← Quay lại trang sách

Phần III Vực thẳm

dịch giả:phạm xuân thảo

Phần III

vực thẳm

àng đứng nơi lối đi dành cho khách bộ hành trên cầu Key Bridge, đôi tay dựa trên thành cầu, bồn chồn, chờ đợi, trong khi xe cộ trên đường về nhà nghìn nghịt đàng sau nàng, trong khi những người lái xe canh cánh bên lòng những nỗi ưu phiền thường nhật cứ bóp còi tí toe, những vè cán xe cứ thúc vào nhau với những cái cọ quẹt ơ hờ. Nàng đã gặp Mary Jo, đã nói dối với bà ta.

“Regan khỏe ạ. Nhân tiện, tôi đang định tổ chức một dạ tiệc khác. Tên vị bác sĩ tâm thần học Dòng Tên ấy là gì nhỉ? Có lẽ tôi sẽ ghi ông ta vào danh sách các khách mời”.

Có tiếng cười hắt lên từ phía dưới nàng, một đôi tình nhân trẻ mặc jean xanh trên một chiếc xuồng thuê bao. Bằng một cử chỉ bứt rứt, nóng vội, nàng gẩy tro trên điếu thuốc lá và ngước nhìn lối đi của khách bộ hành trên cầu chạy về hướng đặc khu. Có ai đó hối hả tiến đến nàng, quần ka-ki và áo len màu lam. Không phải một linh mục, không phải ông ta rồi. Nàng lại đảo mắt nhìn xuống sông, nhìn vào nỗi bơ vơ lúng túng của nàng đang xoáy lốc sau làn nước từ chiếc xuồng màu đỏ tươi. Nàng có thể đọc được tên chiếc xuồng kẻ dọc bên lườn: Caprice.

Có tiếng bước chân. Người đàn ông mặc áo len đến gần hơn, bước chân lơi chậm lúc ông tới chỗ nàng. Nhìn liếc ngang, nàng thấy ông ta tựa một cánh tay trên thành lan can, nhanh chóng, nàng quay đầu về phía Virginia.

“Tiếp tục đi đi, tên thô bỉ kia”, nàng quát tháo ông ta, giọng khàn khàn, vừa búng điếu thuốc xuống sông. “Nếu không, thề có Chúa, tôi sẽ hô hoán cảnh sát đến đấy”.

“Cô MacNeil? Tôi là cha Karras”.

Nàng giật mình, đỏ mặt, quay thoắt lại. Cái gương mặt thô kệch, nhằn nhện đó. “Ôi lạy Chúa! Tôi là... Giê-su ơi!”

Nàng giật cặp kính mát ra, luống cuống, rồi đẩy ngay mục kính trở lại lúc đôi mắt tối tăm, buồn thảm kia dò xét nàng.

“Lẽ ra tôi cần phải thưa trước với cô là tôi không mặc áo dòng. Xin lỗi”.

Giọng ông nâng niu như lời ru, cởi mở cho nàng hết các gánh nặng, còn đôi bàn tay mạnh mẽ của ông khẽ chắp lại. Đôi tay to lớn nhưng lại nhạy bén: những bàn tay của Michelangelo đầy gân. Chris cảm thấy một cách nào đó, tia nhìn nàng bị hai bàn tay đó thu hút ngay lập tức.

“Tôi nghĩ như thế có lẽ đỡ lộ liễu hơn nhiều”, ông nói tiếp. “Dường như cô rất quan tâm muốn giữ cho chuyện này được kín đáo”.

“Tôi ngỡ lẽ ra tôi phải quan tâm đừng có biến mình thành một con lừa như thế này”, nàng phản bác, vội dọ dẩm trong chiếc ví tay. “Tôi cứ ngỡ cha là...”

“Người?” ông chen vào với một nụ cười.

“Tôi đã rõ điều đó khi tôi gặp cha vào một ngày đó trong khuôn viên đại học rồi”. Nàng vừa nói vừa lục lạo mấy túi áo quần “Chính đó là lý do khiến tôi đã gọi cha. Cha có vẻ người”. Nàng ngước lên thấy ông đang ngắm đôi tay nàng. “Cha có thuốc lá chứ, thưa cha?”

Ông thọc tay vào túi áo sơ mi. “Cô hút thuốc không đầu lọc được chứ?”

“Ngay lúc này thì thuốc lá hạng bét tôi cũng hút nữa là”.

Ông khẩy một điếu Camel ra khỏi gói thuốc. “Với trợ cấp của tôi, tôi vẫn thường xuyên hút thuốc hạng bét”.

“Lời khấn nguyện sống nghèo khó”, nàng thì thầm lúc rút điếu thuốc, mỉm cười, vẻ căng thẳng.

“Một lời khẩn nguyện sống nghèo khó có nhiều công dụng”, ông bình luận, cho tay vào túi tìm diêm.

“Chẳng hạn những công dụng gì?”

“Lời khấn sống nghèo khó làm cho thuốc lá rẽ tiền hút thấy ngon hơn”. Một lần nữa, ông khẽ phát một nụ cười nữa miệng lúc nhìn bàn tay nàng cầm điếu thuốc. Bàn tay đó run rẩy. Ông trông thấy điếu thuốc chao đảo theo những nhịp giật nẩy rõ nhanh, thất thường và không ngừng, ông giật điếu thuốc khỏi tay nàng rồi gắn lên miệng ông. Ông đốt thuốc, hai tay khum che lấy que diêm. Ông bập bập điều thuốc. Trao điếu thuốc lại cho Chris, ông dõi mắt ngắm xe cộ ngược xuôi qua cầu. “Dễ chịu hơn nhiều. Gió thoảng đến từ dòng xe cộ lưu thông”, ông bảo nàng.

