← Quay lại trang sách

Chương 3

ĐÊM HÔM QUA, bà Vạng thở hơi cuối cùng.

Hời vuốt đôi mắt đầy lòng trắng, màng trắng của mẹ cho khép kín lại và ấn lên cái hàm bị trễ ngật xuống. Rồi anh quay lại, bảo vợ:

- Thôi, bầm đi rồi.

Thế là Ngây cất tiếng khóc. Lúc bấy giờ vào khoảng ba giờ sáng. Canh khuya, tiếng khóc nỉ non đưa văng vẳng. Nhà ông Nhượng ở đầu xóm cũng nghe tiếng, ông chạy ngay lại. Ông bảo vợ chồng Hời:

- Hãy để bà nằm nguyên đấy. Đừng ai khóc lóc vội, đến sáng hãy hay. Anh đôi sang Phú Gia mà xin bùa liệm về.

Dần dần, trời sáng. Mọi người trong xóm kéo đến đầy nhà. Vài người đàn bà ở xóm khác, có họ với nhà Hời, cũng tất tả chạy đến, vừa chạy vừa khóc lu loa. Những người quen thuộc, những họ xa họ gần, hiện đương có mặt ở nhà người chết, đều tự coi như họ là người thân thuộc, mà chia nhau làm cả mọi việc. Các công việc phải làm, khi trong nhà có người nằm xuống. Những cánh liếp buông lụp xụp xung quanh nhà đều được dựng gọn lên. Cái màn the bị đứt xuống. Người ta bắt đầu bó và liệm bà lão.

Anh Lực trèo lên giường, lấy cái váy tréo go mặc vào cho bà Vạng. Anh đương hý hoáy mặc, bỗng hoảng hốt nhảy vọt xuống đất. Thì ra không biết bao nhiêu là kiến lửa, từ lúc bà lão chết, chân tay vừa cứng lạnh, ở những lỗ tổ dưới chân giường bò lên. Người ta phải đốt đóm thui kiến, rồi mới làm tiếp được. Bà lão được mặc váy, mặc áo nâu dài, thắt lưng chỉnh chện như khi còn sống. Người ta tết dây, buộc từng ngón tay, ngón chân cho khép chặt chẽ với nhau. Rồi dùng giấy bản bọc tròn bà lão lại, chỉ để hở có cái mặt xám xịt, trên đậy hờ một mảng giấy phủ diện.

Hời đi xin bùa ở Phú Gia về thì ông Nhượng và anh Lực đã bó cho bà Vạng xong xuôi. Ông Ba Cấn cũng đã đi mua quan tài về. Xe bò lạch cạch kéo cái săng gỗ vào tận ngõ trong.

Anh Lực đem bỏ một lá bùa vào trong mồm bà Vạng, rồi rút cái đũa ngáng ra.

Còn mấy lá khác, chốc nữa dán áo quan, dán xung quanh nhà và để đem cho vợ chồng Hời với thằng cu Kê. Người ta khiêng bà Vạng ra đặt vào săng. Những quần áo cũ, chiếu, chăn và cả cái giường của bà nằm cũng khiêng ra để ngoài đầu ngõ. Chốc nữa, kẻ ăn mày kéo đến hàng lũ, tranh nhau xin và bưng cả đi. Lúc nhập quan bà Vạng, ông Ba Cấn phải tránh mặt ra sau nhà, không được đứng đấy. Hôm nay là ngày tuổi của ông. Anh Hời run rẩy trèo lên cái thang bắc vào mái nhà, khóc và hú to lên đúng ba lần:

- Hú ba hồn bẩy vía Nguyễn Thị Vạng ở đâu về mà nhập quan!

Trong khi ấy, người ta đậy nắp quan lại. Anh Lực kê chổi mà nện chày lên trên, tiếng thình thịch vang đi khắp xóm. Trẻ con hãi quá, đương đứng xem đầy ra ở ngoài ngõ, nhớn nhác bỏ chạy.

