← Quay lại trang sách

Gánh Bầu Lúa.

Chiều nay mày đi rao bảng cho tao nghe!

Thằng Tý lấy làm mừng rỡ, dạ một tiếng thật to, định chạy về nhà kêu thằng Sửu giúp sức thì ông Ba gọi giật lại, bảo:

- Nhưng nhớ là mày không được đem ai khác vô rạp nghe không?

- Đem thằng Sửu được không ông Ba?

- Ừ thì hai mạng thôi. Nếu hai đứa không rao bảng cho tao thì phải đóng hai lít gạo.

- Dạ!

Lần này nó dông một hơi tới chuồng trâu nhà thằng Sửu. Thằng Sửu đang tắm trâu ở gần mé mương. Thằng Tý đến gần, hất hàm:

- Muốn đi coi hát không?

- Ối ồi! Ba cái tuồng Tiết Ứng Luông đó cũ mèm, tao coi hồi đời ông Nhạc…

- Bữa nay có đào mới ở trên tỉnh về, đến coi mặt chút rồi về.

Thằng Sửu nhảy dựng lên:

- Thiệt hả?

- Tao giỡn mày sao!

- Ừ đi thì đi, mà phải đóng lít gạo vô cửa không?

- Khỏ…ỏi! Tao bảo kê cho mày vô không phải tiền gạo gì hết.

- Sao kỳ vậy?

- Tao với mày phải đi rao bảng cho ông Bầu buổi chiều nay.

- Rao hết các ấp tao không đi nổi.

- Chỉ ấp mình thôi! Chịu không?

- Đi thì đi. Nhưng chờ tao đem trâu vô chuồng đã!

Thằng Sửu nói xong, hấp tấp lùa trâu về chuồng niệc lại chắc chắn rồi mới đi với thằng Tý đến nhà ông Bầu. Ban đầu ông thâu lúa, nhưng khán giả bảo lúa xay ra gạo thì đóng gạo cho tiện). Kể từ ngày thay lúa bàng gạo trắng thì khán giả có phần đông hơn trước, vì đó là cách giản tiện cho mọi người. Người lớn thì chỉ bọc trong chéo khăn là đủ một lít, chớ không phải bưng xách cồng kềnh. Còn trẻ con thì lén xúc gạo trong khạp đi lòn ngã sau không bị cha mẹ bắt gặp. Riêng phần ông Bầu thì gạo nào cũng đổ vô nồi nấu ra cơm cả, không phải xay giã ì xèo mất công lên việc xuống. Do đó qui định là một lít gạo trắng cho một đầu khán giả được thi hành đồng đều cho người lớn lẫn trẻ con một cách tự nhiên, không ai kêu nài một tiếng.

Thằng Tý và thằng Sửu đến rạp thì thấy ông Bầu đang lui cui pha màu vẽ quảng cáo. Ông không vẽ hình được nên chỉ viết chữ theo kiểu chữ in cho dễ đọc.

“Đêm nay: THẦN NỮ DƯNG NGŨ LINH KỲ CHUỘT TỘI TIẾC ỨNG LUÔN

Đêm mai: TIẾC ĐINH SAN CẦU PHÀM LÊ QUÊ…"

Thằng Tý và thằng Sửu thấy ông Bầu viết băng xiên băng nai, trật bộn lỗi nên nhìn nhau cười chớ không dám nói. Còn ông Bầu thì cố viết cho ngay ngắn. Miệng ông già qua méo lại theo tay viết vô cùng vất vả. Ông cũng muốn bảo mấy thàng học trò này viết giùm nhưng sợ chúng nó cười nên ông tự lực.

- Ê, thầy mày tối nay có đi coi không hả?

- Dạ hổng biết!

- Tụi bây cái gì cũng hổng biết hết. Học trò học vè! Đồ chết nhát.

Thằng Sửu nói:

- Dạ thầy cháu đâu có biết tối nay hát tuồng gì mà đi!

Ông Bầu phang luôn:

- Thầy mầy cứ ru rú ở nhà chỉ biết đầu ba thằng học trò chớ biết cái gì! Hừm! Học trò đi mò cá sặc. Ông thầy ở nhà lắc cặc nấu canh… chua.

Hai thàng oắt con nghe ông Bầu chạm tới thầy mình thì tự ái. Thằng Tý bèn trả đũa:

- Phàn Lê Huê chớ không phải Phàm Lê Quê còn Chuộc chớ không phải Chuột đâu ông Ba à!

Ông Bầu gạt ngang:

- Quê với Huê cũng vậy chớ khác gì! Còn chuột thì cũng như chuộc thôi.

Thằng Tý tiếp thêm:

- Tiết Ứng Luông chớ không phải Tiếc Ứng Luôn, còn chữ Luông có “g” ông Ba à!

- Bộ tụi bây giỏi hơn tao hả?

Ông Bầu quắc mắt hét.

- Dạ tụi cháu đâu dám nói vậy, nhưng mà sách viết vậy đó.

- Chuột hay chuộc thì cũng là chuột. Tiếc hay Tiết thì cũng là Tiếc. Luôn hay Luông thì cũng là Luôn chớ khác gì mà bày đặt Tê, Xê, có Giê với không Giê.

Thằng Tý im còn thằng Sửu không nhịn được nó cãi lại:

- Chuộc khác với Chuột ông Ba à!

- Khác sao đâu bây nói tao nghe coi!

Ông già rướn cổ tới, gục gặc cái đầu làm cho cái bí bo xổ ra. Lọn tóc lưa thưa buông xuống tấm lưng rám nắng của ông như con rắn hù ri bò trên mặt ruộng. Ông không chịu sửa lỗi còn quát:

- Rồi đó, khiêng đi rao bảng mau lên cho gánh Bầu Lúa tối nay kiếm mớ gạo.

Thằng Tý lại vùng vằng:

- Hồi nãy cháu tưởng rao bảng chỉ khiêng có cái trống thôi nên chỉ kêu một mình thằng Sửu phụ. Hai đứa khiêng cũng như mọi lần. Bây giờ thêm tấm ván này, tay nào vịn tấm bảng, tay nào đánh trống, ông Ba?

Ông Bầu ngẩn ngơ một lát rồi gật đầu, bảo:

- Bây kiếm thêm một đứa nữa, được không?

- Dạ được, nhưng ông Ba phải cho nó vô cửa thì nó mới chịu vác tấm bảng kia đi trước, còn hai thằng thì khiêng trống đánh thùng thùng phía sau. Như vậy người ta mới chú ý.

- Tất cả là ba đứa thôi à nghen!

- Dạ, tối nay chỉ có ba cháu vô cửa khỏi đóng gạo.

Ông Bầu ừ yệc xong xuôi chúng mới chịu khiêng chiêc trống lên vai. Thằng Sửu để xuống đất càu nhàu:

- Chiếc trống này còn nặng hơn Thạch La, Thạch Cổ thời Chung Vô Diệm nữa đó ông Ba à! Chỉ có ba lít gạo thì tụi cháu lỗ.

Ông Bầu nhảy dựng lên:

- Ở đâu mày biết chuyện Thạch Cổ Thạch La?

- Dạ ở trong truyện Chung Vô Diệm chính ông kể cho tụi cháu nghe kỳ hát tuồng Chung Vô Diệm thám địa huyệt chớ ai?

- Thằng này nhỏ con mà mình lớn, nhớ giỏi dữ he!

Thằng Sửu nghe ông Bầu khen, bèn đáp luôn:

- Thời đó các nước đánh nhau như bằm bầu. Nước Tề nhờ có bà Chung Vô Diệm nên mạnh hơn các nước kia. Nước Tấn đánh không lại bèn cho một đứa nhỏ 8 tuổi đem hai cái trống và cái phèng la bằng đá mang sang thách nhà Tề phải đánh sao cho trống kêu thùng thùng còn phèng la kêu beng beng. Nếu không làm được vậy thì phải chịu triều cống nước Tấn.

Ông Bầu vốn là con sâu truyện nên gật gù, khen:

- Tụi này cũng biết truyện khá dữ he! Rồi sao nữa kể tao nghe tiếp.

Thằng Sửu nói:

- Gặp bà Chung Vô Diệm có phép thần thông bà gõ một hồi trống một hồi chiêng y như thiệt. Thằng nhỏ phải mang Thạch La Thạch Cổ về nước Tấn phải chịu thua nước Tề hằng năm triều cống.

Thằng Tý nói tiếp:

- Nước Hàn thấy nước Tấn thua đàn bà thì ức lắm bèn gởi sứ sang với một bửu bối gọi là “Cửu khúc Minh Châu” nghĩa là hột châu có 9 đốt như lóng mía vậy nhưng nhỏ xíu như ngón tay và có một lỗ ngoằn ngoèo xuyên suốt hột châu và thách nước Tề phải luồn sợi chỉ qua lỗ đó cho được. Nếu không cũng sẽ mất nước.