“Cám ơn cha”.

Chris nhìn ông với vẻ đánh giá, với lòng biết ơn, thậm chí với niềm hy vọng. Nàng biết điều ông vừa làm. Nàng nhìn lúc ông đốt điếu thuốc lá cho chính mình. Ông quên khum đôi tay. Lúc ông thở khói ra thì mỗi người đã tì một khuỷu tay lên thành cầu.

“Cha quê ở đâu, thưa cha Karras? Nguyên quán ấy?”

“New York”.

“Tôi cũng thế. Dù chẳng bao giờ trở về. Còn cha?”

Karras cố dằn nỗi nghẹn ngào đang dâng lên cổ họng. “Không, tôi cũng không trở về”. Ông cố phác một nụ cười. “Nhưng tôi không phải tự quyết định những việc đó”.

“Chúa ơi, tôi ngốc quá. Cha là một linh mục. Cha phải đi nơi nào họ phái cha đi”.

“Đúng thế”.

“Làm thế nào một bác sĩ tâm thần lại trở nên một linh mục được?” nàng hỏi.

Ông nôn nóng muốn biết vấn đề cấp bách mà nàng đề cập đến khi gọi điện thoại cho ông là chuyện gì. Nàng đang dò đường, ông có linh cảm đến điều gì đây? Ông không được thúc bách. Cứ để cho nó đến... nó sẽ đến thôi.

“Vấn đề hoàn toàn ngược lại”. Ông nhẹ nhàng chỉnh nàng. “Hội...”

“Ai cơ?”

“Hội của Đức Chúa Giê-Su. Gọi tắt là Dòng Tên”.

“Ồ, tôi hiểu”.

“Hội đã cử tôi đi học y khoa và môn tâm thần học”.

“Ở đâu?”

“Ồ, thì ở Harvard, II Johns Hopkins, Bellevue”.

Ông chợt nhận ra là ông muốn gây ấn tượng với người phụ nữ này. Tại sao vậy? Ông tự hỏi, và lập tức ông nhìn thấy câu trả lời ngay trong những xóm nhà ổ chuột cũ thời thơ ấu ông, trong những bao lơn các rạp hát ở Mạn Dưới Khu Đông. Nhỏ Dimmy với một ngôi sao điện ảnh.

“Không tồi”. nàng nhận xét, gật đầu.

“Chúng tôi đâu phải khấn nguyện sống nghèo khó về mặt tinh thần”.

Nàng cảm nhận được một nét chạnh lòng, nàng nhún vai, quay ra trước đối diện với dòng sông. “Coi kìa, chỉ đơn giản là vì tôi chưa biết cha thôi, và...” nàng rít một hơi thuốc, dài và sâu, rồi phà khói ra, dụi tắt mẩu thuốc vào thành cầu. “Cha là bạn của cha Dyer, đúng chứ?”

“Phải, đúng như vậy?”

“Khá thân?”

“Khá thân”.

“Ông ấy có kể về bữa tiệc đó không?”

“Ở nhà cô ấy à?”

“Ở nhà tôi”.

“Vâng, ông ấy bảo là cô có vẻ người”.

Nàng bỏ qua chuyện đó, hoặc giả làm như không biết tới. “Ông ấy có nói về con gái tôi không?”

“Không, tôi không biết là cô có một người con gái”.

“Con bé được mười hai tuổi. Ông ấy không đề cập gì đến con bé sao?”

“Không hề”.

“Ông ấy không kể cho cha nghe về điều con bé đã làm sao?”

“Ông ta chẳng hề động gì đến cô bé cả”.

“Vậy ra các linh mục giữ mồm giữ miệng kín thật, đúng không?”

“Cũng còn tùy”. Karras trả lời.

“Tùy gì cơ?”

“Tùy ở vị linh mục”.

Bồng bềnh bên rìa cõi nhận thức của ông là một lời cảnh cáo phải coi chừng các phụ nữ có những sức hấp dẫn điên loạn đối với các linh mục, các phụ nữ có khát vọng - một cách vô thức và núp dưới lớp vỏ ngụy trang của một vấn đề khác - muốn cám dỗ những đối tượng không thể vói tới.

“Này, tôi muốn nói đến đại loại như việc xưng tội. Cha không được phép nói về việc đó, đúng?”

“Vâng, đúng như vậy”.

“Còn ngoài việc xưng tội ra”, nàng hỏi ông. “Ý tôi muốn hỏi, việc gì sẽ xảy ra, nếu... có...?” Lúc này đôi tay nàng kinh động, run rẩy. “Tôi tò mò... không, không, thực sự tôi muốn biết, ý tôi muốn nói là, nếu có một người nào đó, cứ cho là một phạm nhân đi, như thể là một kẻ sát nhân hay gì gì đó, cha biết chứ? Giả dụ y đến với cha tìm sự giúp đỡ, cha có tố cáo y với cảnh sát không?”

Có phải người đàn bà này đang tìm kiếm lời khuyên chăng? Có phải nàng đang xua tan những nỗi nghi ngờ để dọn mình trở lại đạo chăng? Có nhiều người, Karras biết họ tiếp cận sự cứu rỗi cứ như thể đó là một chiếc cầu khả nghi treo lơ lửng qua một vực thẳm. “Nếu anh ta đến với tôi để tìm kiếm một sự giúp đỡ tâm linh thì tôi xin nói là: không”. Ông đáp.

“Vậy là cha sẽ không tố cáo y?”

“Đúng, đúng vậy, tôi sẽ không tố cáo anh ta. Có điều tôi sẽ cố thuyết phục anh ta tự nộp mình”.

“Và cha sẽ làm cách nào để xin cử hành một nghi lễ đuổi quỷ?”

“Xin lỗi?”

