Chương sáu
Hoành, bố thằng Tư đứng tần ngần một lát lâu ở bậc thềm chưa muốn vào thẳng cánh cửa giữa. Trước mặt gã là một khung cảnh quen thuộc hầu như không bao giờ thay đổi, mặc dầu gã đã xa đây hàng sáu bẩy tháng, thời gian gã nằm ở Tổng Y Viện. Con đường đất đỏ dẫn từ cổng trại vào sân cờ lúc nào cũng mù mịt khói và bụi. Những đoàn xe luôn luôn ra vào tấp nập, với tiếng rồ ga ầm ĩ, tiếng thùng xe xóc nẩy lên, long sòng sọc và ở trên đó bóng dáng những bạn đồng đội của Hoành với khuôn mặt cháy nắng, đỏ rừ dưới ánh sáng gay gắt của mặt trời mùa hạ hầu như lúc nào cũng mang vẻ hối hả, bận rộn.
Bây giờ thì hết rồi. Hoành sẽ chẳng còn bao giờ được tham dự vào cái guồng máy sinh hoạt ồn ào náo nhiệt đó mà ngày nào cũng đầy dẫy những phút buồn, vui, xúc động, nhất là sau những cuộc hành quân, xác từng người bạn đồng ngũ được chở về trên chiếc xe cam-nhông phủ đầy bụi đất. Họ là những người vĩnh viễn ra đi, vĩnh biệt cuộc đời quân ngũ, vĩnh biệt tất cả cuộc đời. Còn Hoành thì mới chỉ theo chân họ đi được một nửa cuộc hành trình. Kể từ hôm nay gã cũng giã từ vũ khí để bước sang cuộc đời với đôi nạng gỗ. Hồi còn nằm sáu tháng liền ở Y Viện, Hoành đã sửa soạn cho mình một ý nghĩ bình thản, một tia nhìn thẳng chỉ ngước lên mà không nhìn xuống vì mặc cảm và mỗi ngày, khi trèo lên chiếc giường sắt đơn điệu với nệm trắng, mùng trắng, Hoành đã cố nhủ thầm:
“Ta đã làm hết bổn phận và quê hương đau khổ này ít ra cũng đã được gìn giữ bằng một giò bên trái của ta”
Ấy thế mà, khi đặt những nhón gót đầu tiên trên hè phố của những giờ phút đầu tiên giã từ đời quân ngũ, Hoành vẫn không bôi xoá được những mặc cảm về sự thiếu toàn vẹn trên thân thể của mình. Gã ngượng nghịu nhìn mọi người đi qua đi lại trước mặt. Gã tìm tòi ý nghĩ của họ qua những ánh mắt. Gã muốn kể lể cho mọi người nghe lại lịch về sự mất một cẳng chân của mình. Nghĩa là gã muốn lấp khoảng trống ở chân trái bằng câu chuyện phục kích ban đêm, trời lưa thưa sao, có gió rừng thổi qua những cánh đồng ngập nước. Câu chuyện mà ở trong đó gã là nhân vật chính và trở thành kẻ anh hùng như anh em đồng đội đã tuyên dương. Phải chi ai cũng biết rõ điều ấy. Nhưng thành phố vẫn ồn ào, mọi người vẫn qua lại, và không ai chú ý gì đến gã cả, cho dù chỉ là sự tò mò về cẳng giò thiếu thốn của gã. Sự thản nhiên đó làm những ý nghĩ tự vệ của gã không còn lý do để tồn tại. Cuối cùng gã đi một chặng đường dài trong thành phố với tất cả nỗi cô đơn thấm thía nhất của mình. Gã mong mỏi được từ giã chốn này càng sớm càng tốt để trở lại quê cũ. Chỉ những người thân mới là chiếc nôi êm ái cho cuộc đời còn lại của gã.
