâu. trời ơi, phải chi năm kia mà được như vầy, em đâu có "xuống" đến mức này. Năm đó anh có về mà về giả, em khỏi mang tiếng, nhưng em thật không nghe sung sướng chút nào. Hồi đó anh có yêu em đâu. Mà sao lại vậy anh, hồi có em trẻ đẹp, sao anh đợi bây giờ...

- Em đừng hỏi vô ích, em không thế nào hiểu được đâu.

- Em tiếc quá.

- Không nên nghĩ thối lui. Phải tận hưởng cái mà em đang có bây giờ, kẻo rồi sau sẽ phải tiếc ngày nay, như ngày nay em đã tiếc ngày ấy.

Khi qua khỏi rạp chiếu bóng Thanh Bình, tới một ngã ba đường kia, Dương Châu ngước lên thấy bảng tên đường thì kinh ngạc hết sức. Đường tên là đường Hoàn Lương. Hoàng đưa chàng vào vào con đường hẹp chỉ vừa đủ hai chiếc xe tránh nhau ấy. Chàng buồn cười quá, sao Hoàng lại chọn con đường tên ấy mà ở. Tình cờ chăng ?

Họ rẻ vào một ngõ hẻm tối om và Dương Châu phải quẹt đến hơn một chục cây diêm mới đủ soi sáng để vào tới nhà trọ của Hoàng. Giày của cả hai đều nặng những bùn ướt trên ngõ mà đất kêu ọp ẹp mỗi lần họ bước tới một bước.

Hoàng thuê một xó vừa đủ đặt một chiếc chõng tre; buồng ngăn bằng mành trúc và hai bên đó, gia đình nào khác ở không rõ, mà chắc giang sơn họ cũng chỉ gồm một chiếc chõng tre thôi.

Mặc dầu đang ở xóm Chuồng bò mà tiện nghi không hơn ở đây bao nhiêu, Dương Châu cũng tế nhận được cái mùi kỳ lạ ở đây, cái mùi âm ẩm, mằn mặn và nằng nặng của ao vũng lấp bằng rác và phủ một thứ đất thưa mặt; bao nhiêu hơi do sự biến chất của mọi dơ bẩn ấy đều xông lên.

Biết rằng Hoàng gởi con cho vú nuôi nơi khác, Dương Châu không hỏi đến thằng bé. Chàng để nguyên y phục mà nằm dài lên chõng vì đi bộ mỏi rụng cả hai chơn.

Hoàng thay áo xong cũng lại chõng với bạn, nhưng trong bóng tối, nàng mò kiếm bạn thì đụng phải càm của Dương Châu tua tủa râu. Cười rung rúc, nàng hỏi:

- Dao cạo không bao nhiêu tiền, sao anh không sắm một cái !

- Rầu rỉ râu ria ra rậm rạp. Anh không muốn cạo.

- Sao lạ vậy ?

- Là tại vậy.

- Thích để râu hả ?

- Không, tới kỳ hớt tóc thì thợ nó cạo cho.

- Anh nè, anh tên Ngọc, hay Minh, hay Dương Châu ?

- Em có nói thật tên em hồi nào cho anh nghe đâu mà muốn biết tên anh. Lúc này tụi nó kêu anh là Dương Châu thì em cứ kêu như tụi nó.

- Không, cái tên gì kỳ cục quá, tới hai tiếng, em không ưa.

- Còn em, em tên thật là gì ?

- Em tên là Nguyễn Thị Cà.

Dương Châu bỗng rụng rời. Chắc chắn là Hoàng nói thật. Nếu muốn dối, nàng đã xưng là Lê Thị Liễu hoặc Trần Thị Kim Hoàn, hoặc gì gì đó nữa mà nghe hay như trong tiểu thuyết.

Khi một ả giang hồ mà trao gởi sự bí mật ấy cho ai, thì chắc chắn rằng ả ta đã yêu thật sự rồi. Dương Châu cần yêu và cần được yêu, nhưng đó chỉ là nhu cầu tạm bợ trong giai đoạn này thôi. Chàng không định cột chặt đời chàng với một cô gái buôn hương sắp phải đưa chày kềnh gióng tỉnh giấc vu san.

Nay sự tình như thế này thì biết ngày kia sẽ rắc rối thế nào !

- Anh nè, em định về ở với anh trên ấy cho gần chỗ làm với lại cũng để đỡ tốn hai chỗ trọ.

- Không !

- Sao lại không ?

- Vì anh không muốn như vậy.

- Anh cũng chỉ tính qua đường với em sao ?

Dương Châu không trả lời câu sau đó, vì chàng không muốn nói láo, mà nói thật thì tàn nhẫn quá, Hoàng nó sẽ khóc rùm lên thì lôi thôi. Giờ đây, chàng yêu Hoàng thật sự, yêu nhiều lắm. Nhưng chàng biết chắc rằng sẽ không yêu Hoàng nữa. Cái ngày hết yêu ấy không rõ là ngày nào, xa hay gần, nhưng sẽ phải có ngày đó, không sao khác được.

Hoàng không làm sao tìm lại được sắc đẹp xưa và vứt được phong cách bây giờ. Mấy năm buôn hương đã đánh dấu thật đậm lên người nàng và lên tâm hồn nàng. Chàng lại hay sanh chứng bất thình lình, đang ngắm mây trôi, lại bỏ mây mà nhìn nước chảy, thì dẫu cho Hoàng là gái lành, chưa chắc lòng chàng sẽ đậu lâu được nơi bến ấy.

