MỘT CHUYẾN THĂM NUÔI
Vào một ngày thứ sáu đầu tháng..
Thúy thức dậy từ hai giờ sáng. Cô đi xuống bếp, tần ngần nhìn những chiếc giỏ, những túi vải và cả mấy xách tay đã buộc chặt miệng, cái nào cái ấy căng phồng, xếp hàng trên bộ ván nhỏ. Cô hãy còn buồn ngủ vì đêm qua phải thức khuya phụ với mẹ, sửa soạn chuyến đi thăm nuôi người anh thứ ba vượt biên vừa bị bắt.
Từ mấy ngày nay hai mẹ con bà giáo đã bán đi cả một va-ly quần áo tốt để có đủ tiền mua những thứ cần dùng, đi thăm nuôi anh Ba của Thúy.
Thúy soát lại một loạt và nhận thấy cũng đủ cả rồi. Từ quần áo, mùng mền, thức ăn khô, thức ăn mặn, kẹo, đường và thuốc men, đủ cả. Mẹ cô thật chu đáo, bà còn bắt Thúy đem cho anh Ba cả kim và chỉ nữa. Bà nói:
– Lâu ngày rồi quần áo nó cũng sẽ rách, hoặc không thì cũng đứt khuy, tuột chỉ, lúc ấy cùng là tù cả thì xin ai…
Thế mà bây giờ soát lại, Thúy mới thấy mẹ còn quên mua cho anh Ba đôi dép cao su. Hồi đi, anh Ba mang đôi giày bố, bây giờ bị bắt, chẳng lẽ cứ mang mãi đôi giày vải? Cô giận mình vô ý không nghĩ ra từ bữa hôm qua, chứ bây giờ, sáng sớm thế này ai đã bán mà mua.
Cô suy nghĩ, vẫn còn thiếu. Phải đem cho anh Ba cái áo lạnh, nghe người ta nói trên Pleiku lạnh quanh năm, gió núi có mùa làm buốt tới xương tới tủy. Không đủ áo ấm, làm sao lao động nổi. Vẫn chưa xong, không cho giấy bút, anh Ba lấy gì để viết thư về nhà?
Thúy đi lên nhà trên, cả nhà còn ngon giấc, cô nhẹ tay mở tủ.
May quá! Vẫn còn sót lại chiếc áo len chưa kịp bán, cô lôi ra nhét vào cái túi mà cô dự định không được rời tay, vì trong đó có tiền và giấy tờ đi đường.
Bây giờ mới đến phần của mình. Cô ngại lắm, nhưng không được. Từ đây lên PIeiku đâu có gần, lại còn phải ngủ một đêm ở dọc đường nữa. Vừa đi vừa về cũng mất bốn ngày, nếu có chuyến xe. Với thời gian đó, ít nhất cũng phải mang thêm một bộ quần áo, không kể bộ đang mặc trong người.
Cô nhìn nắm cơm với gói muối mè cùng chai nước nguội mà ớn. Thời buổi ở với Việt cộng thật là giật lùi! Cứ rời khỏi nhà là túi gạo, cái mền, manh chiếu!
Người ta nói “Khách sạn hay nhà ngủ là để cho cán bộ với công nhân viên đi công tác, chứ thường dân đâu có được”. Các bà đi thăm nuôi tù cải tạo thì lại bĩu môi: “Chẳng báu gì cái thứ khách sạn của Xã Hội Chủ Nghĩa. Giường chiếu bẩn như cú, đặt lưng nằm để cho rệp nó hút máu rồi nó còn đeo theo về đến tận chăn chiếu nhà mình”. Vì thế, các bà chủ trương “Đi xa nhà, ta cứ đem theo mảnh vải trải giường cho nó ăn chắc, tiện đâu đặt lưng đó”.
Cũng may là mẹ của Thúy có một bà bạn, cũng có con đi vượt biên bị bắt, hiện bị giam cùng chỗ với anh Ba, mỗi tháng vào ngày mùng một là ngày được phép thăm nuôi, bà Cả đều đích thân lên tận Pleiku thăm con. Mẹ Thúy đã gọi Thúy đi cùng với bà Cả, ấy thế là xong. Thúy chỉ việc rập khuôn với bà Cả, không cần làm gì khác hơn.
Tuy đã xếp đặt từ hai ngày, vậy mà hôm nay sát với giờ hẹn, Thúy mới ra khỏi nhà.