- Rồi bà Chung Vô Diệm có xỏ được không? Ông Bầu hạch tiếp.

- Bả biết nước Hàn thách đố bả. Bả rầu lắm nhưng không biết làm cách nào xỏ sợi chỉ cho qua một cái lỗ nhỏ xíu và vẹo ne như vậy. Bả bèn đem hột châu ra vườn cầm lên để xuống bàn xem qua xem lại, nhưng chưa biết xỏ cách nào.

Bỗng đâu có con kiến bò quanh mép bàn. Bả nảy ra ý dùng chú kiến để xỏ chỉ. Bả bắt con kiến thả trên lòng bàn tay định lấy sợi chỉ buộc ngang lưng nó. Chưa buộc thì kiến ta đã cắn lấy sợi chỉ chui vào lỗ hạt châu rồi bò qua tuốt bên kia. Chung Vô Diệm cả mừng đi vô cung đưa cho vua xem. Hôm sau vua Tề sai gọi sứ giả vào trao trả hột minh châu với sợi chỉ xuyên qua. Viên sứ lạy tạ xin tội và từ đó không dám tranh tài với nước Tề nữa.

Ông Bầu nghe hai thằng cu con kể rành mạch chuyện xưa tích cũ thì vỗ đầu chúng và bảo:

- Tao cho bây vô gánh hát chạy hiệu cho Chung Vô Diệm, chịu không?

- Tụi cháu hát ồm ồm như bò rống, vô đây để làm bể gánh hát bác sao?

- Tao có bổn tuồng Chung Vô Diệm ngặt thiếu đào kép nên còn để đó chưa ra mắt bà con. Hổng lẽ tao chờ tụi bây lớn để đóng vai anh em bả là Chung Long Chung Hổ. Bây giờ nếu bây muốn đóng thì phải mang hia cao gót và vẽ mặt cho già ra.

- Vẽ mặt già thì được chỉ sợ mang hia cao gót té lọi chân thôi ông à.

Nói xong, hai thàng bé khiêng chiếc “thạch cổ” đi ra đường. Ông Bầu còn đi bương theo bảo:

- Nếu có người hỏi: Ai vẽ chữ tốt vậy thì bây nói là bây viết, chớ đừng nói tao nghe!

Thằng Tý biết tâm lý ông già bèn bảo:

- Chuột cống, chuột cơm cũng chuột thôi ông à!

Ông Bầu giơ nắm tay lên vá vá:

- Ông già tía bây chớ móc họng tao hả?

Hai đứa cười vang, nện trống thùng thùng và biến mất.

Tý và Sửu khiêng tấm ván về chuồng trâu thằng Sửu. Hai đứa bàn với nhau, Tý nói:

- Mày bắt trâu mày lại đằng nhà thằng Mão. Nó có cái cộ để trước sân. Mình mắc trâu vô đó

Thằng Sửu nghe phải lý bèn làm theo kế hoạch của thằng Tý. Cuối cùng ba con quỉ chất lên chiếc cộ. Thằng Tý đánh trống rầm rầm trong lúc thằng Sửu thót lên lưng trâu còn thằng Mão thì vịn tấm quảng cáo tựa vào một chiếc ngà (trụ cột) ở sau cộ rồi đánh trâu ra đường.

Chiếc xe quảng cáo lạ lùng chưa từng có, đưa "Phàn Lê Quê và Tiếc Ứng Luôn” đi từ đầu đến cuối ấp. Đi đến đâu chó sủa vang trời tới đó. Người trong nhà ùn ùn chạy ra đứng ở mé lộ xem. Con nít trên tay mẹ khóc ré lên. Các cụ già che mắt nhìn cười móm mém, trong lúc đám trẻ con chạy theo sau cộ xem cho kỹ, có đứa nhảy thót lên cộ ngồi chong ngóc như chủ nhân ông gánh hát.

Nhiều bác nông dân từ ruộng về cũng dừng lại lột khăn lau mồ hôi và thầm nhủ: “Tối nay Bầu Lúa diễn tuồng hay, mình phải đi xem một chuyến cho biết mặt con đào ở tỉnh xuống”.

Thằng Tý đập trống liên hồi. Tội nghiệp cái mặt trống bằng da trâu đã thủng cả hai bề. Đập mạnh thế mấy nó cũng không thể kêu thùng thùng như trống lành được. Nó chỉ kêu pạch pạch thôi. Thằng Tý tức mình đập vô hai bên hông thì nó lai kêu cạch cạch. Hại thay, cái dùi lại gãy đôi. Nhưng nó dùng cả hai khúc gỗ làm dùi. Nếu khiêng như hằng ngày thì buổi quảng cáo không “đại náo thiên cung” được như thế mà chỉ có thể làm cho những nhà ở gần mé lộ chú ý thôi. Nhưng bữa nay chiếc cộ lạ lùng khuấy động đến cả những nhà ở trong sâu hậu bối.

Trở lại rạp hát, ba thằng nhóc thấy trời còn sớm nên muốn rao bảng tiếp một vài ấp nữa với chiếc cộ trâu.

Ông Bầu lấy làm thích chí. Chuyện chỉ có thế mà mình không biết. Già đầu còn thua trí trẻ con. Ông Bầu cười thích thú bảo:

- Ở trong truyện Tây Du có Ngưu Ma Vương là con trâu phép. Đến chừng nó lỳ ra nó biến thành một con trâu cái đầu bằng núi Thái Sơn, đứng chật cả bầu trời, không sợ phép tiên nào hết. Bắt qua truyện Phong Kiếm Xuân Thu, Tôn Tẫn có con trâu phép tên là Thanh Ngưu biết bay như chim hạc. Nhờ đó mà được nước Tề. Chung Vô Diệm lẫn vua Tề đều tôn là “Á Phụ”… Còn ngày nay tụi bây dùng trâu để rao bảng cho gánh Bầu Lúa rôm rả quá chừng. Chắc gánh hát của tao tới thời hưng thịnh rồi đó. Thôi, tao cho phép bây coi hát mãn đời không phải đóng gạo.

Thằng Sửu nói:

- Ông Ba cứ lo gánh hát cho ngon đi, để tui cháu rao bảng cho…

° ° °

Ông Bầu có năm người con. Ba trai hai gái. Hai đứa trai lớn thì ông bắt đóng kép chánh, nay đã thuần thục có thể thay cho cha. Đứa con gái thứ ba mới trổ mã nhưng ông cũng bắt làm đào, hai đứa út thì cho làm tử tốt, quân chạy hiệu. Còn ông bà thì bao sân, đào thương, đào mụ, quân vương tướng tá gì đóng cũng được cả, trừ vai hề thì ông phải nhờ thằng Sáu Rỗ đóng. Còn “ông nhưn”, ông phải nhờ bà Hương Quản.

Như quảng cáo buổi chiều, tối nay ông sẽ cho ra mắt khán giả vở Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ chuộc tội Tiết Ứng Luông. Tuồng nào ông cũng thuộc từng câu. Khi tập diễn ông cứ nói miệng cho đào kép học chớ không có ghi ra giấy tờ. Đào kép theo đó mà học, chỗ nào quên thì lúc đi gặt đi cấy cứ hỏi ông. Hoặc tới nhà, đang lúc ông ngủ trưa, bà đập ông dậy, ông cũng nói ngay ra câu văn được, không cần phải suy nghĩ lâu lắc.

Những sự tích trong truyện thì ông kể nghe mê, lắm khi còn thêm mắm dặm muối, người nghe cười ngả nghiêng ở ngoài bờ ruộng hay bên gò đìa.

Bữa nay sở dĩ ông chọn tuồng Thần Nữ này là vì nó có nhiều khúc gay cấn ác liệt và nhiều đoạn mê ly rùng rợn, người xem phải rơi lệ hoặc rởn da gà.