“Nếu có người bị một loài quỷ dữ nào đó ám vào, cha sẽ nghĩ sao về việc xin phép hành lễ đuổi quỷ?”

“À, việc trước tiên là ta phải đặt y vào một chiếc máy thời gian rồi đưa y ngược về thế kỷ mười sáu”.

Nàng chới với. “Cha nói thế là nghĩa gì? Tôi không hiểu ý cha”.

“Vâng thì, đơn giản là việc đuổi quỷ không còn diễn ra nữa, thưa cô MacNeil”.

“Từ khi nào vậy?”

“Từ khi chúng ta hiểu biết về các chứng tâm thần, về chứng hoang tưởng pa-ra-noi-a, chứng bản ngã phân liệt; tất cả những căn bệnh mà người ta đã dạy tôi tại Harvard”.

“Cha đang đùa?”

Giọng nàng chao đảo vì một nỗi thất vọng, bối rối còn Karras thì ân hận vì sự bộp chộp nóng nảy của mình. Nhân đâu ông lại buộc miệng như thế chứ? Lời lẽ nó cứ tự dưng nhảy vọt lên lưỡi ông, chẳng ai khiến cả.

“Thưa cô Macneil, nhiều người Công giáo có học thức”, ông nói với nàng bằng một giọng khoan hòa hơn, “ngày nay không còn tin vào ma quỷ nữa, còn nói về việc đuổi quỷ thì kể từ khi tôi gia nhập Dòng Tên cho đến nay, tôi chưa hề gặp một linh mục nào từng làm phép đuổi quỷ một lần trong đời. Không một ai cả”.

“Cha có phải thực sự là một linh mục không?” Nàng hỏi với một giọng sắc cạnh đầy tuyệt vọng và cay đắng. “Hay là cha xuất thân từ Trung Tâm Chuyên Trách Các Vấn Đề Tâm Thần? Tôi muốn nói là cha nghĩ sao về tất cả những chuyện đuổi quỷ của Chúa Ki-tô được chép trong Thánh Kinh đây?”

Lại một lần nữa ông trả lời hoạt bát, không cần suy nghĩ. “Coi kìa, nếu Đấng Ki-tô mà lại nói với những kẻ bị nghi là quỷ ám rằng họ mắc chứng tâm thần phân liệt, chứng bệnh mà tôi nghĩ là họ mắc phải thật, thì chắc người ta đã đóng đinh ngài lên thập giá sớm hơn ba năm rồi”.

“Ủa, thật vậy sao?” Chris đặt một bàn tay run rẩy lên gọng kính mát, giọng nàng chùng hẳn xuống trong một nỗ lực cố tự chủ. “Đây, câu chuyện là thế này, thưa cha Karras, số là có một kẻ chí thân với tôi có thể đã bị quỷ ám. Cô ấy cần được đuổi quỷ. Cha có vui lòng hành lễ đuổi quỷ không?”

Đối với Karas, mọi sự chợt có vẻ vô thực; cầu Key Bridge phía bên kia sông, cửa hiệu Hot Shoppe, dòng xe cộ lưu thông, Chris MacNeil, ngôi sao điện ảnh. Lúc ông nhìn chăm nàng, cố xoay sở một câu trả lời, nàng tháo kính mát ra và Karras cảm nhận được một vẻ chấn động co rúm, thoáng nhanh trong sắc đỏ hoe, trong nét van vỉ khẩn cầu đến điều đó ở đôi mắt hốc hác ấy. Người đàn bà này đang nói chuyện nghiêm túc, ông nhận ra điều đó.

“Thưa cha Karras, đó chính là con gái tôi”, nàng bảo ông, giọng khàn khàn, “con gái của tôi!”

“Vậy thì lại càng có lý do”, rốt cuộc ông nhỏ nhẹ nói, “để mà quên đi chuyện đuổi quỷ và..”

“Tại sao? Chúa ôi, tôi không còn hiểu gì cả!” Nàng bùng nổ trong một giọng rạn vỡ và cùng quẩn.

Ông nắm lấy cườm tay nàng trong một bàn tay an ủi, dỗ dành. “Trước hết”, ông bảo nàng bằng giọng vỗ về, “điều đó có thể khiến mọi sự trở nên tồi tệ mà thôi”.

“Nhưng như thế nào chứ?”

“Nghi lễ đuổi quỷ có sức ám thị nguy hiểm. Cô thấy đó, có thể gieo cái ý niệm quỷ ám vào nơi trước đó chưa hề có ý niệm đó, hoặc giả đã có rồi, nó có thể làm củng cố mạnh mẽ thêm. Hai nữa, thưa cô MacNei, trước khi chấp thuận một nghi lễ đuổi quỷ, bao giờ Giáo hội cũng tiến hành một cuộc điều tra để xem rõ thực hư. Thủ tục đó rất mất thì giờ. Lâm thời, non gái...”

“Thế cha không thể tự mình hành lễ đuổi quỷ được sao?” Nàng khẩn khoản, làn môi dưới nàng bắt đầu run rẩy. Mắt nàng đẩm lệ.

“Coi kìa, linh mục nào cũng có quyền năng đuổi quỷ hết, nhưng ông ta cần phải được sự chấp thuận của Giáo hội đã, và thành thật mà nói, giáo hội hiếm khi nào chuẩn y việc đó, cho nên...”

“Cả đến nhìn con bé một chút, cha cũng không được phép sao?”

“Ồ, xét trên cương vị một bác sĩ tâm thần thì được chứ, tôi có phép chứ, thế nhưng...”

“Con bé cần một linh mục!” Chris chợt la lên, nét mặt lại nhúm nhó đầy giận hoảng và sợ sệt. “Tôi đã đưa nó đến tất cả những tên bác sĩ, những chuyên gia tâm thần học chó đẻ, khốn kiếp trên thế giới và bọn đó đẩy tôi đến tìm cha, vậy mà bây giờ cha lại đẩy tôi đến bọn chúng!”