Chiếc xích lô máy chở cô chạy thẳng đến bến xe đi miền Trung. Mặt trời chưa mọc, nhưng bến xe miền Trung cũng đã náo nhiệt những người.
Xứ của Xã Hội Chủ Nghĩa, cái gì cũng có hai mặt. Nói là mua vé với giá chính thức, nhưng nếu không có tay trong, không biết thủ tục “đầu tiên”, đừng hòng đặt chân lên nổi chuyến xe mình muốn đi. Ở những bến xe, người ta phải ngủ luôn ngoài bến để ba giờ sáng xếp hàng đăng ký thì mới hy vọng mua được vé xe. Đó là chưa kể cái khoản, giấy giới thiệu của cơ quan, giấy công nhân viên. Với bà Cả, may mắn cho Thúy, bà Cả bao dàn hết!
Môt năm trời đi thăm nuôi mãi, bà quen khắp mặt rồi, kể cả mấy ông tài, mấy chú lơ. Kể luôn cả những bà những cô cũng có chồng, con, cha, anh đang tù cải tạo tại vùng Cao Nguyên này.
Vừa thấy mặt Thúy, bà Cả đã trách ngay:
– Sao mà cháu chậm chạp thế, hơn bốn giờ sáng rồi, mới thấy mặt.
Thúy ngớ người ra, cô nhớ rõ ràng người ta bảo 6 giờ sáng xe mới khởi hành kia mà. Cô chưa kịp nói câu gì, bà Cả đã lại ồn ồn lên:
– Giấy đi đường đâu? Giấy phép thăm nuôi đâu? Tiền vé đâu? Đưa cả đây tôi.
Bà còn dặn vói theo trước khi tất tả chen vào đám đông:
– Đứng canh đồ cho kỹ, đừng có lớ ngớ nó xách hết đi bây giờ đấy.
Chộn rộn suốt cả mấy tiếng đồng hồ, và cuối cùng Thúy cũng được theo bà Cả đặt chân lên chiếc xe ca đi Pleiku mang bảng “tài 1”. Đúng sáu giờ xe bắt đầu rời bến.
Năm năm trời, kể từ ngày mất nước, hôm nay là lần đầu Thúy mới có dịp đi xa. Cô nhìn cái xe mà thương hại. Sàn xe rung rinh, ghế thì đệm rách, tay long. Những người đồng hành với cô, hầu hết đều là các bà lớn tuổi, cũng có hai, ba thiếu nữ và một người đàn ông lưng gù. Tất cả hành khách trên chuyến xe này đều nghèo nàn, lam lũ. Những mái tóc vắt ngược, những bộ mặt lo âu, những đôi mắt mệt mỏi!
Chỉ có ông tài xế, còn có vẻ bông đùa thích nói chuyện. Lúc sắp cho xe khởi hành, ông ta ngồi vào tay lái vừa ngoái cổ lại nhìn một lượt và buông một câu:
– Rồi! xe này là xe đi thăm nuôi tù cải tạo đây!
Không ai đáp lại, ông lại nói thêm:
– Vậy là ăn chắc sẽ tới sớm. Khỏi sợ trạm kiểm soát giam xe nữa rồi, bà con ơi!
Khi ấy bà Cả mới lên tiếng:
– Hôm nay chúng tôi lên thăm nuôi, sáng ngày kia đón xe ông về có được không? Ông Năm?
Ông Năm nhìn vào mảnh kính hậu:
– Được lắm! Sáng mốt là phiên tôi về. Bà con cứ yên tâm!
Và ông ta cười khà khà, mở máy cho xe lên đường.
Ngồi trên xe, Thúy tò mò nhìn qua cửa sổ, chiêm ngưỡng cái thành phố mà giờ đây đã mang tên khác.. Tất cả những con đường mà chiếc xe đò chạy qua đều đượm vẻ xơ xác, khác hẳn trước kia. Có những dãy phố xưa kia buôn bán sầm uất, bây giờ hoang vắng với những cửa hàng đóng kín, tiêu điều. Rồi đến những khu biệt thự, ngày nay bộ mặt ở những khu này cũng đã đổi thay. Còn đâu những chủ nhân lịch sự trước kia? Khách qua đường ngày nay chỉ thấy những con người cục mịch, dương dương tự đắc ra vào. Ở những ban-công trên từng cao phơi toàn những chiếc quần chiếc áo thô kệch bằng vải màu cứt ngựa hoăc màu xanh đậm chen lẫn màu đen bệnh bạc.
Thúy bỗng ngậm ngùi. Thật không ngờ Sàigòn hoa lệ ngày nay nghèo hèn đến thế.