Truyện kể lại rằng đời Đường có nữ Nguyên soái là Phàn Lê Huê tài giỏi vô song nhưng tình duyên éo le trắc trở. Trước khi hạ san, thầy là Lê Sơn Thánh Mẫu dặn rằng khi giao tranh sẽ phải kết duyên cùng tướng giặc là Tiết Đinh San, Thế tử của nhà Đường (con vua gọi là Thái tử. Con các vị vương tước gọi là Thế tử). Đinh San mới 21 tuổi binh pháp tinh thông và đẹp trai phi thường, đẹp cho đến nỗi Lê Huê vừa trông thấy phải rụng rời hồn xiêu phách lạc không đánh nổi. Nàng tỏ thật với chàng mối duyên thiên định. Nhưng Tiết Đinh San thay vì mê say sắc đẹp của nữ tướng địch thì lại tỏ vẻ khinh bỉ và biểu lộ lập trường ta-địch hẳn hòi và từ chối lời tỏ tình tha thiết của Lê Huê. Lê Huê xấu hổ bèn thách đánh. Chỉ vài hiệp “bảy món ăn chơi” thì chàng họ Tiết bị nữ tướng trói gô bỏ nằm dưới đất. Nàng bèn kề gươm vào cổ hỏi: “Muốn chết hay muốn làm chồng ta?” Cố nhiên là không ai dại gì nhận cái chết. Làm chồng một mỹ nhân chẳng sướng hơn sao? Thế là cuộc hôn nhân xảy ra nơi trận tiền giữa hai tướng giặc tử thù. Nhưng Tiết Đinh San phải thề thốt (cho qua truông, ngờ đâu lời thề lại linh ứng về sau: cả nhà họ Tiết phải chết chém 500 người) Phàn Lê Huê ngây thơ (vả lại không nỡ giết chồng) nên thả cho chàng về Đường Quốc phi báo bại trận trước nữ tướng. Còn Lê Huê thì trở lại Phiên Quốc cho bố là võ tướng trấn thủ Hàn Giang quan đối đầu với Đường Bang. Ông bố hỏi sao con không dùng phép thuật mà giết nó cho rồi? Lê Huê bèn thưa thiệt rằng Sư Mẫu có dạy đây là duyên tiền định. Ông bố nổi giận rút gươm ra định chém đầu con gái hư thân mất nết “giữa trận tiền dám lăng nhăng tình ái cùng tướng giặc”, Lê Huê cũng rút gươm ra đỡ nhưng lỡ tay đâm chết ông bố. Người anh xem thấy bèn nhào vô so tài cùng em gái nhưng cũng bị em gái giết luôn. Do đó có tuồng Đinh San nhứt bộ nhứt bái cầu Phàn Lê Huê xuống giúp binh nhà Đường sau này còn rất dài nhưng xin kể tóm tắt và ngưng tại đây.

Đó là gốc tích của mối tình Lê Huê và Đinh San. Bây giờ mới bắt qua tuồng Thần Nữ dâng Ngũ Linh kỳ ông Bầu Lúa cho ra mắt khán giả đêm nay.

Khi về hàng phục Đường Bang, Phàn Lê Huê đã dâng ải làm của hồi môn, mặc kệ tiếng xấu “Tru huynh Sát phụ” và đầu hàng địch. Nàng biết đây là thiên định không thể cãi lại được.

Trên đường chiến đấu Lê Huê đã gặp một tướng núi tên là Tiết Ứng Luông. Luông ỷ tài, chiếm lấy một cõi sơn hà, xưng hùng xưng bá như Từ Hải trong Kiều - dọc ngang nào biết trên đầu có ai!

Nhưng cao nhơn tắc hữu cao nhơn trị. Bữa nọ gặp Phàn Lê Huê, Luông ta thấy nữ tướng đẹp như sao sa thì tỏ ý muốn đem về làm áp trại phu nhân. Lê Huê bảo: “Nếu đánh thắng ta sẽ làm theo ý muốn của mi. Còn nếu mi thua thì làm con ta.” Tiết Ứng Luông thấy nữ tướng mảnh mai như liễu rũ thì khinh thường. Nhưng chỉ trong hiệp đầu Luông đã bị rơi thương. Lê Huê tha chết bảo nhặt thương lên đánh tiếp. Ba lần đều thua cả. Luông bèn quăng thương xuống ngựa bái và gọi Lê Huê bàng Soái Mẫu (lúc đó Lê Huê đã lên thay chồng làm Nguyên Soái nhà Đường còn chồng thì xuống lo việc cơm áo cho binh sĩ). Bắt đầu từ đây mới có bi kịch “Dâng Ngũ Linh Kỳ”. Lê Huê đem Ứng Luông về cho làm Tiên Phuông hầu hạ dưới trướng và cho lấy họ Tiết của chồng. Một ngày kia binh Đường bị nguy khốn, Phàn Nguyên soái án binh bất động. Tiết Ứng Luông sốt ruột muốn phá vòng vây để lập công nên lẻn trốn mẹ kéo quân xuất trận. Bị quân địch đánh, chạy lạc lên Phụng Hoàng San gặp thần nữ ở đây.

Thần nữ cũng là tướng cướp hùng cứ một phương, gặp Ứng Luông thì phải lòng, Ứng Luông cũng khoái củ tỉ nên hai bên tướng núi hoà hợp tâm hồn lẫn thể xác. Rồi Ứng Luông mê mẫn ở luôn trên núi Phụng Hoàng vùi mài trong tuần trăng mật, binh đáo bất biết, quân pháp cũng quên luôn. Đến lúc hai anh tướng cạnh là Tần Hớn và Nhứt Hổ nhắc thì Luông ta mới nhớ ra rằng mình đã xuất trận mà không có lệnh, bèn lật đật sửa sang áo giáp và trở về phục tội với Soái Mẫu. Lê Huê thấy mặt thằng con nuôi vô kỷ luật thì đùng đùng nổi giận kêu quân lôi ra chém đầu. May nhờ có Tiết Đinh San vận lương về tới thấy thằng nhỏ bị trói ở pháp trường bèn hạ lệnh mở trói đem về Soái đường chờ mình xin tội chết cho.

Nhưng Phàn Nguyên Soái nhất định chém. Lúc này ở trên núi Phụng Hoàng, thần nữ thất tình, nghe lòng bồn chồn bèn quào mu rùa, biết người tình bị nạn, bèn mang theo Ngũ Linh Kỳ, tức là cây cờ Linh có thể trị được Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ để chuộc tội cho chàng.

Xuống đến Kinh đô, đến cổng Soái phủ thì thấy quân binh sát khí đằng đằng, hỏi ra mới biết Tiết Ứng Luông mắc tội tử hình sắp sửa hành quyết.

Thần nữ bèn xông vào Soái đường dập đầu kể lể hết sự tình mong Phàn Nguyên Soái dung tình tha thứ. Nhưng nguyên soái nhất định bất dung nghịch tử. Thần nữ bèn dâng Ngũ Linh Kỳ để chuộc tội cho tình quân. Trớ trêu thay, Lê Huê nhận bảo vật nhưng quát lính đuổi Thần nữ ra khỏi Soái đường lại còn sỉ nhục Thần nữ:

- Mi là loại cường sơn thảo khấu còn con ta là cành vàng lá ngọc đâu có thể kết duyên cùng nhau.

Thần nữ làm loạn, Tiết Ứng Luông can. Tiết Đinh San xin tội. Lời xin tội làm Lê Huê cứng họng ngắc ngứ không đáp được.

Đinh San hỏi:

- Ngày xưa ai bắt tội bà mà bây giờ bà bắt tội con?

- Ngày xưa tôi làm gì nên tội?

- Ra giữa trận tiền bà định việc hôn nhân cùng tướng giặc.

- Tướng giặc nào?

- Là tôi đây!

Tiết Đinh San (đang bị giáng cấp xuống làm Vận lương quan nhưng chọt một trúng chỗ “nghiệt” của Soái thê). Phàn Nguyên Soái há miệng mắc quai đành đập ấn soái lên bàn côm cốp và quát chồng im miệng. Tiết Đinh San địa vị bề trên lúc ở nhà nhưng ra công đường phải chịu làm bề dưới, đành ôm hận lui ra. Thần nữ được bố chồng binh vực bèn nổi cáu với mẹ chồng, múa gươm làm loạn, Ứng Luông thấy mình mắc tội nên đành phải hi sinh tình yêu. Chàng giơ xích sắt lên định nện vào đầu Thần nữ. Thay vì đỡ gạt thì Thần nữ lại ngửa cổ chịu chết cho thoả lòng tình quân. Nhưng thấy tấm tình cao cả của Thần nữ thì chàng họ Tiết không đành hạ thủ. Giữa lúc đó thì Phàn Lê Huê bước xuống can ngăn làm khán giả sửng sốt.

- Chớ giết con dâu cưng của mẹ!

Tiết Đinh San cũng trở ra. Hai vợ chồng cười tình với nhau - họ đã hẹn ngầm làm cho không khí thật căng thẳng tưởng như Ứng Luông sắp rơi đầu - để thử tình yêu của đôi trai gái là lửa than hay lửa rơm. Đó là câu chuyện đã viết thành tuồng.

Ông Bầu và Bà Nhưn đứng ra tập từng màn cho đào kép thật thuần thục rồi mới đem ra diễn. Ông Bầu đóng vai Tiết Đinh San còn vai Phàn Lê Huê do bà Bầu đóng. Bà đã đóng vai này từ trẻ đến già. Và cũng trong những vai này ông bà đã thành vợ chồng thật ngoài đời. Ấy, hát hỏng có lắm khi như thế đó. Hoặc lắm khi ngược lại hoàn toàn. Lên sân khấu thì mùi mẫn với nhau như… thiệt còn ra khỏi sân khấu thì ghét thù nhau như chó với mèo. Nhưng cũng lắm khi sân khấu lại chính là cuộc đời của họ.