“Nhưng con gái của...”

“Ôi Chúa, sẽ không còn ai giúp đỡ tôi sao?” TIếng hét đứng tim ấy lanh lãnh trên mặt sông. Lũ chim giật mình tung cánh bay phần phật lên khỏi hai bên bờ. “Ôi Chúa ơi, phải có ai đó giúp đỡ tôi chứ!” Chris than vãn lúc nàng gục người vào ngực cha Karras mà bần bật thổn thức. “Xin hãy cứu giúp tôi! Hãy cứu giúp! Làm ơn! Giúp...”

Vị tu sĩ Dòng Tên cúi nhìn nàng, ông nâng đôi tay an ủi lên đỡ đầu nàng trong khi các khách ngồi xe trên dòng lưu thông nghìn nghịt qua cầu nhìn họ qua cửa xe với vẻ thờ ơ, lãnh đạm.

“Được rồi”, Karras thủ thỉ lúc ông vỗ về vai nàng. Ông chỉ muốn trấn an nàng, chiều ý nàng, đẩy lùi cơn kinh loạn của nàng. “... Con gái tôi?” Chính cô ta mới là người cần đến sự giúp đỡ của một bác sĩ tâm thần. “Được rồi, tôi sẽ đến thăm cô bé”, ông bảo nàng. “Tôi sẽ đến thăm cô bé”.

Trong yên lặng, ông đến gần ngôi nhà ấy cùng với nàng, cùng với một cảm giác bâng khuâng về một cái gì không thật, cùng với những ý nghĩ về bài giảng ngày hôm sau của ông tại trường Y khoa thuộc Viện Đại học Georgetown. Ông vẫn chưa sửa soạn những ghi chú cần thiết cho bài giảng.

Họ leo lên khoảng sân trước nhà. Karras nhìn xuống con phố dến Khu Cư xá Dòng Tên và ông nhận ra là mình đã lỡ mất bữa ăn tối. Lúc đó là sáu giờ kém mười lăm phút. Ông nhìn Chris tra chìa khóa vào ổ. Nàng lưỡng lự quay lại nhìn ông. “Thưa cha... Cha nghĩ có cần phải mặc áo linh mục không?”

Giọng nói đó sao mà trẻ thơ, sao mà ngây ngô. “Quá nguy hiểm”, ông bảo nàng. Nàng gật đầu và khởi sự mở cửa. Chính lúc đó Karras mới cảm thấy một sự báo động níu kéo liên tục, lạnh buốt. Nó cồn cào suốt huyết mạch ông như những mảnh nước đá.

“Cha Karras?”

Ông ngước lên. Chris đã bước vào trong. Nàng đang giữ cánh cửa cho ông.

Trong một thoáng lưỡng lự, ông cứ đứng bất động, rồi thình lình ông quầy quả đi tới, bước vào trong ngôi nhà với một cảm giác kết thúc kỳ lạ.

Karras nghe thấy tiếng huyên náo. Trên lầu, một giọng sâu lắng vang rền đang văng ra những lời tục tĩu ầm ầm như sấm, những lời đe dọa trong cơn giận dữ, oán ghét và thất vọng.

Karras liếc nhìn Chris. Nàng đang nhìn ông đăm đăm trong câm nín. Rồi nàng tiến tới trước. Ông theo nàng lên lầu rồi xuôi hành lang đến phòng ngủ Regan, ở đó Karl dựa người vào tường đối diện ngay cánh cửa ra vào, đầu anh ta gục xuống trên đôi tay khoanh chặt. Lúc anh gia nhân chậm chạp ngước lên nhìn Chris. Karras trông thấy vẻ bối rối và nét sợ hãi trong đôi mắt anh. Giọng nói từ phòng ngủ này, ở mức độ gần sát như thế này, nó lớn cho đến nỗi nghe như thể đã được khuếch âm bằng điện tử. “Nó vẫn không muốn bị trói”, Karl bảo Chris bằng một giọng rạn vỡ, khiếp đảm.

“Tôi sẽ trở lại ngay, thưa cha”, Chris ảm đạm bảo vị linh mục.

Karras nhìn nàng bước xuôi hành lang, vào phòng ngủ riêng của nàng, rồi ông liếc nhìn Karl. Người Thụy Sĩ nhìn ông không rời.

“Ông là một linh mục?” Karl hỏi.

Karras gật đầu, rồi nhanh chóng nhìn lại cửa phòng Regan. Cái giọng thịnh nộ kia đã được thay thế bằng một tiếng rống the thé, dài hơi, của một loại thú nào đó mà rất có thể là một con bò tơ.

Một cái gì đó chọc vào tay ông. Ông nhìn xuống. “Con bé đấy”, Chris bảo, “Regan đấy”. Nàng đang trao cho ông một tấm ảnh. Ông cầm lấy. Một cô gái nhỏ. Rất xinh. Nụ cười dịu dàng.

“Tấm ảnh chụp cách đấy bốn tháng”. Chris nói, giọng tê dại. Nàng lấy lại tấm ảnh rồi hất đầu về phía cửa phòng ngủ đó. “Bây giờ cha hãy vào nhìn qua con bé một chút”. Nàng dựa vào tường, bên cạnh Karl. “Tôi sẽ đợi ở đây”.

“Có ai trong đó với cô bé không?” Karras hỏi nàng.

“Không ai cả”.