Hồi còn nằm ở Y Viện, gã đã gởi về quê ba bốn lá thư. Nhưng tất cả đều bị hồi lại. Lý do dễ hiểu là hệ thống Bưu điện bây giờ không thể về được tới vùng xa xôi hẻo lánh. Chính vì thế mà gã đã đếm từng ngày trôi qua trong bệnh viện và tưởng tượng đến giây phút bất ngờ nhất gã xuất hiện ở hàng rào ngoài cổng ngõ. Thời gian chờ đợi thật là dài. Ngọn đèn trong phòng bệnh nhân đã bật tắt không biết bao nhiêu lần. Mỗi lần cái ánh sáng vàng vọt tỏa một vàng úa trên nền đá hoa trắng lạnh là một ngày trôi qua. Thời gian tuy nhiều lúc chậm chạp đến tê tái cả cõi lòng nhưng ngồi nghĩ lại thì sáu tháng đã trôi qua cũng kể là nhanh. Và dù mòn mỏi chờ đến thế nào rồi cũng có lúc gã đã chiến thắng được khoảng đời buồn tẻ nhất là nằm trên giường bệnh.
Hôm được trả về gã đã bắt tay từ biệt từng người. Có người phải dùng tay trái. Có người chỉ đáp lại bằng nụ cười héo úa. Cũng có người không bao giờ biết gã và chỉ nhận ra gã bằng đôi tay thay cho cặp mắt đã được băng kín bằng lớp bông đẫm máu. Những hình ảnh ấy đã gieo vào tâm tư của gã những kỷ niệm sâu xa và quyến luyến. Trái với ngày đầu được gửi tới đây, gã tưởng như bị đẩy vào một địa ngục trần gian, đầy những hình ảnh hãi hùng mà khi nghĩ tới tưởng có thể phát điên lên được. Nhưng bây giờ khi từ giã ra đi gã lại thấy lòng nghẹn ngào vĩnh biệt. Sơn, Hùng, Bốn, Quang, Hiện v.v.. những người đã chết ở Đỗ Xá, ở Vinh Sơn, Đồng Xoài, ở Phù Cát. Gã nhìn hết thảy mọi người như muốn thu tất cả những hình ảnh thảm thương ấy vào ký ức. Gã nhớ từng người, từng cá tính, từng hoàn cảnh. Và mặc dầu bên kia bốn bức tường cao vòi vọi là cuộc đời tự do, là những người thân đang chờ đợi, là mẹ già, là vợ trẻ, là thằng Tư đứa con trai, nhưng rứt ra khỏi chốn này đối với gã cũng là một cố gắng phi thường. Gã đã cố gắng vĩnh biệt với sự xúc động làm gã phải khóc mấy lần.
Công việc cuối cùng mà gã phải làm trước khi trở về quê cũ là ghé đơn vị để giã từ ông Tiểu Đoàn Trưởng. Lúc đặt chân lên con đường đất đỏ dẫn vào sân cờ, gã tưởng như mình đang sống ngược lại thời gian của hơn nửa năm về trước. Tất cả đều không thay đổi gì, chỉ trừ có hiện tại, là gã không còn nguyên vẹn như hồi xưa. Chiếc nạng gỗ chống một cách yếu ớt bên cạnh những lốt xe in trên nền đất đỏ đã nói lên rõ ràng sự thua thiệt ấy của gã. Gã trèo lên đứng ở bậc thềm cao để có thể nhìn bao quát khung cảnh quen thuộc. Gã tự nhủ thầm mình sẽ từ giã tất cả. Từ giã vũ khí. Từ giã nếp sống quen thuộc đã ăn sâu vào đầu óc của gã như biến thành bản năng. Gã sẽ trở về đồng quê yêu dấu. Gã sẽ làm lại cuộc đời. Với gia đình thân yêu. Với những người thân yêu.
o O o
Ngày hôm sau, Hoành đặt chân lên mảnh đất thân yêu của quê hương. Đồng quê xám xịt trong sương lạnh buổi chiều. Những thửa ruộng khô cằn không vết tích của một sự khai phá. Từng đám cỏ dại mọc lên um tùm, đầu ngọn rung rinh theo chiều gió. Di chuyển hơn bốn cây số mà Hoành chưa gặp một bóng người. Dấu tích sinh hoạt ở đây chỉ là bóng dáng những chiếc phi cơ nặng nề qua bầu trời, một vài cánh chim lạc lõng theo đường thẳng tắp hun hút xa đến cuối tầm mắt.