Bữa nay bà Bầu ốm nghén gần ngày nên không làm Phàn Lê Huê được. Rủi đau bụng đẻ thình lình rồi làm sao? Nên ông Bầu nhờ Bà Nhưn (tức thầy tuồng) lên thay vai Phàn Nguyên Soái. Bà Nhưn tên thật là bà Tư Hàng Xáo. Nhờ xay gạo bán hàng xáo nên thân hình của bà khá “co”. Bà cũng mê hát như vợ chồng ông Bầu. Bà làm thầy tuồng nhờ đi xem các gánh lớn trên tỉnh, quận rồi biết nghề chớ chẳng có học hành gì. Còn có tên là bà Tư Eo nữa. Vì thói quen xay lúa, hằng ngày kéo vòng xay nặng nên bà có tật đi cà ẹo một tí, nếu không để ý thì không thấy. Khán giả khó bề mà so sánh giữa bà Bầu và bà Nhưn, ai hơn ai. Bà Bầu nhan sắc hơi kém hơn bà Nhưn nhưng lại có giọng ca sang sảng và ca Bắc rất dòn, còn bà Nhưn thì gương mặt trái xoan lại có cái núm đồng tiền rất duyên dáng nhưng kém giọng ca.

Vai Tiết Ứng Luông thì do thằng Kinh đóng. Kình là một trai làng ham hát, chỉ có dáng, không có giọng sân khấu, nên ông Bầu lượt bớt đi những bài ca để cho Luông chỉ nói đối đáp và múa may che lấp cái nhược điểm của anh ta. Còn Thần nữ thì do một thiếu nữ có gương mặt trái xoan, tóc trán dợn sóng, giọng ca tạm được, nhưng hiềm có cặp răng thớt, nghĩa là hai cái răng cửa hơi to và hơi hô nhưng đến màn của Thần nữ thì ông Bầu cho phực đèn màu hơi tối, để khán giả chỉ còn trông thấy gương mặt của nàng mà không thấy cặp răng thớt.

Tuồng diễn tới màn ba là lúc Thần nữ biệt ly với Ứng Luông trở về phục mạng Soái mẫu. Ở phút chia tay bài ca vọng cổ và bài Nam Ai rất lâm ly làm nhiều khán giả suýt rơi nước mắt. Bỗng hai anh hề (đóng vai Tần Hớn và Nhứt Hổ) vào giễu làm khán giả cười rân. Màn hạ từ từ, khán giả vỗ tay hoan nghinh rầm trời. Ông Bầu lấy làm nở mặt nở mày. Ông để nguyên áo giáp trụ Tiết Đinh San đang mặc trên người bước ra mép sân khấu “có đôi lời cùng khán giả” với nét mặt hân hoan rạng rỡ.

Sang màn thứ tư. Màn kéo lên. Phàn Nguyên soái (bà Nhưn) đang oai vệ trong soái đường ngôi trên ghế đọc binh thư. Chốc chốc lại ngó ra viên môn như trông chừng ai. Bỗng quân vào báo có Tiết Ứng Luông hồi dinh phục lịnh. Phàn Nguyên soái buông quyển binh thư xuống và bước ra khỏi bàn.

Tiết Ứng Luông đi nhanh vào. (Trong tuồng thì ông Bầu và bà Nhưn cho thằng Luông sụp lạy Phàn Nguyên soái để xin tội) nhưng không hiểu tại sao Luông vô tới trông thấy Soái mẫu, không chịu quì phục dưới chân bà mà lại giơ tay ra định trổ mòi với “bà má”. Có lẽ Luông loá mặt vì cái núm đồng tiền trên gò má của Soái mẫu chãng? Soái mẫu bèn nổi giận giơ tay tát một phát nháng lửa vào mặt Luông và quát:

- Mi là đứa con ngỗ nghịch. Sao mi dám phạm thượng vậy? Đồ thất phu vô lễ!

Tiết Ứng Luông (thằng Kình) bị ăn bạt tai quay mòng mòng quên hết mấy câu vọng cổ. Thay vì ca: “Phàn nguyên nhung ơi! Xin mở lượng biển trời (xuống lìu mùi) Từ nay con không dám bỏ nhà đi hoang nữa…” thì nó lại ca: “Soái mẫu ơi, cái bạt tai của mẹ đã làm con rụng rời! Từ nay con không dám tái phạm nữa ơ..ơ..”

Khán giả xem cải lương có cái tật là khi kép trên sân khấu sắp xuống lìu thì đã vỗ tay trước làm lấp cả tiếng đờn và giọng ca, lấp luôn cả câu 1 nên không ai biết gì hết. Nhưng ông Bầu đứng trong cánh gà theo dõi từng cử chỉ của đào kép để nhắc tuồng thì biết tuồng đang “xỉa” nếu không tốp lại nó sẽ “chảy re". Ông bèn bước lại giật sợi dây kéo màn trong tay thằng bé chạy hiệu mà buông màn xuống. Rủi thay, cái rỏ rẻ (tiếng Bắc là cái ròng rọc) bị kẹt dày nên màn chỉ buông đến được nửa chừng rồi lửng lơ treo ở đó. Ông Bầu phải chạy ra lôi nó xuống tận mí sạp rồi trở vô. Thấy Phàn Nguyên soái đang còn sừng sộ với thằng con ngỗ nghịch, ông Bầu bảo:

- Nó lỡ dại, thôi bỏ qua đi, diễn tiếp kẻo khán giả bỏ về và đòi gạo lại hết.

Bà Nhưn cự nự:

- Con gì mà dám hỗn như thế đó!

Ông Bầu xử chìm xuồng:

- Thì bà cũng đã xáng nó một bạt tai trị tội nó rồi!

- Nó có dám làm thế với má nó không?

- Thôi, từ nay tôi không để cho bà làm má nó nữa.

Ông Bầu bước lại lấy khúc cây gõ cộp cộp và kéo màn lên. Tiết Đinh San lại bước ra xun xoe trong bộ quân phục sáng rỡ, mặt cười tươi như hoa héo, bảo:

- Thôi, má nó đánh con làm gì. Hãy tha cho nó nhứt phen lầm lỡ! - Rồi quay lại thằng Luông-

- Nè Luông, lạy xin lỗi mẹ con đi con!

Chàng ca sĩ kia quì xuống ứng khẩu ca:

- Soái mẫu ơi! xin hãy mở lượng biển trời…

Cây đờn cò buông ra tiếng ò (lìu) mùi rụng rún.

Khán giả vỗ tay bể rạp, không biết gì hết về cái bạt tai nháng lửa bên trong sân khấu. Còn thằng Luông thì cả đời có lẽ không ca được câu nào hơn câu đó.

Đêm ra mắt tuồng Thần nữ, ông Bầu thâu được gần 2 giạ gạo (1 giạ = 40 lít) và có lẽ gánh Bầu Lúa chưa bao giờ thu được nhiều gạo thế trong một đêm hát óc trâu mà khán giả tưởng thiệt hay. Mà nó hay thiệt. Lạ thay bàn tay bà Nhưn in trên mặt thằng kép nổi lên đủ 5 ngón. Ngón áp út của bà đeo nhãn, chiếc nhẫn cũng nổi rõ ràng.

Thằng Kình về nhà bị vợ bắt gân liền. Kình ta muốn giấu nhưng không giấu được. Con vợ biết tánh láu táu quen thói chụp giựt của chồng, nên canh chừng hoài nhưng không xuể. Thằng Kình ăn tát tai lần này không phải là lần đầu, nhưng nó vẫn không tởn, cứ thói nào tật ấy hoài hoài làm con vợ nó buồn hết sức.

Còn bà Nhưn thì muốn đuổi thằng Luông ra khỏi gánh, sợ để nó diễn tuồng nó sẽ “làm cái kiểu” đó thì hỏng hết. Nhưng ông Bầu thì lại dùng nó ở điểm khác. Chồng bà Nhưn là Hương Quản trong làng. Đêm đó ông có mặt ở rạp, ngồi ghế nhứt đàng hoàng, nhưng cũng như hầu hết khán giả, ông không biết gì về chuyện bên sau bức màn nhung, nghĩa là chuyện cái thằng Luông bị má nó bạt tai. Khán giả không biết nhưng chắc đào kép và quân chạy hiệu thì trông thấy vì họ biết đâu có cái lớp nào Phàn Nguyên soái bạt tai thằng con như vậy.

Bà Nhưn về nhà không dám thuật lại cho chồng nghe sợ cả xóm hay rồi vợ nó không cho nó đi hát nữa. Nhưng ông Bầu thì đề phòng, nên ông đến nhà ông Quản thưa thiệt và nói hết:

- … Dạ thưa ông Hương, chuyện đó tôi không hiểu ma quỉ gì giục nó làm như vậy?