Ông chịu đựng tia nhìn chăm chăm của nàng rồi với một cái cau mày, ông quay lưng tiến về cửa phòng ngủ đó. Lúc ông nắm quả đấm cửa, những tiếng động bên trong chợt ngừng ngang. Trong cõi yên lặng, thoáng qua đó, Karras ngập ngừng, rồi chậm rãi bước vào phòng, gần như dội ngược lại trước mùi hôi thối nồng nặc của phân người rữa rã, nó phả thẳng vào mặt ông như một luồng khí lấy tay sờ thấy được.

Vội kềm hãm nỗi nhờm tởm, ông đóng cửa lại. Thế rồi đôi mắt ông khóa chặt, bàng hoàng vào vật vốn là Regan, vào cái sinh vật đang nằm ngửa trên giường, đầu tựa lên một chiếc gối trong khi đôi mắt lồi ra thao láo trong hai hốc sâu hoắm ánh lên với vẻ xảo quyệt điên cuồng và nét thông minh cháy bỏng, với vẻ chú ý và hận thù lúc chúng dán lấy ông, lúc chúng nhìn ông gườm gườm, sôi sục, trên một bản mặt đã khuôn thành một mặt nạ gớm ghiếc, trơ xương, cực tả một vẻ độc ác có sức bẻ gẫy tinh thần. Karras đáo tia nhìn về phía mái tóc rối bù bện thành từng tết dầy cộm, về phía đôi cẳng chân gầy mòn, bao tử phồng to gồ lên thật dị hợm, rồi lại quay trở về đôi mắt: chúng đang nhìn ông... ghim chặt ông... láo liên dõi theo lúc ông di chuyển đến một cái bàn và ghế cạnh cửa sổ.

“Chào Regan”, vị linh mục mở lời bằng giọng nồng hậu, thân ái. Ông nhấc chiếc ghế lên, đem đặt nó xuống cạnh giường.

“Tôi là bạn của mẹ cháu. bà cho tôi hay cháu không được khỏe lắm”. Ông ngồi xuống. “Cháu nghĩ sao? Cháu có muốn nói cho tôi nghe cháu đau yếu thế nào không? Tôi muốn giúp cháu”.

Đôi mắt đó ngời lên dữ dội không chớp, và một dòng nước miếng vàng vọt nhễu ra bên khóe miệng, nhỏ xuống cằm. Thế rồi, đôi môi cô bé kéo căng thành một cái cười hung hiểm, thành một sự nhạo báng nhăn nhở.

“Chà, chà”. Regan nhìn hau háu với vẻ châm biếm, còn Karras dựng tóc gáy vì giọng nói có một âm vực trầm không thể tưởng tượng, ngùn ngụt nỗi đe dọa và sức mạnh. “Thì ra là mày... bọn đó đã phái mày đến! Chà, chúng tao cũng chẳng có gì để phải sợ mày cả”.

“Phải, đúng như thế. Tôi là bạn cháu mà. Tôi muốn giúp đỡ” Karras nói.

“Vậy thì, mày có thể tháo nới sợi dây này ra được đó”, Regan cất giọng ồm ồm. Cô bé giật mạnh hai cườm tay nên mãi lúc đó Karras mới nhận thấy là hai tay cô bé bị cột chặt bằng hai lần dây đai da.

“Dây buộc có làm cháu khó chịu không?”

“Hết sức. Chúng làm bực bội quá. Bực bội như địa ngục ấy”. Đôi mắt lóe sáng tinh quái với vẻ thích chí bí hiểm.

Karras trông thấy những vết cào xước trên mặt cô bé, những vết đứt trên môi, rõ ràng cô bé đã cắn đứt môi mình. “Tôi e là cháu có thể làm tổn thương mình đấy, Regan ạ!”

“Tao không phải là Regan”, cô bé quát tháo, vẫn với cái cười hung hiểm mà giờ đây đối với Karras nó có vẻ đã là nét đặc trưng cố hữu của cô bé. Mấy cái kẹp ngàm răng trên miệng cô bé trông mới thật là lạc điệu làm sao, ông nghĩ.

“Ô, ta hiểu. Bây giờ có lẽ ta nên làm quen với nhau đi, ta là Damien Karras”, vị linh mục tự giới thiệu. “Còn ngươi là ai?”

“Tao là quỷ”.

“À, tốt, tốt lắm”, Karras gật gù tán thưởng. “Bây giờ ta nói chuyện với nhau được rồi”.

“Tán gẫu chút chăng?”

“Nếu ngươi thích”.

“Rất bổ ích cho linh hồn. Tuy nhiên, mi phải thấy là tao không thể nói năng thoải mái được khi bị cột chặt trong mớ dây ràng này. Tao có thói quen nói là phải ra bộ”. Miệng Regan dãi nhớt chảy ròng ròng. “Mi biết đấy, tao ở La Mã lâu lắm mà, Karras thân ái ạ. Nào làm ơn cởi hộ dây trói coi!”

Thật là lời ăn tiếng nói và tư tưởng khôn ngoan trước tuổi quá sức, Karras trầm ngâm. Ông nghiêng người ra trước với vẻ quan tâm nghề nghiệp.

“Ngươi bảo ngươi là quỷ à?” ông hỏi.

“Tao bảo đảm với mi như vậy”.

“Thế tại sao ngươi không khiến cho mấy sợi dây ấy biến đi có được không?”

“Cái trò biểu diễn quyền năng ấy hết sức thô lậu, Karras ạ. Quá sức thô thiển. Dù gì đi nữa tao cũng là một ông hoàng mà!” Một tiếng cười khúc khích. “Tao thích sự thuyết phục hơn, Karras ạ; sự đồng tình; sự tham gia có tính cách cộng đồng. Vả lại, nếu tao tự cởi dây trói thì bạn ạ, tao đã khước từ mi cái dịp thi thố một hành vi bác ái đấy”.