Ai nấy đều khóc lên thực to, nhất là đám đàn bà. Ông Nhượng cũng cúi mặt. Mũi ông hỉ luôn đỏ ửng. Hời ngồi gục dưới chân thang, mếu như một đứa trẻ. Mặt bà mẹ anh đã khuất sau tấm ván gỗ. Từ nay trở đi cách biệt đời đời. Trong đầu anh, rõ rệt nhất là cái hình ảnh rất gần của mẹ: bà nằm trên giường, thò bàn tay gầy như que ra sờ khắp mình mẩy thằng Kê. Tưởng tượng lại như thế, anh khóc nức lên.

Ngay chiều hôm ấy, đám ma đưa ra. Vì tang gia không có gì, chẳng muốn để dây dưa đến hôm sau. Ông Nhượng bảo vợ chồng cháu:

- Nhà ta đương cơn bần bách. Gói ghém giấu giếm thế nào cho xong thì thôi, để đến khi thay áo cho bà, nhờ trời ta hãy nói chuyện với làng nước sau.

Hàng xóm, mỗi người một chân một tay, giúp cái việc nghĩa cuối cùng ấy. Đám ma đi vòng ra cửa đình xuống gốc gạo theo con đường dọc bờ sông Lịch rồi quặt về phía sau xóm Giếng, luồn ra hai vòm tre kín mít, ra tha ma, ở ngoài cánh đồng.

Trong ánh chiều nhạt, nhưng nặng nề, đám ma đi lùi lũi, không có kèn, không có trống. Cái áo quan trắng bệch - trên thắp mấy nén hương, đặt vài trăm vàng, một bát cơm và một quả trứng luộc - được để vào hai chiếc đòn gỗ. Xung quanh, người ta buộc gióng ngang ra hai bên, lấy chỗ cho vai ghé vào khiêng. Ở đầu đòn, treo lủng lẳng một cái mũ gai và một cái gậy vông. Dấu hiệu sự vắng mặt của một người con trai, anh cả Từ.

Hời chống gậy, lừ đừ theo sau chiếc quan tài. Bà con đi đưa đám, họp thành lũ ai cũng sụt sùi khóc lóc. Tiếng nỉ non rền rĩ vào trong bóng chiều. Những người đàn bà, tóc xõa kín ôm mặt gào lên, vừa khóc, vừa kể lể. Và ở hai bên lề đường cái, có nhiều người đi xem. Họ nghe, xem ai khóc khéo, kể lể được những câu gì. Ngây bước vào đám. Nàng kêu thảm thiết như một con mèo gào đói:

- Mẻ ơi! Mẻ bỏ các con, mẻ đi đâu vui thú một mình. Mẻ ơi a!... Từ đây vắng cửa vắng nhà, trông trước chẳng có mẻ, trông sau chẳng có mẻ, mẻ ơi là mẻ ơi!... Ới mẻ ơi!... mẻ bỏ các con, mẻ đi đâu a... vui thú một mình...

Người ta thì thầm rằng Ngây khóc mẹ chồng chỉ thảm chứ không khéo. Là vì từ lúc bà Vạng nằm xuống, nàng chỉ kể đi kể lại có mỗi một câu khóc ấy.

Trong bọn đi đưa đám ma bà Vạng, vắng ông Nhiêu Thục.

Sớm hôm ấy, lúc bà Vạng vừa chết, thì ông cũng chạy đến. Từ hôm cháy nhà, ông ở nhờ bên ông Ba Cấn. Ông đến qua loa, rồi đi ngay. Ông phải đi tìm thằng Toản.