Ông Quản không hiểu gì hết, ngồi ngẩn người ra nhìn ông Bầu. Nhưng ông Bầu lại nghĩ rằng ông Quản là người lớn không chấp những chuyện nhỏ mọn, nên thưa tiếp:

- Tại bữa đó vợ tôi ể mình nên tôi nhờ bà Hương (bà Nhưn) thay đỡ một vai.

Ông Quản nói:

- Bả thay thì bả thay chớ có gì đâu mà ông Bầu phải tới đây cho tôi biết?

Ông Bầu định không nói nhưng rồi thấy áy náy trong lòng nên thuật lại đầu đuôi câu chuyên thằng Luông làm hỗn với “má nó”.

Nghe xong ông Quản cười nhạt:

- Chuyện đó cũng thường. Ông Bầu không nghe đàn bà hát đưa con hay sao:

Trồng trầu thả lộn dây tiêu

Con theo hát bội, mẹ liều con hư!

Ông Bầu hơi bị chạm tự ái nhưng rán nói tiếp:

- Mũi dại lái chịu đòn ông Hương à. Nó là kép của gánh hát tôi, nó làm tốt tôi nhờ, nó làm xấu tôi phải chịu. Xin ông Hương bỏ qua cho!

Ông Hương cười dã lã:

- Cái điều tôi lo là gánh hát của ông dẹp đi không có gì cho bà con giải trí sau những ngày làm lụng mệt nhọc rồi sanh ra bài bạc, trộm cắp, mệt cho tôi lắm.

Ông Bầu mừng như mở cờ trong bụng:

- Dạ ông Hương cứ tin đi, tôi không dẹp gánh hát đâu. Tôi mà bỏ nghề hát thì như cá chết khô trên cạn, sống sao được nữa.

Ông Quản nói:

- Ông Bầu có cần tu bổ cho gánh hát thì tôi sẽ xin với ban hội tề xuất công Nho ra giúp cho. An cư thì tới lạc nghiệp. Càng lạc nghiệp thì càng an cư!

- Dạ cám ơn ông Quản là người biết lo cho dân.

Ra về ông Bầu vừa mừng vì có một ông Hương chức biết nói hai tiếng an cư lạc nghiệp. Và ông còn là khán giả năng lui tới rạp Bầu Lúa nhất so với mấy ông hội tề khác. Mấy ông kia chỉ khi nào có cúng đình được mời thỉnh thì mới tới chớ có bao giờ chịu khó đến rạp nghèo xác mà xem hết một lớp tuồng?

Vừa đi vừa suy nghĩ, ông Bầu đi qua nhà thằng Kình, bất đồ ông tạt vào nói ba điều bốn chuyện với nó.

Từ ngày ăn bạt tai nó trốn riệt trong nhà không léo hánh tới rạp để tập dượt nữa. Công bình mà nói thì nó hát không hay. Chỉ cái mã ngoài, nên không được việc mấy. Nhưng mà nếu không xài nó thì gánh hát thiếu một tay. Kép xoàng cho nên phải rán dạy dỗ luyện tập nó cho thành tài. Nói chí tình, nó kém tài mà lại háo danh, hát dở mà thích được vỗ tay cho to. Kép nhì mà muốn đóng kép nhứt. Ca 6 câu còn trật lên trật xuống nói chi Cổ Bản với Lưu Thuỷ Trường. Dụng nhơn như dụng mộc. Nó không có tài mà mình làm cho nó khá lên thì đó mới gọi là Bầu Gánh. Nếu không, thì mình chỉ là “bầu… thúng” mà thôi.

Vừa nghĩ, ông Bầu đã vào sân nhà thằng Kình. Ông đứng ngoài thềm kêu vọng vô:

- Vợ chồng có rảnh không, đi lại tập tuồng!

Chờ một lúc mới có tiếng đáp, rồi vợ thằng Kình bước ra nói:

- Anh không có ở nhà bác Ba à!

Ông Bầu biết nó đang nằm mẹp trong buồng chớ đi đâu. Từ hôm đó tới nay, nó không dám bén mảng tới đằng rạp, nhưng ông Bầu nói:

- Chốc nữa nó có “về”, bay biểu nó lại đẳng tập tuồng “Phàn Lê Huê phá hồng thuỷ trận”

Vợ Kình hỏi:

- Ai đóng vai Lê Huê vậy bác?

- Không phải bà Nhưn đâu!

Ông Bầu biết thằng Kình bị cái khớp đó nên nói trớ qua rồi trở ra đường.

Vợ Kình chạy theo kêu giật lại:

- Bác Ba! Bác Ba!, cho cháu nói chuyện này chút!

Ông Bầu đứng lại. Vợ Kình nói nhỏ với nước mắt rưng rưng:

- Làm sao bây giờ bác Ba?

- Làm sao cái gì?

- Bác không biết thiệt sao?

- Tao không có biết gì hết!

Vợ Kình sụt sịt hai ba cái rồi nói trong tiếng khóc:

- Như vầy là bỏ mùa rồi chớ còn vác mặt đi đâu nữa hả bác?

Ông Bầu cười nhạt:

- Mầy vẫn thường khoe chồng mầy đẹp nhất xóm cô nào thấy cũng muốn mà. Tại sao nó không dám vác mặt đi đâu?

Vợ Kình mếu máo:

- Cháu bảo ảnh đừng có quen cái tật láu táu gặp “thứ gì” cũng bốc hốt.

- Nó bốc hốt thứ gì chớ?

Đến nước này thì không nói lòng vòng được nữa, cô quệt nước mắt rồi nói:

- Cái mặt ảnh bầm tím đủ 5 ngón tay. Cháu hỏi ảnh không nói nhưng cháu biết. Đêm đó có người đi ngang nhà nói vọng vô với cháu: “mầy vố cho nó một phát bên kia là dấu bên này lặn mất chớ gì!” Rồi họ cười với nhau: “Ăn quen chồn đèn mắc bẫy là vậy đó!” Hương Quản ổng biết ra thì chuyện còn lôi thôi nữa cà! Rồi bữa sau có người mách thuốc chữa chỗ bầm cho ảnh.

- Thuốc gì đó! - Ông Bầu hỏi.

- Thuốc càng đặt vào thì vết bầm càng lộ ra đen hơn bác à!

- Thầy nào cho toa vậy?

- Họ biểu cháu ra mấy gốc so đũa sau nhà, vạc lấy vỏ đâm nhuyễn rồi đắp xác lên chớ đâu có thầy bà gì!

Ông Bầu suýt cười ré lên nhưng nín kịp. Ông bảo:

- Đó là mấy thằng đực nó chơi khăm chồng mày đó.

- Chơi khăm là sao bác?

Ông Bầu nửa nghiêm nửa đùa:

- Vậy mày không biết con gì ham ăn lá so đũa hay sao?

Vợ Kình mới vỡ lẽ ra. Ông Bầu bảo:

- Mày phải tề đầu tề đuôi nó bớt đi. Vô cái nghề này mà cứ láu ta láu táu không nghiêm trang thì có ngày Lý Nguơn Bá đập chuỳ sắt lên đầu hay La Thành lụi cho lủng ruột đó.

Vợ Kình nói:

- Ảnh quen thói đó rồi. Cháu nói ảnh đâu có thèm nghe! Để cho tụi con nít chúng nó đặt vè cười cho ê mặt… “Thấy l… lạ như quạ thấy gà con” cho đáng cái đời…

- …Thằng “kép nhứt”. Nhưng tao khuyên bây đừng có ngầy ngà nó! Hổng lẽ mỗi lần đạp cứt mỗi lần chặt chưn thì đàn ông trên thế gian này đâu có đủ cho bày chọn…

° ° °

Đám công gặt bu chung quanh ông Bầu. Một người nói:

- Bác để tụi tôi gặt thế cho. Bác cứ kể chuyện tuồng cho tụi tôi nghe là đủ bù lại.

Một người khác lại hỏi:

- Làm kép hát khó không bác?

Mỗi người một câu như bao vây ông Bầu, ông chưa biết trả lời cách nào thì một người lại hỏi:

- Hiện giờ bác có bao nhiêu tuồng ruột tất cả?

Ông Bầu đang lim dim mơ màng, bỗng giựt mình khi nghe câu này. Chính ra ông cũng không biết ông có bao nhiêu tuồng. Câu hỏi làm ông tỉnh giấc. Ông ngồi dậy bới lại cái đầu tóc rồi bấm bấm ngón tay, lẩm nhẩm tính:

- Phàn Lê Huê là một, Thần Nữ dâng Ngũ Linh Kỳ là hai. Tôn Tẩn hạ san là ba, Tôn Tẩn giả điên là bốn, Đào Tam Xuân loạn trào là năm, Trảm Trịnh Ân là sáu, Tiết Nhơn Quí chinh đông là bảy, Tiết Đinh San chinh Tây là tám, Trụ Vương thiêu Minh là chín, Đắc Kỷ thọ hình là mười…

Ông Bầu bấm hết mấy ngón tay rồi kêu lên:

- Ôi thôi, còn nhiều lắm, kể không xiết đâu.