“Nhưng mà một hành vi bác ái”, Karras nói “là một đức tính và đó chính là điều mà quỷ muốn ngăn trở, do đó trên thực tế, nếu lúc này ta không muốn cởi dây trói cho ngươi, đích thị là ta đang giúp ngươi đó. Dĩ nhiên, trừ phi”, ông nhún vai, “ngươi không phải là quỷ thật thì không kể. Nếu trong trường hợp đó, ta sẽ cởi dây trói cho ngươi được”.

“Mi cáo lắm, Karras ạ. Phải chi gã Herod thân mến có mặt ở đây để thưởng thức chuyện này”.

“Herod nào?” Karras nheo mắt lại, hỏi. Có phải cô bé này đang chơi chữ với sự tích Đấng Ki-tô gọi Herod là “loài chồn cáo” chăng? “Có đến hai Herod đấy nhé. Có phải ngươi đang nói về vua dân Judea không đó?”

“Quan Tổng đốc xứ Galilee cơ!” Cô bé đốp chát vào mặt ông với nỗi giận dữ và niềm khinh bỉ ngun ngút, rồi bất chợt cô bé lại toét miệng cười, lại phỉnh phờ bằng cái giọng nham hiểm cũ. “Kìa, mi có thấy rằng những sợi dây ràng khốn kiếp này nó làm tao khó chịu đến mức nào không chứ? Tháo chúng ra đi. Tháo chúng ra rồi tao sẽ nói chuyện tương lai cho mi nghe”.

“Rất ư là cám dỗ”.

“Sở trường của tao mà”.

“Thế nhưng, ta làm sao biết được là ngươi có thể đọc được tương lai?”

“Ta là quỷ mà”.

“Ừ, thì ngươi nói thế, nhưng ngươi có cho ta xem chứng cớ nào đâu”.

“Mi không có đức tin”.

Karras cứng hẳn người. “Tin gì kia?”

“Tin tao, Karras thân mến ạ. Tin tao đây này!” Một vẻ gỉ đó chế giễu và ma mãnh, ngầm nhảy múa trong đôi mắt kia. “Tất cả những chứng cớ này, tất cả những dấu lạ ở trên trời này!”

“Được rồi, bây giờ chỉ cần một điều hết sức đơn giản là có thể chứng minh được”, Karras đề nghị. “Chẳng hạn như ma quỷ biết tất cả mọi sự, đúng?”

“Không, hầu hết tất cả thôi, Karras ạ - hầu hết - Mi thấy không? Người ta cứ lải nhải rằng tao kiêu ngạo. Tao không hề! Nào, bây giờ thì mi định giở trò gì đây, đồ chồn cáo kia?” Đôi mắt vàng vọt, sòng sọc gân máu kia long lanh thật xảo quyệt.

“Ta cho là chúng ta có thể trắc nghiệm tầm hiểu biết của ngươi”.

“À, phải! cái hồ lớn nhất ở Nam Mỹ”, Regan giễu cột, đôi mắt lồi ra với vẻ khoái hoạt, “là hồ Titicaca ở Peru. Thế được chưa?”

“Chưa được, ta còn phải hỏi một điều chỉ có quỷ mới biết. Chẳng hạn như: Regan đâu? Ngươi biết không?”

“Nó đây”.

“Đây là đâu?”

“Trong con heo này”.

“Cho ta xem cô bé đi”.

“Lý do?”

“Lý do ư? Thì để chứng tỏ rằng ngươi nói với ta sự thật”.

“Mi muốn chơi con nhỏ đó hả? Cứ cởi trói rồi tao sẽ cho mi làm thịt nó!”

“Cho ta xem cô bé đi”.

“Con nhỏ nước nôi ướt át lắm”, Regan liếc mắt đểu cáng, cái lưỡi thè ra đầu tưa cáu cứ liếm láp nước dãi trên đôi môi khô nẻ. “Nhưng lại là một đứa nói chuyện tồi, bạn ạ. Tao nồng nhiệt khuyên mi nên ở lại đây với tao”.

“Hừ, rõ ràng là ngươi không hề biết cô bé ở đâu cả” - Karras nhún vai - “cho nên hiển nhiên ngươi không phải là quỷ”.

“Phải mà!” Regan rống lên, người chợt rấn về phía trước, gương mặt cô bé nhúm nhó vì giận hoảng. Karras run rẩy trước giọng nói khủng khiếp, đầy khắp, nó cứ oang oang, chấn động, vang rền khắp các tường phòng. “Ta là quỷ mà!”

“Được rồi, thế thì cho ta thấy Regan đi”, Karras nói. “Như thế sẽ chứng tỏ được lời ngươi”.

“Tao sẽ cho mi thấy? Tao sẽ đọc được ý nghĩ mi!” Nó sục sôi giận hoảng. “Mi cứ nghĩ đến một con số nào trong phạm vi từ một đến mười đi”.

“Không, điều đó không chứng tỏ được gì hết. Ta phải thấy Regan cơ”.

Chợt nó cười khúc khích, ngã người ra sau dựa vào đầu giường. “Không, sẽ không có điều gì chứng tỏ cái chi với mi hết, Karras à. Tuyệt thật! Thật hết sức tuyệt vời! Lúc này chúng ta sẽ cố gắng giúp mi tiêu khiển cho ra trò. Suy cho cùng thì, chúng ta cũng không muốn mất mi”.

“Chúng tao là ai?” Karras thăm dò với sự quan tâm nhanh chóng, bén nhạy.

“Chúng tao là một đám đông ra trò ở trong con heo con này”, nó nói, gật gù. “Ờ, đúng vậy, đúng là một đám đông cơ man vô số. Có lẽ sau này rồi tao sẽ nghĩ đến chuyện giới thiệu cho nghiêm chỉnh tất cả. Lâm thời, tao đang bị ngứa muốn điên lên ở một chỗ tao không với tới được. Mày giúp cởi trói cho tao một lát, được không, Karras?”