Nguyên là từ sau cái đêm nhà ông bị hỏa hoạn, mất tích cô đồng Toản. Ông đi tìm nó hai hôm thì gặp nó ngồi dưới gốc cây đa ở đầu ấp Đông, một lũ trẻ xúm quanh nó. Quần áo nó rách xơ ra như lá chuối. Nốt muỗi đốt lấm tấm đỏ đầy mặt. Nó đương nói ba hoa. Khi ông Nhiêu tới, nó đứng phắt lên, cười khanh khách. Ông gọi thì nó chửi ông. Rồi nó lại hát. Lũ trẻ cười hê hê. Ông Nhiêu trừng trừng hai mắt nhìn con. Rồi bỗng ôm mặt khóc rưng rức. Chao ôi! Có đến bao nhiêu năm nay, ông không hề khóc. Ngày bố mẹ khuất núi, ông không khóc. Đến vợ ông chết, ông cũng chẳng khóc, mà chỉ nhớ thoang thoảng. Rượu giúp ông quên những nỗi buồn. Nhưng bây giờ ông khóc. Ông khóc như mưa như gió. Bởi vì đời ông còn có gì nữa! Bởi vì đời ông chán quá, ngán quá! Cái công gây dựng nhà cửa bấy lâu, nay còn trơ hai chiếc cột cháy đen. Thằng trưởng Khiếu đi, thì có tin đồn về nó chết sụt đất ở ngoài mỏ. Ông chẳng hy vọng gì ở nó, nhưng nó cũng là giọt máu của ông. Bây giờ còn mỗi một thằng Toản này thì nó lại hóa rồ. Than ôi! Lúc ông Nhiêu vợi cơn khóc ngẩng đầu lên thì thằng Toản đã lủi đâu mất từ lúc nào. Ông lại lật đật đi tìm. Nhưng không thấy.

Cho đến hôm nay, ông được mấy người làng đi mua bèo về mách rằng cô đồng Toản đương lội ở sông Lịch, phía dưới ấp Hồ. Ông tất tả chạy sang ấp Hồ.

Tuy đám ma hết sức tiêu sơ, mà cũng có đôi chút cỗ bàn rửa mặt. Ông Nhượng đã bảo thế, nhưng đôi ba mâm không phải là cỗ bàn. Mọi người đi đưa đám, sau khi đã hạ huyệt bà Vạng, đều trở về nhà đám rửa chân tay, uống nước rồi ăn cỗ. Bữa cỗ đặc biệt, rặt một thứ thịt chó. Con chó Mực của tang chủ phải chịu hy sinh cho những bà con anh em đã có lòng tốt mà đi đám bà Vạng. Con chó cũng có một tiểu sử dài dòng. Nó đã sống ngót mười tuổi ở nhà này. Nó là một con chó của cô Nghiên đem ở bên Bắc sang cho mẹ. Bởi vậy, sinh thời bà Vạng quý Mực lắm. Bây giờ nó đã lão. Lông nó quện đám lại, bợt ra từng mảng, lộ những khoảng da xám ngoét. Nó yếu đến nỗi, lúc anh Lực lôi ra để cốp, cốp một chày không trúng vào lỗ huyệt giữa đầu, mà nó cũng tóe phân ra, gục xuống chết, chẳng kịp kêu được nửa tiếng.