Mải tới khi sắp vượt qua con rạch nhỏ quen thuộc mà ngày xưa hồi còn bé Hoành vẫn cùng chúng bạn nô giỡn ở đó, gã mới thấy có bóng người. Gã tần ngần đứng lặng trên ván cầu soi mặt nhìn xuống giòng nước phẳng lờ. Gã thấy mình già đi quá nhiều. Hình ảnh thằng Hoành đầu trọc lóc, mình trần trùng trục chia thành bè, thành phái giỡn nhau với đồng bạn suốt ngày trong đồng cỏ, nơi sân chùa, trên lạch nước, bây giờ như chìm vào một thế giới xa lắc. Những đứa bạn cũ ấy, có kẻ đang chiến đấu ở hàng ngũ bên này, có kẻ ở hàng ngũ bên kia. Nhiều kẻ suốt đời chịu tật nguyền, nhiều kẻ vĩnh viễn chôn vùi trong lòng đất. Có kẻ chết dưới mưa bom, có kẻ chết trong vành xe bọc sắt, có kẻ chết dưới hầm chông, có kẻ chết trong lửa đỏ. Có cái chết được sửa soạn, tính toán, có cái chết thực bất ngờ, thực nhanh chóng. Và nhịp độ lạnh lùng, tàn nhẫn đó cứ tiếp tục kéo dài từ bao nhiêu năm.
Đứng tần ngần một lát, Hoành lê cái nạng gỗ đi xuống dốc cầu. Khung cảnh bốn bề tiêu điều đến độ chẳng còn cái gì là nguyên vẹn. Tường long. Mái lở. Cây đổ. Cột cháy. Ngói vỡ. Cửa bể. Mặt đường rải rác những hố sâu, những chướng ngại vật, những vết cháy xám đen, và thưa thớt dấu chân người.
Nhóm người đầu tiên mà Hoành gặp là một đám đàn bà, già, trẻ ước độ năm sáu người. Họ quây quần quanh một nồi khoai lang luộc đang bốc khói, những sợi khói mầu trắng đục bay lờ lững qua từng khuôn mặt tiều tụy, võ vàng.
Sự xuất hiện của Hoành làm mọi người ngạc nhiên đến độ sửng sốt. Một bà cụ sững sờ buông thõng củ khoai vừa đưa lên miệng. Một người khác la lên thảng thốt:
– Anh Hoành!…
Một cơn xúc động bỗng ùa đến, tràn ngập tâm hồn gã đàn ông vừa trở về sau bao năm vắng mặt. Những giọt nước mắt tự nhiên trào ra ở hai bên má. Hoành cố giữ lại. Cố dằn xuống nỗi lòng u uẩn mà gã chất chứa từ bao nhiêu năm. Nhưng rồi gã vẫn bật ra tiếng khóc. Tiếng khóc trở thành tiếng nức nở làm rung động cả đôi vai gầy yếu của gã. Đến lúc đó, gã cũng không thể ngờ rằng mình đã khóc được một cách dễ dàng. Bà cụ đứng dậy tiến lại phía gã. Gã giơ bàn tay run rẩy của mình ra nắm chặt lấy những ngón tay xương xẩu của bà. Chẳng có khung cảnh tái ngộ nào lại chứa chan niềm yêu thương đến thế. Sự đau khổ đã kéo con người lại gần nhau hơn. Lúc này, họ đối với nhau như là những kẻ ruột thịt, như là cuộc đời của họ đã gắn liền, mật thiết với nhau từ bao nhiêu năm. Bàn tay của Hoành nắn từng khớp xương lồi lõm trên cánh tay của bà cụ, rồi gã đưa tay lên vuốt từng sợi tóc bạc phơ rủ xuống đôi mắt đục lờ đang lăn tăn mấy giọt nước mắt.