Xe ra khỏi thành phố, mọi người bỗng trố mắt vì những chiếc xe vận tải nối đuôi nhau, bên trên chở đầy những bao gạo đang rầm rộ, không biết chạy về đâu.
Rồi đến đồng quê. Cũng như thành thị, thôn quê bây giờ nhà nhà vắng vẻ, cửa đóng im lìm, vườn tược tiêu điều, tất cả giống như một xứ đang có bệnh dịch.
Ngồi cùng chuyến xe, mọi người dễ thân thiện với nhau, các bà mời nhau chai nước và hỏi nhau về tình cảnh những người thân đang ở tù cải tạo. Bà Cả mở đầu bằng tiếng thở dài than thân:
– Khổ cho tôi! Ngần này tuổi mà vẫn còn phải vất vả đi nuôi con ở tù.
Ông Năm tài xế lại cười khà khà, buông một câu:
– Bà coi chừng đó, bà Cả. Xã Hội Chủ Nghĩa làm gì có nhà tù?
Bà Cả nói to:
– Không tù sao bắt nhốt? Cứ chơi chữ với nhau hoài.
Bà trẻ tuổi ngồi bên trên chen vào:
– Các cụ già xưa nói “Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”, ai ngờ thật đúng.
Ông Năm tài xế liếc người đàn ông lưng gù ngồi cùng hàng với mình vừa cười lớn:
– Mấy bà to gan. Dám đánh giá chế độ hả.
Người đàn ông vẫn làm thinh. Sự im lặng của ông ta làm ông tài xế chột dạ. Từ đấy ông Năm tài xế chỉ cười vu vơ nhưng phóng xe có phần nhanh nhẹn hơn.
Một bà đang ăn trầu chuyển hướng câu chuyện:
– Chẳng biết người nhà các bà ở tù cải tạo có may mắn hơn không chứ con tôi học tập ở trại Plei Bông này, tụi công an ở đây ác lắm. Ngươi ta kể có thằng đánh tù dữ lắm.
Một bà khác chép miệng:
– Ôi chao! Đã vào tù Cộng sản thì còn phải nói. Có mấy ông đi cải tạo về mà lành lặn đâu!
Bà ăn trầu vẫn nói tiếp:
– Dĩ nhiên rồi. Có ác mới làm Cộng sản. Nhưng mấy thằng ngay trại Plei Bông đây nổi tiếng lắm. Hai năm nay tôi đi thăm nuôi con tôi, nhiều người đã biết chuyện, kể cho tôi nghe, ghê gớm lắm. Nghĩ mà thương cho các ông ngụy, nó hành cách nào cũng phải chịu.
Câu nói của bà làm Thúy nghĩ ngợi. Cô lẩn thẩn tự hỏi không biết bọn anh Ba có bị đánh không? Anh Ba của Thúy đi vượt biên bằng đường bộ, họ đi một bọn năm người. Sở dĩ họ chọn con đường này chỉ vì họ đều là lính chiến nghèo, không người nào có nổi một số tiền để mua một cây vàng, vậy thì làm sao có thể tính chuyện vượt biên bằng đường biển.
Những người bạn của anh Ba, Thúy rất mến vì họ là những thanh niên quả cảm, buồn một nỗi đã sinh không đúng thời. Thúy nghĩ nhiều đến anh Hiệp người dẫn đầu cho chuyến ra đi cả bọn. Hiệp nghèo nhất bọn, anh mồ côi, theo lời anh Ba kể lại thì anh chỉ có một ông anh tàn tật. Khi nhỏ, Hiệp là một thiếu sinh quân, rồi trở thành lính chiến, nhưng anh đã trốn không ra trình diện học tập và chính Hiệp đã tổ chức chuyến ra đi này.
Bây giờ nghĩ lại, Thúy thấy thương Hiệp và anh Ba vô cùng.
Thúy biết chắc Hiệp không có ai đi thăm nuôi, vì thế Thúy có viết riêng một lá thư cho anh Ba cùng với số tiền nhỏ mà Thúy đã để dành, để anh Ba và Hiệp cùng chi dùng. Thúy định tâm khi giáp mặt anh Ba cô sẽ đưa lá thư và nói điều ấy.
Xe đến Nha Trang thì trời sập tối. Màn đêm rơi nhanh trên vùng đèo núi cheo leo, xa xa về bên tay phải đã thấy loáng thoáng mặt biển nhấp nhô.