Người ta ăn uống ồn ào. Ngồi ba mâm trong nhà. Thêm một mâm phụ ở ngoài hiên cho đàn bà, trẻ con. Đương dở chén, đã ngà ngà, thì ông Ba Cấn bới chuyện ra cà khịa với ông Nhượng. Cái câu chuyện cũng đã cũ rích. Nhưng ông Ba Cấn còn tức lắm. Thế này, ngày nọ ông Ba Cấn và ông Nhượng cùng đi đội đất làm đường “cái Tây”. Hai ông vừa đào, vừa đội thay đổi. Cứ kể như ông Ba Cấn bây giờ thì cũng nghèo, nghèo không khác nhà ông Nhiêu Thục, nhà anh Hời. Còn nhà ông Nhượng, tuy hàng họ ế ẩm, nhưng vẫn đủ bát ăn. Được cái tính chắt chiu, hà tiện của ông không để cho ngồi dưng. Ông đi đội đất thuê, thế cũng đã quen rồi. Một hôm ông Ba Cấn và ông Nhượng đào đất, bắt được một cái điếu sành. Hai lão hí hửng xuống ao cọ, rửa sạch sẽ rồi đem bán. Bán cái điếu được hai đồng cho ông lý So bên Thượng. Cái điếu có dáng cổ, nên người ta chịu mua đắt. Tiền bán được, hai lão chia đôi. Nhưng ông Nhượng định tiêu cả hai đồng, mà điều đình gạt thế cho ông Ba Cấn một cái áo cánh. Đương thiếu áo, lão này cũng bằng lòng. Song vốn cái áo cánh của ông Nhượng chẳng được là của thực tốt. Nó màu nâu già, không rách miếng nào và cũng chưa bạc, nhưng ông Nhượng mặc nó đã ngoài mười năm. Ông vốn là một người rất xót áo. Mùa hè, ông cởi trần suốt ngày đêm. Mùa đông, ông mặc những thứ quần áo vá chằng đụp đến tám tầng. Chỉ những khi nào có việc đi khỏi làng, hoặc ra đình, ông mới xỏ gượng nhẹ hai tay vào áo. Lão Ba Cấn mặc cái áo cánh đã sinh ra được mười năm ấy vừa nửa tháng thì mọi chỗ đường khâu và những nơi cửa tay, lưng, nách, đều rách bung ra. Ấy bởi cái áo sống đã quá lâu, quá cái hạn sống của nó rồi. Bây giờ, đụng mạnh đến, lại sang mồ hôi người khác nó toạc ra hết. Lão Ba Cấn cáu tiết đem cái áo rách đến tận nhà, vứt vào mặt lão Nhượng. Lão Nhượng xem xét cái áo rồi nói: “Mặc như cắn vải ấy. Người ta mặc hết năm ấy sang năm khác thì sao!” Tuy nói vậy, rồi lão cũng bằng lòng đền ông bạn ba hào. Ông Ba Cấn cũng bằng lòng và nhân thể vay thêm của ông Nhượng hai hào để đóng tiền cúng cầu mát ngoài đền về tháng Tư này.

Mấy lần ông Nhượng đòi hai hào. Ông Ba Cấn gắt: “Không có!” Ông Nhượng nói: “Ông định vỗ nợ tôi đấy phỏng?” Phải có mấy người khéo can, nếu không, ban nãy đã xẩy ra cãi nhau to ở ngay sau cái quan tài.

Đến bây giờ ông Ba Cấn vẫn chưa nguôi cơn tức. Ông ngồi uống rượu phản trong, nói oang oang ra:

- Nó lại khinh tôi không có tiền? Hừm, nó đã bằng ai. Nó lừa tôi đấy chứ!

Ông Nhượng ngồi phản ngoài, gân vào:

- Tôi lừa gì ai?

- Nói thực cho mà biết chứ, cái áo ấy thì đến chó cũng không mặc được!

Ông Nhượng cười khảy:

- Thế mà có người mặc đấy!

Ông Ba Cấn quát:

- À mày định nói xỏ ông hử? Cha mày!

- Bố mày!

- Thôi thôi. Tôi can cả hai ông.

Ngây đương ngồi khóc cũng nín khóc. Nàng gắt ông Ba Cấn: “Ông Ba hay chửa!” Ông Ba trợn mắt:

- À mày lại bênh người nhà chồng mày hử? Cha chúng mày!

Lúc bấy giờ, nếu không có ông Nhiêu Thục, lủi thủi ngoài ngõ đi vào, ắt đôi bên... đã nhảy ra choảng nhau. Bởi vì ông nào cũng đã xoe tay áo lên rồi. Ông Nhiêu đi vào, mặt lử đử. Ngây chạy ra. Nàng định hỏi bố một câu, nhưng tiếng nàng khản đặc, vì khóc liên miên cả ngày, chỉ nghe khao khao, không ra hơi. Hời cũng chạy ra:

- Mời thày về xơi nước. Thế nào ạ?

- Nó không về.

- ...

- Nó thực phát rồ rồi. Bây giờ tuần ở ấp Hồ người ta nhốt nó lại trong điếm. Để sáng mai, nhờ người sang cõng nó về. Tao không lôi nổi.

- Sao lại không mang về bây giờ. Để nhờ anh Lực...

- Bọn tuần đòi chuộc công nhốt một đồng bạc.

Cái đám cãi nhau, tự nhiên tan. Người ta lại tiếp tục ăn uống rào rào, từ trong nhà ra ngoài hiên. Ngây ngồi cho con bú dưới bếp. Hời vào quét dọn chỗ giường của mẹ. Có lẽ chỉ một mình chàng ngơ ngẩn buồn.