Một lát sau, tất cả mọi người đều vây quanh lấy Hoành. Họ ngắm đôi nạng của Hoành bằng những cái nhìn chua xót. Và không một ai chịu lên tiếng trước tiên, vì ai là kẻ có can đảm nói cho Hoành biết mẹ gã, vợ gã, con gã, tất cả đều đã vĩnh viễn đi vào lòng đất. Một linh cảm bén nhậy chạy thoáng qua trong đầu khiến gã buốt nhói. Gã sững sờ nhìn về phía bà cụ như một lời xác định. Bà cụ mắt đẫm lệ, không rời nhìn gã và từ từ lắc đầu nhè nhẹ. Gã cảm thấy thân thể của mình bỗng nhiên nặng chĩu như chôn chết ở một chỗ đó. Mặt gã hướng về con đường đất đỏ, lối dẫn vào căn nhà êm ấm của gã từ bao nhiêu năm trước. Con đường vẫn có những bụi duối dại mọc ở hai bên lề, những sợi dây tơ hồng vàng choé vẫn giăng mắc như từng hàng lưới nhện nhằng nhịt. Duy chỉ có những thân dừa cao là bị gẫy đổ la liệt. Khoảng trời như trống trải thêm ra. Tầm mắt của gã có thể nhìn thấu suốt qua tới khu bên kia của dẫy vườn dừa um tùm ngày trước.
Mái nhà tranh thơ mộng của gã ngày trước, bây giờ cũng không còn đó. Khung cảnh trước mặt đầy vẻ hoang sơ và tiêu điều. Gã thấu hiểu thảm kịch đã đi theo gã cho đến tận cùng của đời sống. Trong cuộc chiến tranh này, chẳng phải gã chỉ đóng góp bằng cẳng chân trái và những năm tươi đẹp nhất của tuổi trẻ. Hơn thế nữa, gã đã phải cung hiến trọn cả gia đình, trọn cả nguồn vui sống, trọn cả những dự định tươi sáng tràn đầy hy vọng mà gã ấp ủ trong suốt sáu tháng trời trằn trọc trên chiếc giường cô đơn ở quân y viện. Bây giờ thì gã không còn thấy mình khóc thêm được một tiếng nào nữa, dù chỉ là một cái nấc nhỏ nhặt. Lòng gã chợt lạnh như băng giá. Hai hàm răng của gã cắn siết lấy bờ môi tưởng đến bật ra từng giòng máu. Gã ước ao cầm ngay ở trong tay một khẩu súng. Để bắn vào tim mình. Để bắn lên ngôi cao chín từng của Thượng Đế, kẻ bình an ngồi ngất ngưởng ở địa vị chí tôn nhờ sự ngu muội và nhẹ dạ của con người. Ôi, chưa một giai đoạn nào trong hơn ba mười sáu năm làm người của gã, gã lại nhìn thấy quê nhà yêu dấu phải chịu đựng cơn đớn đau cùng cực đến như thế.
Suốt đêm hôm ấy, Hoành ngồi bó gối bên bậc cửa để nghe mọi người kể lại những nông nỗi bị tàn phá của quê hương. Sáng sớm hôm sau, gã lủi thủi dò dẫm một mình ra khu nghĩa địa. Mộ chí mọc lên san sát. Gã đọc thấy những tên quen thuộc. Mỗi tên gợi cho gã một kỷ niệm êm đềm. Gã có cảm giác như tất cả đều còn lẩn quất ở đâu đó, ngoài cánh đồng xanh lúa, trong vườn tược cây cối um tùm, trên những con đường ngày xưa ánh trăng tràn ngập soi bóng những hàng cây đu đưa theo từng cơn gió thoảng.