Trong bóng tối, chàng nghe Hoàng níu lấy chàng, như hoảng hốt sợ mất một người mà nàng vừa chinh phục được.

Động lòng trắc ẩn, chàng ôm lấy Hoàng và hôn bạn thật mạnh và dài:

- Anh thương Hoàng nhiều lắm, không đủ cho Hoàng hay sao ?

Hoàng khóc như em nhỏ mà rằng:

- Em muốn được thương bền.

Đây là một ả giang hồ có tâm hồn trưởng giả, ao ước một cuộc đời yên ổn, được làm vợ, làm mẹ. Hay là nàng thấy đến ngày tàn, phiêu lưu nữa cũng chẳng gặp được gì hay nên định cặm sào ? Dầu sao, cũng tội nghiệp quá !

Để khỏi đau lòng thêm vì tiếng khóc của bạn, chàng nói:

- Thôi, khuya rồi, ngủ đi, rù rì mãi hai bên người ta phiền.

--------------------------------
1 - Bài thơ trên đây, nguyên nhan là „Cuộc đời", ký bút hiệu Minh Phẩm đã đăng vào cuối năm 1959 trong tuần báo Vui Sống do tác giả „Quán tai heo" chủ trương. Chọn đăng bài thơ xong rồi lại được đọc bài thơ của Bắc Hải, người trong truyện, (xem ở đoạn cuối) trong tập lưu bút của một nữ giáo viên ở Định Tường, tác giả được gợi hứng và bắt đầu viết truyện „Quán tai heo".

Nhưng đã mấy lần tác giả đăng báo kêu gọi nhà thơ Minh Phẩm, tác giả của bài „Cuộc đời" hầu xin phép mượn bài thơ của ông để làm nồng cốt cho tiểu thuyết, mà vẫn không thấy ai ra mặt nhận mình là tác giả của bài thơ đã gởi tới nhà báo dưới hình thức lai cảo đó.

Xin thanh minh rằng Minh Phẩm, tác giả của bài thơ, không hề là Minh trong truyện, và xin chịu tội với ông Minh Phẩm đã sửa cái nhan và vài tiếng trong bài thơ, cho hợp vời truyện nầy.

Nhạc sĩ Phạm Duy, người đã phổ nhạc bài thơ ấy, cũng đã sửa chữa rất nhiều, vì lý do âm nhạc chớ không hề vì thơ. Đó là một bắt buộc nghề nghiệp mà nhạc sĩ nào cũng thường phải làm, kể cả các nhạc sĩ Âu Mỹ.

Xin xem lời ca dưới đây ; vì bản kèm nhỏ, e 1ời ghi dưới các nốt khó đọc, cả bạn chơi nhạc sẽ khóng so nồt nhạc với lời thơ được đâu, vì hai lời khác nhau khá xa.

KHOAI NGỌT BÁNH ĐẮNG

Ngày xưa ngày xửa ngày xưa
Chiều mơ chiều nắng đẹp khoe mầu tơ !
Hai đứa mình còn trẻ thơ
Rủ nhau ngồi ngưỡng cửa chơi thẩn thơ.

À à a nhớ nhớ em còn mái tóc (ư) bánh bèo
À à a nhớ má chưa hồng da mét vì em nghèo !
Ðầu anh còn húi trọc, còn húi trọc...
Khét nắng hôi trâu thèm đi học
Thèm đi học !

Em cầm một củ khoai
Ghé răng cạp vỏ rơi
Xong rồi mình chia đôi
Khoai sùng này lượm mót
Sao ngọt lại ngọt ghê !

Giờ đây kỷ niệm ngày xưa
Giờ đây cảnh cũ chìm xa mù khơi
Gặp nhau một chiều lạnh mưa
Nhìn nhau quần áo bảnh bao mừng nhau.

Nhìn em còn xinh còn tươi
Ðời em tưởng đâu là vui
Nhà em phải chăng là đây ?
Dè đâu chẳng may là quán
Em bẹo hình hài đem bán...
Rồi em hỏi anh làm chi?
Cầm bút để viết ngày đêm, viết gì?
Ðời thối phải nói là thơm
Ngòi bút là chiếc cần câu miếng cơm...

Em hỏi nghệ thuật là chi?
Là đui, là điếc, là câm mà đi.
Nhìn nhau lặng lẽ nhìn nhau
Nào có ai đánh mà sao lòng đau !

Bánh ngọt cùng mời ăn
Nhớ chăng củ khoai ngon
Bánh tươm vàng như nắng
Bánh này mình chưa cắn
Sao mà miệng cay đắng?

Rồi xin một nụ cười thôi
Cười ư ? Anh đã vùi quên nụ cười !
Thì xin vài giọt lệ rơi
Lệ em cạn đã từ lâu, người ơi !

Trước khi từ giã
Hỏi nhau buồn hay là vui ?
Thì cứ hỏi ngay cuộc đời !

2 - Thơ của Minh Đức Hoài Trinh, xuất bản tại Ba Lê.

Sưu tầm: Thanh Vân
Nguồn: Quehuongngaymai.com
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 11 tháng 10 năm 2015