Đến khi mọi người lẻ tẻ ra về. Ông Ba Cấn khệnh khạng ra ngõ, còn chửi đổng vào một câu. Ông Nhượng tức quá, nhảy xổ ra. Hai người rậm rịch đuổi nhau ra tận ngoài đầu xóm.

Chẳng ai buồn chạy theo cản ngăn. Mọi người còn xúm lại quanh ông Nhiêu để bàn cách đi chuộc cô đồng Toản về. Không biết hai lão say rượu có đấm được nhau cái nào chăng.

Nhưng mươi ngày sau, khi vợ chồng Hời dọn nhà sang ở bên xóm Giếng thì cả hai lão cũng cùng đến làm giúp. Lão Nhượng đã mở lịch xem ngày rồi. Công việc thế này. Nhà cháy, ông Nhiêu không có tiền đâu mà làm nhà được. Mấy bố con bàn với nhau rằng khiêng cái nhà của Hời sang đấy. Bởi miếng đất Hời ở thì cũng đã thuộc về tay lý Chi. Người ta cho ở ngày nào hay ngày đó.

Mấy bố con ở quây quần với nhau cho đỡ buồn. Bà Ba bây giờ cũng sinh ra lẩm cẩm. Cả ngày chỉ cứ ngồi nói rì rầm một mình. Còn thằng Toản thì ông Nhiêu phải đóng một cái cũi tre nhốt nó vào đấy, hãy để nhờ bên nhà ông Ba Cấn rồi liệu sau. Ông Ba cũng bằng lòng ngay, quên cái hận áo rách. Thằng Toản rồ cứ cười, cứ hát, cứ chửi luôn mồm.

Hôm nay bắt đầu dỡ nhà anh Hời. Lá gồi đã bỏ xuống hết. Chỉ còn cái khung nhà thì phải dinh ra ngoài, mới tháo được những cái xà, cái cột. Tháo cho khéo, kẻo gẫy mất thứ gì, chẳng lấy đâu ra tiền mà mua. Ông Nhiêu Thục bảo mọi người:

- Các anh em, mỗi người ghé vào một vai, cố khiêng ra là được đấy.

Ông Ba Cấn, ông Nhiêu Thục, ông Nhượng, anh Hời, anh Lực cùng bám vào mấy cái bậu cửa và mấy cái cột.

- Nào, nâng lên nào.

Anh Lực cong cái lưng bóng nhẫy mồ hôi, cố nâng chiếc bậc cửa lên. Anh cũng thực là người tốt với bạn. Anh chẳng phải là họ xa họ gần gì với Hời. Tội nghiệp, chỉ phải cái nỗi nghèo, hai mươi tám tuổi đầu rồi mà vẫn chưa có vợ con chi hết. Lực quay lại hỏi Hời:

- Cho tớ cái đàn nhá!

- Vỡ mất cái bầu rồi mà.

- Cũng được.

- Ừ, lúc nào đến mà mang về.

Cao hứng, anh Lực vừa ráng kéo, vừa hò:

- Chiếc thuyền không đỗ bến Giang Đình.

Anh nay chỉ quyết lấy mình mà thôi.

- Ta dô ta

- Ta dô tà

Bỗng cái khung nhà xiêu đi, gẫy răng rắc, rồi đổ lăn nghiêng về một phía. Mọi người sửng sốt nhìn lên. Lão Ba Cấn và lão Nhượng đã buông tay khiêng ra từ lúc nào, thì ra cái thù chiếc áo rách vẫn chưa nguôi. Và hai lão đương giơ chân, giơ tay đấm đá nhau huỳnh huỵch. Lão Ba Cấn đá một cái, ống quần lão Nhượng rách toang. Lão này tức quá, loanh quanh, luống cuống, tìm hòn gạch vồ.

Ông Nhiêu Thục kêu váng lên:

- Trời ơi! Sao các ông cứ giở chứng ra thế? Gẫy mất cái xà ngang của tôi rồi!

Trung Nha 1941

HẾT