Gã đi một vòng thăm thú, rồi ra ngồi xuống một mô đất nhỏ. Chiếc nạng gỗ chống ở một bên đùi. Ánh mắt bạc nhược của gã lại đưa qua từng tấm mộ chí. Có cái xây bằng xi-măng đầy rêu phủ. Có cái đóng bằng ván gỗ mục. Có cái xiêu đổ nghiêng ngửa. Có cái bị mối đùn lên che lấp gần hết. Nhiều cái thật xưa, nhưng cũng có nhiều cái thật mới. Mới nhất là mộ chí của thằng Tư, được ghi vỏn vẹn một chữ “Tư” với hàng số ghi ngày tháng, nét bút sơn nguệch ngoạc của một bàn tay run rẩy. Đó là công trình của lão Bẩy Thà, Hoành được mọi người cho biết như thế.
Hôm thằng Tư tử nạn, On khiếp sợ trốn biết đến ba ngày mới trở về. Nó đến tìm gặp lão Bẩy lúc lão đang ngồi hóng nắng buổi sáng trên bờ hè. Cơn bệnh kéo dài hơn một tuần lễ khiến lão gầy và xanh bủng như một khối chì. Râu tóc của lão mọc ra che lủa tủa cả khuôn mặt choắt choeo, hốc hác. Thằng On lỏn đến bên cạnh lão như một con chó đi hoang. Con chó bẩn thỉu rách rưới và gầy xọp đi như một que củi mục. Nó mếu máo:
– Ông ơi, thằng Tư bị rồi.
Lão Bẩy nhổm cả người lên:
– Cái gì?
On nhắc lại:
– Thằng Tư. Nó banh xác ở bên cánh đồng ấp Hoà Lợi từ mấy hôm nay rồi.
Lão Bẩy chết lặng người đi như chính người thân thiết ruột thịt của lão bị tai nạn thảm thương đó. Phải lâu lắm lão mới bảo được thằng On kể cho nghe đầu đuôi. Nghe rồi, lão lại im lặng không nói. Hầu như lão không thể tin được biến cố xẩy ra phũ phàng và mau chóng đến thế được. Hình ảnh quen thuộc của thằng Tư hay lang thang trong đầm Tròn vẫn còn in trong đầu óc của lão một cách quá mới mẻ. Thật khó mà thay thế được ý nghĩ của lão rằng nó đã chết.
Lão châm một điếu thuốc quăn queo nằm từ hai tuần này trong túi áo, và khói thuốc làm miệng lão đắng nghét, mắt lão cay xè. Lão vê tròn điếu thuốc trong mấy ngón tay rồi ném ra phía bờ rào. Điếu thuốc rớt lên một chiếc tầu lá khoai, nằm ở đó nhả lên từng cuộn khói xanh ngắt. Lão nhìn theo rồi đứng dậy, vịn bờ tường đất dò dẫm trở lại căn hầm. Lão nằm vật xuống mặt chiếu như vừa trải qua một sự chịu đựng cơn mệt mỏi kéo dài từ bao nhiêu ngày. Hai mắt lão nhắm nghiền lại. Lão thở thật mạnh từng hơi ngắn, dồn dập. Thằng On vẫn đi theo lão, hốt hoảng giơ bàn tay bẩn thỉu của nó đặt lên ngực lão như dò hỏi. Một lát, lão không thở mạnh nữa thì nó rụt tay lại, ngồi bó gối ở bên cạnh giường. Sự im vắng của bốn bề vây quanh hai ông cháu trong một thời gian thật dài.