- Bác rán rặn ra coi tới hai chục tuồng hay không?

Ông Bầu lại đếm tới ngón chưn:

- Giang Tả cầu hôn, Phụng Nghi Đình, Phong Ba Đình, Tiết Cương viếng Thiết Khưu Phần, Tiết Giao đoạt ngọc, Võ Đông Sơ Bạch Thu Hà, Đơn Hùng Tín, Cao Hành Châu qui vị, xử LăngTrì Hàn Tố Mai, Hàng Phụng dạo Long Xa, … đúng 20 tuồng rồi đó.

- Còn nữa hết bác?

- Còn chớ! Quan Công phục Huê Dung Đạo, Triệu Tử đoạt ấu chúa, Tam anh chiến Lữ Bố, Quan Công đắp đập bắt Bàng Đức,Hoa Đà mổ óc Tào Tháo, Tây Thi Phù Sai, Việt Câu Tiễn phục thù, Mổ tim Tỷ Can (Rau Vô Tâm), Bao Tự đùa với lửa, Nhạc Phi Tần Cối, Tiết Nhơn Quí lấy Ma Thiên Lãnh…

Một người hỏi:

- Nhiều tuồng như vậy làm sao bác hát cho hết?

- Hát từ từ mỗi đêm một tuồng chớ phải hát luôn một đêm hay sao?

Một người khác lại hỏi:

- Tuồng ở đâu mà nhiều dữ vậy hả bác?

- Thì của mấy ông thầy tuồng đặt ra chớ đâu. Tao nghe hát riết rồi quen tai đâm ra thuộc chớ có ai dạy dỗ gì!

- Thầy tuồng như bà “Nhưn” đó hả bác.

- Có gánh hát theo xưa thì người gọi chủ gánh hát là ông Bầu, bà Bầu, còn thầy tuồng thì gọi là ông Nhưn, tuỳ theo ý thích.

Một người khác lại hỏi:

- Bác đi hát hồi nào vậy bác?

- Hồi nào thì không nhớ, chỉ nhớ là còn nhỏ tuổi lắm!

- Ai dẫn bác theo ghe hát vậy?

- Đi đại xuống ghe rồi theo luôn người ta chớ không có ai dẫn hết.

Trời trưa nắng gắt, đám công gặt tìm bóng mát dưới hàng trâm bầu nằm nghỉ. Vài ba tiếng cu buông dòn tan trên ngọn tre trong xóm. Mấy chú diều hâu giăng cánh thả lửng lơ trên nền trời như những lá buồm trên mặt biển không gió. Những vuông lúa chưa gặt vàng rực toả hương nồng ngát.

Người vùng này đã ghiền với những truyện, những tuồng của ông Bầu cho nên hễ đúng trưa thì họ mon men tìm ông Bầu để nghe kể tuồng tích. Ai cũng nằm nghỉ được chớ ổng có nghỉ được đâu. Biết vậy nên có nhiều người tình nguyện gặt thay để ông kể chuyện cho nghe.

- Mười cái vòng hái đi qua một lượt là xong một công cho bác.

Và họ làm thật. Họ kéo tới “trả công” kể truyện cho ông Bầu.

- Kể đi bác. Kể cái lúc Tiết Đinh San lên núi cầu Phàn Lê Huê đó.

Ông Bầu cất giọng:

- Nêu muốn hát cho đúng điệu thì phải hát tuồng “Tiết Đinh San cầu Phàn Lê Huê” trước rồi mới hát tuồng “Thần Nữ” sau. Nhưng bà con ở làng này đã thuộc cháo chan mấy sự tích này rồi nên hát cái nào trước cũng được. Cũng tỉ như bánh bánh tét ăn cái nào thì cũng vô bụng ráo trọi.

… Sau khi Phàn Lê Huê “tru huynh sát phụ” rồi thì mở cửa ải Hàn Giang ra rước quân Đường vào. Phàn Lê Huê biết đây là thiên mệnh đã định Thầy đã dặn không được cãi lại chớ không phải nữ tướng tài ba này rắp tâm đầu hàng kẻ địch. Nhưng Tiết Đinh San sau khi thề thốt cho qua truông rồi trở mặt. Khi Lê Huê dàng thành qui thuận nhà Đường thì Đinh San không nhận làm lễ thành hôn. Trình Giảo Kim lúc bấy giờ đang làm nguyên soái thay cho Tần Thúc Bảo mới chết bất ngờ.

- Tại sao ổng chết vậy bác?

- Ờ, chú em hỏi cũng có lý. Nguyên soái sao lại chết bất ngờ? mà lại chết ở tại triều? Số là lúc bấy giờ vua Đường Thái Tông sắp chinh Đông nên muốn chọn nguyên soái. Tần Thúc Bảo đang giữ soái ấn, nghe thế thì tự ái. “Bộ ta không đủ sức chinh Đông hay sao?” bèn không chịu giao ấn lại cho vua. Nhưng vua biết Tần Thúc Bảo đã ngoài 60, đã từng nâng vạc đỡ thành 3 triều tiên đế, nay sức đã yếu, làm sao chinh phạt nổi rợ Hồ đường xa vạn dậm lại phải vượt biển trèo non. Trước lòng trung quân ái quốc của lão tướng họ Tần, vua không biết khuyên bảo cách nào. Tần Thúc Bảo thấy con Kim sư (sư tử bằng đồng) trước sân chầu bèn tâu: Nếu hạ thần không cử nổi con kim sư nặng ngàn cân này đi ba vòng sân thì thần mới đành giao lại ấn soái cho người khác. Vua phán chịu. Tần Thúc Báo xăn tay áo bước tới nắm chân con kim sư để cất lên, nhưng không lay nổi. Bèn ráng sức dùng cả hai tay nhấc bỗng lên nhưng chỉ đi được vài bước thì ngất xỉu và hộc máu bất tỉnh.

Đám công gặt nhao nhao lên hỏi:

- Ồng có sao không bác Ba?

- Thong thả để tôi kể tiếp…. Ông biết lão lai thì tài tận nên đem ấn soái lại dâng trả vua.

- Rồi vua trao cho ai bác Ba?

- Trong đám tướng trẻ có Tần Hoài Ngọc cử nổi con kim sư và đi ba vòng.

- Tần Hoài Ngọc là ai mà giỏi vậy bác Ba?

- Hề hề, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Tần Hoài Ngọc chính là con trai của Tần Thúc Bảo. Sau khi thổ huyết, Tần Thúc Bảo qua đời. Vua xuống chiếu cho Tần Hoài Ngọc lo việc tang chế cho cha rồi hãy lãnh ấn soái. Trong thời gian này, vua phong cho Trình Giảo Kim tạm thời giữ ấn soái! - Bác Ba dừng lại và cười một tràng dài - Xóm mình có “ông Giảo” đó. Đó là ông già Tàu làm ruộng lâu đời nhất ở đây như tôi biết. Giảo Kim sống qua 8 triều vua và thọ đúng 100 tuổi. Ông Giảo có các đặc điểm là phước tướng chớ tài năng thì không bằng La Thành hoặc Tần Thúc Bảo. Cho nên trong các anh hùng thời Thuyết Đường người ta xếp hạng Lý Ngươn Bá anh hùng số 1, Võ Văn Thành Đô số 2, Bùi Ngươn Khánh thứ 3, Đơn Hùng Tín số 4, Ngũ Vân Thiệu sô 5, Tần Thúc Bảo số 6, La Thành số 7 v.v… chớ không có Trình Giảo Kim..! Nhưng, như nói lúc nãy Giảo Kim thuộc loại phước tướng, không chết trận, không lập công to nhưng trong lúc gieo neo thì có Giảo! Giảo Kim dùng cặp búa đồng rất lợi hại, nhưng một buổi nọ Giảo vô nằm trong miếu ngủ trưa rồi quên hết, chỉ còn có 3 miếng tổ thôi. Ra trận hễ tướng giặc đụng Giảo Kim thì chỉ có 2 cách: một là bỏ chạy, hai là cố sức đỡ cho được 3 búa đầu là xong. Qua đến búa thứ 4 thì nhẹ như trò chơi con nít. Tha hồ mà phản công.

Nhưng Giảo Kim đã từng làm soái được một thời gian và làm vua được 100 ngày và được quần thần tung hô Trình thiên tuế đó chớ! Chuyện Tàu nó vòng vo tam quốc vậy đó bà con à. Kể chuyện này bắt qua chuyện kia!

- Kệ nó, bác cứ kể hết đi.

- Rồi vụ đám cưới Phàn Lê Huê ra sao?

Ông Bầu tiếp:

- Lúc đó Tiết Nhơn Quí đã chết, nên ông Giảo mới thay mặt đàng trai. Nhưng Đinh San lại bắt buộc phải cưới mà không chịu nhập phòng. Lê Huê hận đời mới bay luôn về núi ở với mẹ.