“Không được, ngươi cứ bảo cho ta biết chỗ ngứa, ta sẽ gãi cho”.

“Chà, láu cá thật, rất là láu cá!”

“Cứ cho ta thấy Regan đi, may ra ta sẽ cởi cho một dây trói”, Karras đề nghị. “Nếu...”

Thình lình, ông co rúm người lại trong nỗi khiếp đảm lúc bắt gặp mình đang chăm chăm nhìn vào đôi mắt đong đầy nỗi khủng khiếp, vào chiếc miệng đang há hốc ra trong một tiếng thét kêu cứu không thành lời.

Nhưng sau đó, nhân dạng của Regan nhanh chóng tan biến ra, những đường nét cũ được khuôn đúc lại thật chớp nhoáng. “Mi cởi dây trói ra cho tao được rồi chứ?” một giọng dỗ ngon dỗ ngọt cất lên hỏi bằng thứ phát âm nuốt bớt tiếng của người Anh.

Trong chớp nhoáng, nhân cách của quỷ lại trở về. “Xin cha hãy giúp đỡ cho một thằng bé giúp lễ ngày xưa, cha ơi!” Nó ồm ồm nói, rồi ngã ngớn đầu ra sau mà cười khằng khặc.

Karras ngồi chết trân, cảm thấy những bàn tay giá băng chạm vào gáy ông một lần nữa, lần này rõ ràng hơn, quả quyết hơn. Cái vật-Regan kia phá lên cười khanh khách và nhìn xoáy lấy ông bằng đôi mắt quở trách.

“Ngẫu nhiên mà mẹ của mi cũng có ở đây với chúng tao đó, Karras à. Mi có muốn nhắn gởi gì không? Ta sẽ chuyển lời hộ đến mụ ấy cho”. Kế đó, Karras chợt né tránh một luồng nôn mửa vọt ra như suối, ông nhảy bật ra khỏi ghế. Chất nôn mửa dây một mảng trên áo len ông và dính trên một bàn tay ông.

Mặt không còn chút máu, vị linh mục nhìn xuống giường. Regan cười khằng khặc khoái chí tử. Bàn tay ông nhễu chất nôn mửa xuống thảm. “Nếu đúng như thế”, vị linh mục nói mà người lạnh cóng, “Thì hẳn ngươi phải biết tên mẹ ta chứ. Tên gì nào?”

Cái vật-Regan nhìn ông mà huýt như rắn, đôi mắt điên loạn long lanh, đầu khẽ lượn vòng như đầu rắn hổ mang.

“Tên gì nào?”

Như một con bò tơ, Regan rống lên giận dữ, chát chúa, tiếng rống xuyên qua những cánh cửa chớp, rung chuyển cả lớp kính trên cửa sổ lớn. Đôi mắt trợn ngược hẳn lên.

Trong một lúc, Karras cứ nhìn lúc tiếng rống tiếp tục, sau đó, ông nhìn tay mình rồi bước ra khỏi phòng.

Chris nhanh chóng bật người ra khỏi chỗ tường nàng đang dựa, đau đớn nhìn chiếc áo len của vị linh mục Dòng Tên. “Có chuyện gì vậy? Con bé nôn mửa à?”

“Có khăn lau không?” Ông hỏi nàng.

“Có phòng tắm ở ngay đây ạ!” Nàng vội nói, chỉ một cánh cửa trên lối hành lang. “Karl, trông chừng con bé nhé!” Nàng dặn dò, rồi theo vị linh mục đến phòng tắm.

“Cô có cho cháu bé dùng thuốc an thần không?” ông hỏi.

Chris mở vòi nước. “Có ạ, Librium. Nào, cha cởi áo len ra đi rồi mới rửa ráy được chứ”.

“Liều lượng thế nào?” Ông hỏi nàng, vừa kéo chiếc áo len bằng tay trái còn sạch của mình.

“Nào, để tôi giúp cha”. Nàng nắm lấy gấu áo kéo ngược lại. “Vâng, hôm nay con bé đã dùng đến 400 miligam, thưa cha?”

“Bốn trăm?”

Nàng đã lôi chiếc áo len đến ngang ngực ông. “Vâng, bằng cách đó chúng tôi mới trói nó lại bằng mấy sợi dây da được. Phải tận dụng cả bốn người chúng tôi mới..”

“Cô đã chích cho cháu 400 miligam một lúc à?”

“Nào, đưa thẳng hai tay lên, cha”. Ông đưa tay lên và nàng khẽ giật. “Nó mạnh đến nỗi cha không thể tưởng tượng được đâu”.

Nàng kéo màn che chỗ tắm hoa sen ra, ném chiếc áo vào bồn tắm. “Tôi sẽ bảo Willie giặt sạch cho cha, thưa cha. Tôi rất tiếc”.

“Có gì đâu. Chẳng hề gì”. Ông cởi nút áo tay phải của chiếc sơ mi trắng hồ cứng rồi sắn tay áo lên, để lộ một mảng lông tơ màu nâu trên cánh tay lực lưỡng, phồng căng.

“Tôi rất tiếc”. Chris lặng lẽ lập lại, thong thả ngồi xuống trên thành bồn tắm.

“Con bé có ăn uống gì không?” Karras hỏi. Ông giữ bàn tay dưới vòi nước nóng để giũ sạch chỗ nôn mửa.

Nàng cứ vò, rồi lại buông tấm khăn lau từng chập. Chiếc khăn màu hồng, hàng chữ tên Regan thêu màu lam. “Không, thưa cha. Chỉ có tiếp chất Sustagen lúc nó ngủ thôi. Nhưng nó lại rứt ống truyền ra ngoài”.