Cả một ngày trời trên chiếc xe chật chội, giờ đây mọi người đều mệt mỏi, ngủ gà ngủ gật chẳng ai buồn nói với ai câu nào.
Chiếc xe đơn độc trên con đường đèo hun hút, lầm lũi phóng về miền Trung xa xôi.
Khuya đêm ấy xe đến thị trấn Phủ Tài. Nơi đây một vùng đèo núi hoang vu, một dãy nhà ẩn náu bên ghềnh đá gồm vài quán ăn vắng khách, u buồn. Ông Năm cho xe đậu qua lề đường, mở cửa xe nhảy xuống sau khi đã dặn tất cả mọi người:
– Bà con vô quán mướn chiếu nghỉ ngơi, qua bốn giờ khuya xe mới lên đèo.
Bà Cả thấy xe ngừng vội giục Thúy:
– Cháu vào quán thuê chiếu ngay không có hết phần đấy.
Nhưng khi Thúy vào hỏi thì chẳng còn chiếc chiếu nào trống, bà chủ quán chỉ cho cô chiếc ghế bố nhưng bà Cả không chịu vì ghế bố đắt, hơn nữa không nằm được hai người.
Ồng Năm được ưu đãi nhất, một mình ông một chiếc chiếu rộng trải ở giữa nhà, có gối đàng hoàng. Thấy ông Năm tài xế ngồi một mình với bình trà nóng, bà Cả đến gần uống một chén, vừa nói chuyện vu vơ.
Quán vắng người, hầu hết hành khách đàn bà đều chen chúc trên mấy cái chiếu trải ngay ngoài hiên. Ông Năm cố ý tìm người đàn ông lưng gù nhưng không thấy, ông Năm vừa uống nước vừa nói với bà Cả:
– Mấy bà ăn nói thấy ghê quá! Hãy coi chừng thằng cha lưng gù đó. Dám “ba mươi” lắm đó.
Bà Cả có vẻ rất bằng lòng, nhưng bà vẫn nhớn nhác:
– Nhưng mà nó đi đâu rồi? Sao tôi không thấy? Mà ông nói đúng đó, tôi cũng nghi hắn ta đi theo bọn này để dò xét cái gì đây.
Ông Năm vẫn nhìn quanh:
– Cái đó thì tôi không biết nhưng cái gì cũng vậy, cứ dè chừng là hơn.
Bà Cả cũng nói luôn:
– Phải! Giữ mồm giữ miệng thì hơn, ông xem đấy, tôi có dại gì mà nói năng lôi thôi như cái bà ăn trầu đâu.
Ông Năm đứng lên vươn vai, vặn mình:
– Thôi, bà kiếm chỗ dưỡng cái lưng một chút đi. Tôi nằm đây canh chừng xe, bốn giờ tiếp tục lên đường.
Bà Cả cũng đứng lên, mắt bà nhớn nhác rồi bà nói nhỏ với Ông Năm:
– Để tôi đi dặn bà con, mấy mẹ này ẩu lắm, ăn nói bừa bãi nó đi tố cho một cái là đi cải tạo cả đám.
Ông Năm cười lớn:
– Không sao. Rủi các bà có ở tù, để đó tôi đi thăm nuôi cho.
Bà Cả đi đến cạnh một góc tường vì bà biết Thúy đã chọn chỗ ấy ngồi nghỉ. Bà nhìn Thúy rồi không ngần ngại rỉ tai tất cả những điều mà ông tài xế và bà đã khám phá ở gã đàn ông lưng gù ngồi cùng xe.
Thúy rất sợ và đến lượt Thúy nhìn quanh xem gã lưng gù ngồi đâu. Thúy nhớ lúc Thúy xuống xe thì hắn ta vẫn còn ngồi lại. Hình như hắn ta lại trở lên xe và nằm dài ở cái băng trống.
Trong đêm tối Thúy đăm đăm nhìn về dãy đèo núi trùng trùng điệp điệp ẩn hiện trong cảnh sương mờ.