Lúc bây giờ binh Đường bị nguy khẩn cần cứu nguy. Cố nhiên là cần một tướng tài ba. Đó là Phàn Lê Huê. Bây giờ phải đi cầu Phàn Lê Huê. Giảo Kim phải đích thân đi với Đinh San. Nhưng cách hành quân này cũng lạ đời “nhứt bộ nhứt bái nghĩa là tay bưng khay rượu nâng lên ngang mày đi một bước, lạy một lạy, cho đến lúc tới nhà Lê Huê mới thôi. Hai bác cháu leo núi rụng giò mới đến. Nhưng Lê Huê đã chết rồi.

- Ủa, sao kỳ vậy. Mới thấy đó lại chết.

- Đó là bà Nhưn đóng vai Lê Huê, chớ không phải Lê Huê. Nếu là Lê Huê thì bả đâu có tát thằng con nuôi một phát sếu hàm vậy.

- Thôi, kệ nó, tiếp đi bác Ba!

Ông Bầu tiếp:

- Giảo Kim dắt Tiết Đinh San lên trầu rượu xin tội với đàng gái để rước Lê Huê thì thấy một chiếc quan tài nằm chình ình giữa nhà, liễn đôi và bàn thờ tang mới tinh. Giảo Kim quát Tiết Đinh San quì xuống lạy. Thằng nhỏ vừa cuốc vừa khóc. Hồi người ta muốn lại gạt ra, bây giờ muốn người ta, người ta không muốn. Xách cặp dừa đi xuống đi lên là vậy đó.

- Lê Huê chết thiệt sao bác Ba?

Ông Bầu cười:

- Nếu nó chết thiệt thì sao còn lòng thòng cái vụ "Ngũ linh kỳ” mậy! Đinh San đang mếu khóc thở than thì bỗng một tiếng nổ vang trời, khói bốc mịt mù. Trong màn khói Lê Huê hiện ra, đưa tay trỏ mặt Đinh San, quát “kẻ bạc tình đừng có đến đây than than khóc khóc làm chướng tai ta. Hãy về đi cho khuất mắt!”. Mẹ của Lê Huê cũng nhiếccon gái, nhưng sự thực là mắng bác cháu Giảo Kim: “Mầy đã giết cha anh mầy để theo gã bạc tình, bây giờ còn muốn gì nữa? Sao không đuổi hai kẻ bất nghĩa này ra khỏi nhà tao”. Hì hì! Nhưng mà Lê Huê nó bị Đinh San bắt mất hồn gặp lại đây là mừng như hoá kiếp, làm sao đuổi nổi. Nói gì thì nói cột kèo cũ không rủ cũng về mà! Cuối cùng rồi ông Giảo rót rượu nói dăm câu là bà mẹ chịu cho con gái đi theo. Chớ giữ ỏ lại cho nó ở vá à?

Một người vọt miệng nói:

- Ở vá trên núi thì… da thịt cứng như đá há há.

Ông Bầu nói:

- Bà con thấy hồi xưa người ta cũng có những mối tình dữ dội chớ không vừa. Con gái theo trai can không lại chớ đâu phải bày giờ mới có. Nhưng không hiểu sao hồi xưa đàn bà con gái có tài hơn bây giờ. Ở bên Tàu làm những chuyện động trời toàn là nữ tướng. Đời Đường thì có Võ Hậu, Điêu Thuyền, Dương Quí Phi, Phàn Lê Huê, Lưu Kim Đính, Thần Nữ,… đời Tống thì có Thoại Ba, Hàn Tố Mai, Đào Tam Xuân, đời Châu thì có Bao Tự, đời Thương thì có Đắc Kỷ… mấy con gà mái này đá đám gà cồ chạy tét.

Một người chêm vô:

- Bây giờ cũng vậy chớ khác gì, bác Ba. Như bà Nhưn xán một bạt tai vô mặt thằng Kình vậy.

Ông Bầu nhìn bóng trâm bầu ngã dài trên bờ ruộng và nói:

- Thôi, trở lại ruộng đi, kẻo tới chiều còn bỏ cù miếng lúa này, đêm nay chuột phá hết.

Một người khác nói:

- Để nguyên cụm lúa này tối nay bà con đuổi bắt ốc cau, chằng nghịch, dỏ dẻ quay nước dừa nhậu chơi bác Ba.

- Ờ phải đó, mùa này chim ăn lúa mập lút, cái ức nó ưỡn như ức con gái vậy đó. Nướng lửa than chảy mỡ kêu xèo xèo. Mình vừa nhai cặp giò dỏ dẻ đưa ly và nghe bác Ba kể tiếp. Chuyện gì bây giờ bác Ba.

- Mấy chú coi trong mấy chục tuồng tôi kể tên hồi nãy đó mà lựa ra, chớ tôi biết đâu mà kể?

- Bác Ba kể truyện gà mái đá gà cồ đi. Đào Tam Xuân nghe bác?

Ông Bầu cười:

- Sao tụi thanh niên lại thích chuyện bị gà mái đá.

- Gà mái không có cựa, đá không đổ máu bác à.

- Tụi bây gặp con gà mái họ Đào thử coi có đổ máu không? Nhưng mà được, để mai tao kể vụ Đào Tam Xuân rượt bắt Hàn Tố Mai trốn dưới ngai vàng cho tụi bây nghe.

Một người đang nằm bỗng bật đứng dậy vươn vai, ngáp dài và nói:

- Nghe Tiết Đinh San đi cầu Phàn Lê Huê, mình cũng muốn mơ tiên luôn.

Một người cười:

- Nhứt bộ nhứt bái, chắc mệt dữ hả, đâu coi thử cặp đầu gối trầy.

- Hì hì, sẵn đìa kia tắm luôn cho mát.

Cả bọn cười rộ kéo xuống ruộng lúa vàng rực

° ° °

Rạp Bầu Lúa thu hình dưới những tàn lá mù u rậm rạp. Đã được dựng lên từ nhiều năm, lại chịu nắng mưa và không mấy khi được tu bổ, nay nó xệu xạo như lão già sắp chầu trời. Vừa rồi ông Bầu mới vá sàn sân khấu bằng mấy tấm ván trong nhà. Vãn hát lại mang vào lót y như cũ mới có đủ chỗ ngủ cho sắp nhỏ.

Mùa khô mấy đứa trai hát xong lăn ra ngủ luôn tại rạp, chỉ hiềm một nỗi là cái sườn ọp ẹp nên trong những tuồng đánh phép, tiên ông tiên cô không bay được vì móc dây trên nóc, tiên bay sẽ sập mất cho nên ông Bầu nảy ra ý kiến là giăng dây trên những nhánh u như những cánh tay choàng qua nóc. Tha hồ cho tiên bay. Phông màn thì sơn phết chắp vá như một cái áo cũ. Nhưng có phong cảnh thì mới thành màn hát, nếu không thì diễn luôn ngoài trời cho tiện. Nhưng nếu hát ngoài trời, rủi bị mưa thì làm sao? Khán giả tan hàng đã đành, đào kép cũng không khỏi ướt. Người sao, của vậy. Bà con có muốn xét lý lịch Bầu Lúa thì xin đọc những dòng này.

Tôi là Bầu Lúa sanh năm… tại ấp Bánh Tét, xã Cầu Chông, cha mẹ mất sớm đi hoang hồi 8 tuổi. Số là năm đó mất mùa nặng. Bà con trong làng đói nheo nhóc. Một gánh hát tên là Phùng Kỳ đến hát tại nhà lồng chợ. Đêm đầu được 14 khán giả gồm có 6 vị hương chức trong đó có 5 vị được mời (nghĩa là coi không tốn tiền) còn một vị cũng khỏi mua vé. Đó là vợ của ông Cai, người giữ an ninh cho làng xã. Vị chi là phân nửa là khách coi cọp. Còn một nửa thì gồm có bốn đứa con nít và hai cặp vợ chồng có vẻ sang trọng. Bốn đứa con nít thì lại chun vải bao rạp lọt vô được bên trong. Nhân viên xét vé muốn tống chúng ra, nhưng ông Bầu thấy bên trong toàn là ghế trống nên để cho chúng muốn ngồi ghế nào cũng mặc xác. Đám tiểu yêu chợ này, không có ai dám động tới. Chúng phá thành tinh. Các gánh hát Sơn Đông mãi võ tới dọn đồ lễ ra sắp hát thì chúng đâm thủng trống. Còn cải lương đến thì chúng chui vô trong để phá chơi hơn là coi hát. Tên gánh hát rất đẹp (Phùng Kỳ) nhưng chúng kêu là “Phùng mang”.