Mải đến trưa hôm ấy, lão Bẩy mới ngoắc thằng On đi sang ấp Hoà Lợi. Lão lột theo tấm chiếu rách mà chính lão đang nằm. Xác thằng Tư vẫn nằm nguyên ở đó, ruột gan chương thối, thân thể không vẹn toàn. Lão Bẩy bình thản gắp lên từng mảnh vụn, đem cuộn tròn vào cả manh chiếu rồi bó lại. Lão bắt thằng On khiêng lên một đầu đòn.
Trên đường trở về, hai ông cháu âm thầm đi trong bóng tối nhá nhem. Bước chân âm thầm, thất thểu. Không có tiếng nói. Không có hồn người. Không phải hai kẻ đang sống sót khiêng đi một thây ma. Đó là hai bóng ma khiêng đi một đùm lổn nhổn lộn phèo. Họ chôn bó chiếu trong nghĩa địa. Không kèn, không trống, không cả quan tài. Nhưng huyệt thì rất sâu, sâu hơn lệ thường và chắc là sẽ còn sâu nữa, nếu lão Bẩy Thà còn đủ sức điều khiển cái cuốc xới thêm được vào lòng đất. Riêng thằng On thì không giúp thêm được lão một việc gì. Nó ngồi chồm hổm trên miệng huyệt, giương cặp mắt chẳng còn chút nào tinh thần, nhìn lão thao láo, y như một con chó đang biến thành tượng đá.
Đến gần nửa khuya thì công việc hoàn tất. Thằng Tư được dành một chỗ khiêm nhường trong nghĩa trang nhỏ hẹp này. Nói theo kiểu văn hoa thì nó đã được mồ yên mả đẹp, mặc dù có khoảnh đất nào được gọi là yên ở chốn đồng quê khói lửa. Ngôi mộ của nó chỉ là một cái đụn đất nhỏ, thớ đất khô cằn, lổn nhổn từng hạt sỏi cứng như sắt nguội.
Tuy vậy nó cũng còn hên hơn nhiều đứa khác, những đứa lúc chết, thân xác đã bị đem làm mồi cho lũ kiến trong gò Ông Cả hay cho lũ cá béo ngậy ở dưới lạch nước trong Rạch Bầu. Lão Bẩy cũng nhắc lại như thế khi lão nện lên cái đụn đất một nhát cuối cùng trước khi phủi áo ra về. Lão quên mất thằng On còn đang ngồi chồm hổm ở đó ngày từ lúc tối trời. Chân tay của lão rời rã. Tất cả từng đường gân thớ thịt của lão như thấm đượm mùi tử khí nồng nặc mà cho đến lúc đó lão mới thấy rùng mình ớn lạnh. Lão thèm tu một chai rượu. Một chai đầy rượu đổ òng ọc qua cổ họng chứ không nhấm nháp từng ngụm bằng những cái ly nhỏ xíu.
Lão mò mẫm, băng qua những con đường nhỏ để theo lối tắt đến nhà mụ Phước. Bất chấp giấc ngủ của mọi người, lão đập cửa ơi ới. Mụ Phước vừa chợp mắt được ít phút, vội vàng choàng dậy la lên:
– Ai đó?
– Tôi! Bẩy Thà đây.
– Chèn ơi! Chết dấm chết dúi ở đâu từ bao nhiêu ngày này, mà bây giờ nửa đêm lại đi mò mẫm, không sợ lính phục kích họ bắn bỏ hả.
– Bắn chết thôi. Liệng giùm cho tui hai chai rượu rồi mai tính.
Bây giờ mụ Phước mới mở hé cánh cửa và lùa cái đèn Hoa Kỳ ra ngoài. Mụ giật mình khi thấy lão Bẩy nhem nhuốc bẩn thỉu như mới ở dưới mồ chui lên. Chưa kịp hỏi han thì lão Bẩy đã hào hển:
– Tôi vừa đi chôn thằng Tư về tới. Nó chết ở địa phận ấp Hoà Lợi kìa.
Mụ Phước rên lên:
– Chèn ơi! Nó chết thiệt rồi hả. Làm sao nó chết?