Càng về khuya sương đêm càng nhiều và gió núi từ rừng xa hú lên từng cơn tê tái. Quá mệt, Thúy thiếp đi lúc nào không biết. Đột nhiên cô dụi mắt, ô kìa! Trên đỉnh cao… phất phới một lá cờ, lá cờ của những người Việt Nam yêu chuộng tự do và hòa bình. Cô nghi hoặc đứng lên… Cùng với gió núi, ngọn cờ năm xưa tung bay như muôn ngàn tiếng reo vang, rồi cô thấy lố nhố rất nhiều người… có cả anh Ba và các bạn của anh ấy nữa. Rõ ràng là họ, hình như tất cả đang hát một bản hùng ca. Cô thấy náo nức trong lòng và hình như cô cũng đang hát theo. Vừa hát cô vừa vui sướng nghĩ rằng “thế là chấm dứt những thảm cảnh vượt biên… Chấm dứt viễn ảnh tối đen của những trại học tập. Chấm dứt tất cả khổ đau… Nhà bác Cả và nhà cô sẽ mở lại cửa hàng… trở lại cuộc đời ấm no yên vui như cũ…”
Bỗng, Thúy giật mình choàng dậy. Ngơ ngác một lúc mới hiểu là mình vừa mới nằm mơ! Một giấc mơ ngắn nhưng làm tâm hồn cô trong giây phút, cởi mở, hân hoan.
Bà Cả đã đứng bên Thúy từ lúc nào. Bà đang bới lại đầu tóc, miệng bà ngậm cái trâm và bà giục Thúy:
– Sửa soạn lên xe thôi chứ. Xe sắp chạy rồi.
Cô loạng choạng đứng lên. Một tiếng còi xe rên rỉ phá tan bầu không khí âm u của núi rừng, chỉ mười phút sau xe mở máy bắt đầu leo đoạn đường lên dốc.
Trời còn sớm, khí núi làm mọi người co ro, chỉ có ông hành khách lưng gù là hình như không để ý gì đến cái lạnh của miền Cao Nguyên. Ông ta vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, mắt luôn luôn nhìn ra ngoài như người ta nhìn con đường đã từng quen thuộc. Đến một đoạn đường đột nhiên ông ta bỗng nhoài người ra cửa sổ nhìn theo chăm chú. Thấy thế bà hành khách trẻ nhất bỗng kêu lên:
– Kìa PIei Bông…
Có tiếng ồn ào ở hàng ghế cuối và tiếng hai người con gái hốt hoảng:
– Bác tài ơi, cho tụi cháu xuống đây… Phải trại học tập PIei Bông là đây không bác?
Nhiều người cùng lên tiếng trả lời:
– Đúng rồi, xuống đi… nhưng mà còn phải lội bộ xa lắm đó.
Có người phàn nàn:
– Sao mà lắm quà thế? Làm sao xách cho hết?
Và bà khách ăn trầu góp ý:
– Xuống dưới kia tìm lấy một cái gì mà làm cái đòn gánh thì mới khuân hết được.
Xe đã dừng hẳn, hai thiếu nữ lúng túng với những túi, những giỏ. Trên xe lại có người reo lên:
– Kìa, mấy ông ấy kìa… người nào cũng cuốc cũng xẻng đang từ trong đó đi ra…
Mọi người lại nhốn nháo. Trông xa thấp thoáng những bóng người hàng một, hai tên áo vàng vác súng đi theo…
Nhưng xe đã sang số. Có tiếng một người đàn bà chép miệng:
– Biết thế cứ bỏ xuống ít cây mía cho các ông ấy, may ra thì được ăn, cũng có tí chút nước ngọt!
Bà khách ăn trầu tỏ vẻ biết nhiều:
– Bà đừng tưởng, không có dễ như thế đâu. Tụi áo vàng mà bắt được là các ông ấy lại mệt đòn!
Bà Cả định nói thêm nhưng chợt nhớ đến ông hành khách lưng gù nên lại thôi.
Mười giờ sáng hôm ấy chiếc xe ca “tài 1” đổ mọi người xuống bến PIeiku. Trời mưa lất phất, đất đỏ quyện vào chân, đoàn ngươi đi thăm nuôi tù cải tạo lếch thếch với lũ hành lý cồng kềnh. Sau ba mươi tháng tư bảy mươi lăm, Pleiku hoàn toàn xuống dốc và nghèo nàn. Hoang vắng ngự trị khắp nơi, phố xá chỉ đầy rẫy những bộ áo vàng, nón cối chen lẫn với hình dáng đàn bà cục mịch lủng lẳng chiếc đuôi sam.
Khi đoàn người đi đến trại học tập Pleiku thì cũng đã giữa trưa. Trước mắt họ là một cái cổng lớn có hai tên công an gườm súng, đứng gác bên trong.
Không ai bảo ai, đoàn người đi thăm nuôi cũng xếp hàng một, kẻ trước người sau, tay cầm sẵn đủ thứ giấy cần dùng, hồi hộp bước qua cánh cổng. Họ được đẩy vào một gian nhà dựng bằng phên nứa, ở giữa có một dãy bàn dài ngăn hẳn làm đôi.