Một đêm nọ gánh hát đậu giàn khá khá. Khán giả đang xem tuồng Bao Công Xử Án Quách Hoè. Đến màn Bao Công thiết lập toà án dưới Âm phủ để tra hỏi Quách Hoè, đèn được che bớt ánh sáng. Mấy con quỉ hà nàm nhân dịp đó, bèn mở những lon phép ra. Bên trong chứa những bồ cào lẫn trong một thứ nước đặc biệt, chú bồ cào bị nhốt trong lon bây giờ được thả ra, tha hồ bay vi vút ngang dọc, đụng đâu đáp đó. Chẳng bao lâu quan khách đều sờ tay lên đầu và bắt xuống được ít nhất một chú bồ cào, hoặc trúng tóc ươn ướt và xét nghiệm bằng mũi cái mùi đặc biệt kia. Trong số đó có chú bé sau này trở thành Bầu Lúa. Nhưng cũng hãy còn dài, cái tiểu sử ly kỳ của chúng. Sự phá phách không làm cho chúng no hơn chút nào, nhưng đó là bản tánh của con nít. Phá chơi cho vui chớ không để làm gì và cũng không thù oán ai.

Đói vẫn đói. Gánh hát không thu tiền đủ để trả lương cho đào kép nên phải lui ghe đi tìm mối khác. Khi chèo được một lúc thì viên tài công thấy từ dưới khoang hầm nhô lên một đứa bé. Nó kêu đói và được chủ cho ăn cơm nguội uống nước sông, rồi nó trở thành nhân viên bá nghệ của đoàn, không lãnh lương. Gánh hát đi đâu nó theo đó. Vác ghế, quét rạp, kéo màn, nấu cơm, rửa chén, việc gì nó cũng làm với sự hăm hở và tự nguyện.

Một hôm vắng một tên chạy hiệu. Nó được ông chủ cho “đóng vai” đó. Thứ cái đồ quân chạy hiệu khỏi phải hát hò gì. Cứ mặc quần áo nẹp xanh nẹp vàng, đầu đội mão không ra mão, mũ không ra mũ cứ thế đâm bổ ra sân khấu, nếu vấp té càng hay, cứ la toáng lên. Ông tướng không cần nghe tiếng nào cũng biết đó là: “Thậm chí nguy thậm chí nguy! Lửa cháy 1… dì chạy về báo dượng…” hoặc là “Trước mặt non cao chớn chở, sau lưng địch quân tở mở đuổi theo…”

Ông nguyên soái chưa nghe ra môn ra khoai đã tống cho thằng nhỏ một đạp rồi vừa vung râu, vừa đá giáp, co một chân lên, quay luôn ba vòng và la hát inh ỏi.

Tên quân hiệu vào trong cánh gà dòm ra sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ. Thế cho nên người ta bảo quân chạy hiệu là quân chạy xạo (chạy xạo không gạo mà ăn). Một hôm khác nó được thằng bạn chí thân nhờ nó kéo giùm màn, vì nó bị Tào Tháo đuổi. Thằng bé cầm mối dây đứng chờ… nhưng màn hát mặt đỏ đánh mặt đen, mê quá nó quên mất nhiệm vụ thiêng liêng của nó cho đến lúc buông màn mà nó vẫn còn đứng trơ mắt ếch ra mà nhìn.

Bốp! Một “bạt tai thấy hai ông trời” hơn cả cái của bà Nhưn tặng thằng Kình.

Bỗng một hôm, đời nó lên hương tí xíu. Số là anh kép đóng vai gác cổng dinh thừa tướng. Vai này có đối đáp vài câu chớ không có ca. Nó đóng đạt 100%, nhưng mặc dù được khen, nó vẫn còn làm việc không lương. Rồi nó lớn. Một hôm ông thầy tuồng nhìn thấy khả năng của nó loé lên ông bèn giao nó thủ vai một đứa đày tớ của một võ tướng có vài đoạn đối thoại và mang gói, cầm roi dắt ngựa (giả) nó đều làm tạm được. Ít tháng sau nó được đóng vai lính hầu Tiết Cương. Chả là Tiết Cương bị giặc đuổi rượt, nhưng phải dắt bà vợ có bầu là Lan Anh theo. Lan Anh cũng có một đứa tớ gái. Tớ trai tớ gái trêu chọc nhau bằng những lời thường và cuối cùng có một bài Kim Tiền (đứa ca một đoạn) nó đều hoàn thành trên trung bình cả. Bây giờ tìm cách đóng vai khó hơn thì cơ may đến với nó hơn nó tưởng. Ông thầy tuồng bắt nó đóng vai Bàng Hồng trong tuồng Xử Án Bàng Quí Phi. Vai này là vai phụ bên các vai Bao Công, Tống Nhơn Tôn, nhưng khó, vì nó phải làm ông già râu dài, mặt nhăn cóp. Râu và mặt thì hoá trang dễ, nhưng còn giọng nói thì không phải ai cũng làm được. Nhưng ông thầy tuồng tập cho nó rồi nó cũng làm được Bàng Hồng không kém gì hai tiền bối của nó bao nhiêu.

Lại đến một vai khác. Nó phải thủ diễn thay cho một cô đào. Gái giả trai thì dễ chỉ cân lên gân cổ một chút và vẽ râu chuột là ra dáng con trai rồi. Nếu ngực có căng phồng thì đè nó xuống. Như Quách Hải Thọ trong tuồng Lý Thần Phi trong lò gạch, một nàng có con vẫn đóng được. Lần này thì thầy tuồng bắt nó thủ vai Lưu Yến Ngọc trong tuồng Mạnh Lệ Quân thoát hài. Lưu Yến Ngọc là một vai phụ bên cạnh Mạnh Lệ Quân, nhưng dù sao trai giả gái cũng khó hơn gái giả trai. Không hiểu tại sao ông thầy lại giao cho nó một vai kỳ quái như thế trong lúc cô đào thủ vai Lưu Yến Ngọc vẫn phây phây ra đấy? Nó bèn nại ra nhiều lý do để thối thoát.

- Mặt mũi tôi đực rõ ràng chớ phải tôi lại cái hay sao thầy?

Ông thầy gạt ngang:

- Kép 60 tuổi vẫn đóng vai con gái 18 được nghe mậy.

Nó cãi tiếp:

- Còn cái giọng ồ ề như ngỗng kêu thì làm sao thầy.

- Được rồi. Tao có cách!

Chối không xuôi, nó đành phải nhận. Và nó làm tiểu thư họ Lưu cũng ăn đèn lắm.

Dần dần nó hiểu ra là ông thầy muốn đào tạo nó thành kép có nhiều khả năng. Mà nó có nhiều khả năng thật. Vai nào nó thủ cũng trên trung bình.

Thế là nó thành kép chánh. Cô đào đóng vai Lưu Yến Ngọc đâm ra thích nó rồi mê nó. Rồi hai đứa lấy nhau thành vợ chồng.

Nó không biết đọc nhưng nghe tuồng qua vài lần là nó thuộc hết. Tuồng nào của gánh hát nó cũng nằm lòng. Và vai nào nó đóng cũng được Nó thích tất cả các vai trừ vai vua. Không gì dễ bằng làm vua.

Nhưng bỗng một hôm nó muốn làm thầy tuồng. Nó thấy thầy tuồng cũng dễ làm thôi. Nó quyết học làm thầy tuồng để dạy người khác làm tuồng.

Khi nó có ba đứa con thì nó thấy sự chật vật của gia đình nhất là mỗi khi gánh hát dời chỗ. Trong ban có một đứa bé té sông uống nước chết. Ông Bầu phải làm đám cúng tế vì sợ có noi cho gánh hát.

Vợ chồng nó quyết định rời gánh hát đem con cái về quê sống hẳn một nơi trên đất liền. Nơi đó là kinh Bánh Tét hiện nay.

Kinh Bánh Tét trước kia là một vùng đất hoang. Một ông điền chủ nộp đơn khai khẩn rồi thuê người đào kinh cho nước rỏ phèn. Ban đầu chỉ lèo tèo mấy ngôi chòi. Khỉ là bạn, rắn rùa là thức ăn của họ. Trên bản đồ mới của vùng này kinh Bánh Tét là một đường thẳng một đầu đổ ra rạch Tân Huề, một đầu gối lên sông Mỹ Hưng. Ghe xuồng qua lại giữa hai con sông này không phải đi vòng nữa vì có con kinh Bánh Tét làm đường tắt, cho nên dân trong vùng cũng còn gọi kinh Bánh Tét bằng Kinh Tắc (tắt) hay Cái Tắc (tắt).

Nhiều người ở xa tới nghe danh từ Bánh Tét đã buột miệng nói:

- Đi qua con kinh này không sợ đói bụng.

Nhà ông Bầu Lúa cất trên bờ kinh này. Ngày nay bờ Kinh đã thành vườn tược sum sê, không còn tìm ra dấu vết của một vùng đất hoang nữa. Cầu khỉ nối liền hai bờ ở nhiều chặng. Có cả một cây cầu đúc làm thời ông chủ còn sanh tiền người dân gọi là Cầu Ôn