“Rứt ra à?”

“Hôm nay đấy”.

Băn khoăn, Karras xoa xà phòng rồi rửa tay. Sau một lúc yên lặng, ông nói một cách nghiêm trọng. “Cần phải đưa cô bé vào bệnh viện”.

“Tôi không thể làm điều đó được”, Chris trả lời bằng giọng thẩn thờ.

“Tại sao không?”

“Tôi không thể làm việc đó được!” Nàng lặp lại với vẻ xao xuyến run run. “Tôi không thể để cho bất cứ ai khác dính líu vào! Con bé...” Chris gục đầu xuống. Hít sâu. Thở ra. “Con bé đã làm một chuyện gì đó, thưa cha. Tôi không dám liều để cho một ai khác khám phá ra. Bác sĩ cũng không... điều dưỡng cũng không...” Nàng ngước lên. “Không một ai hết”.

Cau mày, ông khóa vòi nước lại. “Nếu có một người nào đó, cứ cho là một phạm nhân đi...” Ông cúi thấp đầu, nhìn đăm đăm vào bồn rửa. “Ai truyền dung dịch Sustagen cho cô bé? Chích Librium? Cho dùng các loại thuốc men khác?”

“Chúng tôi. Bác sĩ của con bé đã hướng dẫn cho chúng tôi cách thức”.

“Cô cần phải có toa thuốc”.

“Vâng, thì cha có thể ra toa được mà, phải không, thưa cha?”

Karras quay sang nàng, hai tay ông giơ lên trên bồn rửa như một nhà phẫu thuật sau khi rửa ráy. Trong một thoáng, ông bắt gặp tia nhìn khắc khoải của người phụ nữ, cảm thấy một nét bí nhiệm khủng khiếp trong đôi mắt ấy, một vẻ sợ hoảng. Ông gật đầu về phía tấm khăn nàng đang cầm. Nàng cứ nhìn đăm đăm, đờ đẫn. “Làm ơn cho tôi xin chiếc khăn”, ông nói nhỏ nhẹ.

“Ồ, tôi xin lỗi!” Rất nhanh nàng lúi dúi chiếc khăn cho ông, vẫn còn nhìn ông với vẻ kỳ vọng căng thẳng. Vị linh mục lau tay. “Sao, thưa cha, cha thấy cơn chứng đó giống cái gì?” Rốt cuộc, Chris hỏi ông. “Cha có nghĩ con bé bị quỷ ám không?”

“Thế còn cô?”

“Tôi không biết nữa. Tôi cứ ngỡ cha là một chuyên gia”.

“Cô biết được bao nhiêu về vấn đề quỷ ám?”

“Chỉ chút ít nhờ đọc sách. Một đôi điều nhờ các bác sĩ cho biết”.

“Các bác sĩ nào?”

“Ở y viện Barringer”.

Ông gấp tấm khăn rồi cẩn thận máng nó lên thanh treo. “Cô có phải tín đồ Công giáo không?”

“Không”.

“Con gái cô?”

“Không”.

“Cô theo tôn giáo nào?”

“Không theo tôn giáo nào cả, nhưng tôi...”

“Thế thì tại sao cô lại đến tìm tôi? Ai bảo cô?”

“Tôi đến vì tôi đã cùng đường rồi!” Nàng buộc miệng, đầy kích động. “Chẳng ai bảo tôi cả!”

Ông đứng quay lưng lại nàng, mấy mép khăn vẫn còn khẽ vướng trong tay ông. “Trước đây cô có nói là các bác sĩ tâm thần khuyên cô đến tìm tôi mà”.

“Coi kìa, tôi có quan tâm gì đến động cơ thúc đẩy cô đâu”. Ông trả lời với một cường độ đã được thận trọng gia giảm. “Tất cả mối quan tâm của tôi là làm gì có ích nhất cho con gái cô. Nhưng tôi xin thưa ngay với cô bây giờ, rằng nếu như cô đang mưu gì tìm một lễ đuổi quỷ xét như thể một phương thức trị liệu cơn sốc bằng tự kỷ ám thị, thì tốt hơn cô nên gọi điện thoại cho Trung Tâm Chuyên Trách Các Vấn Đề Tâm Thần, thưa cô MacNeil, chứ còn Giáo Hội sẽ không chấp nhận chuyện đó và cô chỉ phí thời giờ quý báu của cô vô ích thôi”. Karras bấu vào thanh máng khăn để kềm đôi tay run rẩy của ông. Có gì trục trặc đây? Chuyện gì xảy ra vậy?

“Tiện thể cũng xin nhắc, tôi là bà MacNeil”, ông nghe giọng Chris bảo ông, khô khốc.

Ông cúi đầu, dịu giọng lại. “Coi kìa, dù đó có là quỷ hay là chứng rối loạn thần kinh đi nữa, thì tôi cũng sẽ làm tất cả mọi sự trong khả năng để giúp đỡ mà. Nhưng tôi cần phải nắm vững sự thật. Điều đó quan trọng cho Regan. Lúc này, tôi đang dọ dẫm trong trạng thái mù tịt, dốt nát, điều đó không có gì là siêu nhiên hay dị thường đối với tôi, đơn giản đó chỉ là tình trạng thông thường của tôi thôi. Nào, bây giờ tại sao ta lại không thể rời phòng tắm rồi xuống thang gác mà nói chuyện có được không?” Ông đã quay trở lại nàng với một nụ cười khẽ khàng, nồng ấm đầy vẻ khích lệ, rồi đưa tay ra để đỡ nàng lên. “Tôi có thể uống một tách cà phê”.

“Tôi có thể làm một ly rượu”.

Sưu tầm: Casau
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 22 tháng 6 năm 2014