Những tên áo vàng mặt non choẹt nhưng rất xấc xược, đứng sẵn ở đó khá đông, chúng ra lịnh cho những người đến thăm nuôi, người nào đứng trước hành lý của người ấy.
Trước khi bắt đầu cuộc khám xét, một tên áo vàng hỏi đoàn người:
– Có thư từ, tiền bạc linh tinh gì giấu ở trong này không?
Không có tiếng trả lời. Hắn lại nói tiếp, đôi mắt quét qua một lượt những người có mặt:
– Ai có thư từ, tiền bạc muốn gửi cho cải tạo viên nào thì phải đăng ký để lãnh đạo quản lý.
Thúy nhớ đến lá thư và cuộn tiền nhỏ của mình. Đời nào cô lại đưa ra. Ai mà tin được lời nói của bọn này. Thúy bối rối, làm sao đây? Làm sao nói để anh Ba biết mà chia quà, chia tiền cho Hiệp?
Những giỏ, những túi quà đều phải dốc ra hết, thức ăn dù sống dù chín cùng với thuốc men, đều bị xé tung, đổ bừa bãi. Quần áo cũng được mằn mò thật kỹ. Cơm nắm và xôi đều bị vất lại với luận điệu “Nhà Nước đâu có để cải tạo viên đói”. Câu nói làm mọi người nóng máu nhưng cũng phải nhịn.
Một tên lớn tiếng đọc danh sách những tù nhân có người nhà đến thăm nuôi. Cũng như người đi thăm nuôi, tù cải tạo đi ra từng người một. Họ xuất hiện giữa tiếng kêu thảng thốt tiếng khóc nghẹn ngào của thân nhân. Lập tức bọn áo vàng quát tháo, dọa đuổi hết cải tạo viên trở vào, lúc ấy mọi người mới ngậm tăm. Nhưng rồi những tiếng ồn ào lại nổi lên, kẻ gọi cha, người gọi con, gọi em…
Đến lượt anh Ba, Thúy nhìn anh mà chết sửng. Mới mấy tháng trời mà anh Ba thay đổi đến thế này. Anh Ba của Thúy mặt xanh mét với đôi mắt trũng sâu, quần áo tả tơi, thân thể gầy ốm. Thúy không cầm được nước mắt, cô nghẹn ngào nhìn anh và nghĩ nhanh đến Hiệp. Nhưng một tên áo vàng đã đến sát cạnh anh Ba khiến hai anh em không nói được câu gì. Năm phút trôi qua, thế là giờ thăm nuôi chấm dứt!
Ba người đàn bà cùng bọn với Thúy đã bị đẩy ra, Thúy buồn bã nối bước, đôi mắt đỏ hoe. Vừa ra khỏi cổng Thủy bỗng giật mình, một tên công an đang chĩa súng vào người đàn ông lưng gù, vừa quát:
– Nói đi thăm nuôi mà giấy phép đâu?
Người lưng gù lúng túng:
– Dạ… chắc lúc mua bánh mì cho em tôi, tôi móc túi trả tiền vô ý làm rơi mất…Xin ông cán bộ thông cảm.
Nghe tiếng ồn ào, tên công an thứ hai từ sau cánh cổng đi ra, lên tiếng hỏi:
– Cái gì mà mất trật tự thế?
Tên kia đáp vừa hất hàm về phía người đàn ông lưng gù:
– Gã này khai là người nhà của thằng Hiệp, đăng ký thăm nuôi mà lại báo cáo thất lạc giấy phép. Bố lếu bố láo!
Tên mới ra sắc mặt lạnh lùng:
– Không nhiều lời. Về đem giấy phép đến đây.
Giọng người lưng gù thiểu não:
– Dạ… nhà tôi ở tận dưới tỉnh miền Tây… tôi đi ba ngày trời tốn bao nhiêu tiền xe… xin các ông cán bộ thông cảm…
Bà Cả lôi Thúy lại thì thầm:
– Tưởng ai té ra chính cái ông lưng gù đi cùng chuyến xe với mình đây. Ai ngờ ông ta cũng đi thăm người học tập như bọn bà con mình.
Nhưng Thúy giằng tay bà Cả ra, trân trối đứng nhìn… và cô chợt nhớ anh Ba vẫn kể… Hiệp có người anh ruột tàn tật… lưng gù vì cục bướu nổi cao.
Thanh Phương