– Nó với thằng On nghịch đạn thối ở trong đồng. Tổ cha những con chó điên. Trời đất này tránh đạn còn chẳng xong lại còn tìm tới đạn. Cho tôi chai rượu đi, không tôi mửa hết ra đây bây giờ nè.
Mụ Phước vội vã thụt vào, lui cui một lát lùa ra ngoài một chai rượu đầy ắp. Mụ nói:
– Thôi, góp công với ông đấy. Ông lo được cho nó nằm yên, tôi mừng.
Lão Bẩy giằng lấy chai rượu, chẳng kịp ngỏ lời cám ơn, bật lẹ cái nút rồi ngửa cổ tu ừng ực. Men rượu làm lão nóng bừng ở cổ, nhưng mát lạnh ở những chỗ có rượu chảy chan hoà trên làn da sần sùi. Trong phút chốc, lão đã nốc tròm trèm nửa chai. Lão khà lên một tiếng khoái trá, đập mạnh cái nút vô miệng chai rồi chuệnh choạng bước đi. Được một lát, lão bỗng cao hứng cất tiếng hát. Giọng hát ầm ừ không thoát ra khỏi cổ họng thật khó mà biết lão ca tân nhạc hay cổ nhạc. Trên con đường tràn ngập bóng tối của nửa đêm chưa về sáng, lão loạng choạng vấp té mấy lần. Lão không biết mình đã đi đâu, qua bao nhiêu con đường và đã làm gì trong đêm tối. Chỉ biết mải sáng hôm sau, lúc tỉnh rượu, lão mới thấy mình ngồi ôm khư khư chiếc cột cái của một cây cầu khỉ. Lão đã ngủ ở tư thế đó như một kẻ si tình ngồi ôm người yêu tình tự suốt đêm dưới bầu trời đầy sao, êm ả.
Lão ngó xuống đôi bàn chân lạnh ngắt như đã biến thành hai khúc gỗ vô tri. Lão thấy chân cẳng của lão đã ngâm dưới giòng nước đục ngầu không biết tự bao giờ. Một vài cọng rác trôi theo giòng đã tấp đến, bám vào ống chân của lão như bám quanh một khúc củi mục. Lão thờ thẩn ngó xuống nhìn và lão không suy nghĩ điều gì hơn. Lão cũng chẳng buồn nhúc nhích người để sửa soạn đứng dậy. Chẳng bao giờ lão lại vô tình đối với chính bản thân của lão đến thế. Lão sống thêm nữa, nào có ích gì. Mà nếu lão có chết cóng trong đêm qua thì cũng chẳng có gì khác lạ hơn. Lão sẽ biến thành một thây ma ôm chặt lấy chân cầu. Đầu gục xuống nước. Cái chết được lựa chọn như vậy thật mát mẻ tuyệt vời.
Nhưng lão dai như đỉa, hơn đỉa nữa. Trời đày cho lão phải chứng kiến nhiều hơn nữa những thảm kịch ở quê nhà yêu dấu. Ở đây, lão đã biến thành cuốn sổ bộ đời. Lão còn phải ghi chép nhiều trang nữa dành cho những người vĩnh viễn nằm xuống. Lão vụt nghĩ đến ngôi mộ của thằng Tư. Nó còn thiếu một cây mộ chí. Cây mộ chí sẽ viết lên điều gì? Họ của nó, lão không biết. Nó bao nhiêu tuổi, lão cũng không hay. Thôi thì cũng dành cho nó một chữ để ghi dấu chờ ngày bố nó trở về. Một chữ “Tư” kèm thêm ngày tháng mà nó đã nằm xuống. Đó là nội dung của một cây mộ chí.
Có lẽ khúc gỗ được nguệch ngoạc như vậy sẽ là một tấm mộ chí giản dị nhất giản dị nhất, hiếm hoi nhất, tấm mộ chí ở quê nhà yêu dấu mới có thể có được.