← Quay lại trang sách

QUÝ ÔNG ĐÁNH CƯỢC LONDON, THÁNG MƯỜI 1873

Đêm nay là buổi cuối của một đợt công diễn khá ngắn ngủi. Lâu nay Prospero Người Mê Hoặc không bỏ bùa sân khấu London, và vé đặt chỉ cho một tuần biểu diễn, không có suất diễn buổi chiều.

Vé có giá cao ngất trời nhưng đã bán hết veo, và nhà hát chật kín người, nhiều phụ nữ cầm quạt phe phẩy trước ngực để xua bớt cái nóng đặc quánh, dù bên ngoài tiết trời thu đã lạnh.

Một khoảnh khắc trong buổi biểu diễn, từng chiếc quạt nhỏ ấy bỗng biến thành chim, cho đến khi cả một đàn chim khiến nhà hát vỡ òa trong hàng tràng vỗ tay liên tiếp. Khi mỗi con chim trở lại là chiếc quạt gấp gọn, nhẹ nhàng đáp xuống lòng đúng người chủ của mình, tiếng vỗ tay còn giòn giã hơn nữa, dù vài người quá sững sờ chẳng vỗ tay nổi, cứ trầm trồ lật đi lật lại chiếc quạt lông vũ trong tay, chẳng còn để tâm đến cái nóng nữa.

Một người đàn ông mặc bộ vét xám ngồi ở lô bên phía trái sân khấu chẳng mảy may vỗ tay. Không tán thưởng tiết mục ấy, cũng như bất cứ tiết mục nào khác trong suốt đêm diễn. Toàn bộ thời gian, ông ta quan sát người đàn ông trên sân khấu bằng ánh mắt từ tốn và không để sót chi tiết nào. Không một lần nào ông ta đưa bàn tay đi găng lên vỗ. Thậm chí ông ta cũng chẳng buồn nhướng mày trước những pha xuất sắc khiến khán giả đồng loạt vỗ tay hay há hốc miệng kinh ngạc, hoặc trước những tiếng kêu đầy thảng thốt thỉnh thoảng vút lên từ những khán giả đang say sưa theo dõi.

Sau khi buổi biểu diễn kết thúc, người đàn ông mặc đồ xám thong thả đi qua đám đông khán giả ở hành lang nhà hát. Ông ta lách qua một tấm rèm, mở cánh cửa dẫn vào phòng thay đồ ở hậu trường mà không ai hay biết. Những người phụ trách đạo cụ và phục trang chẳng mấy để mắt đến ông ta.

Ông ta gõ cánh cửa ở cuối gian sảnh bằng đầu bịt bạc của chiếc ba-toong.

Cánh cửa mở ra, dẫn vào một phòng thay đồ chật chội với gương treo khắp xung quanh, mỗi cái phản chiếu một góc của Prospero.

Áo đuôi tôm của ông vứt bừa trên ghế bành bọc nhung, gi-lê không cài khuy khoác ngoài áo sơ-mi tua rua. Cái mũ chóp cao, vật nổi bật trong buổi biểu diễn, được đặt trên giá treo mũ bên cạnh.

Khi đứng trên sân khấu người đàn ông đó trông trẻ hơn, tuổi tác được vùi lấp trong ánh đèn và dưới những lớp trang điểm. Khuôn mặt trong gương giờ đã có nếp nhăn, và mái tóc đã chuyển màu muối tiêu rõ rệt. Nhưng vẫn còn nét tươi trẻ trong nụ cười giãn ra khi Prospero nhác thấy người đàn ông đứng ở ngưỡng cửa.

“Anh không thích phải không?” ông hỏi mà không rời mắt khỏi gương, chỉ nói với hình dáng màu xám phản chiếu như một bóng ma trong gương. Ông tẩy trang phần lớn phấn trên mặt bằng chiếc khăn tay chắc trước đây có màu trắng.

“Hân hạnh được gặp anh, Hector,” người đàn ông mặc đồ xám nói, lặng lẽ đóng cánh cửa phía sau lại.

“Dám chắc rằng anh dị ứng đến từng phút một,” Hector Bowen vừa nói vừa cười lớn. “Tôi đã để ý đấy nhé, cho nên không phải chối.”

Ông quay lại và chìa một tay ra nhưng người đàn ông mặc đồ xám không bắt. Đáp lại, Hector nhún vai và vẫy mạnh mấy ngón tay, chỉ hướng bức tường đối diện. Chiếc ghế bành nhung trượt ra từ một góc đầy ních những hòm xiểng và khăn quàng, trong khi đó tấm áo đuôi tôm lơ lửng bay lên khỏi ghế như một cái bóng, ngoan ngoãn tự mắc mình vào tủ áo.

“Mời ngồi,” Hector nói. “Nhưng e là không êm ái bằng mấy cái ghế ở gác trên đâu.”

“Không thể nói rằng tôi hưởng ứng mấy màn đó,” người đàn ông mặc đồ xám nói, tháo găng tay và dùng nó phủi bụi trên ghế trước khi ngồi. “Phô diễn phép thuật dưới hình thức những trò ảo thuật và đánh lừa thị giác. Bán vé thu tiền.”

Hector giũ chiếc khăn tay đầy phấn lên mặt bàn lộn xộn những cây cọ và phấn mỡ trang điểm.

“Không ai trong đám khán giả có một giây một khắc nào tin những điều tôi làm trên sân khấu là thật,” ông nói, khoa chân múa tay làm động tác về hướng sân khấu. “Cái đẹp của nó nằm ở đấy. Anh có thấy những thứ đạo cụ mà đám ảo thuật gia vẫn tạo tác để thực hiện được những mánh chán òm chưa? Họ chỉ như một nhúm cá khoác lên mình bộ lông vũ rồi cố huyễn hoặc công chúng rằng họ có thể bay được, còn tôi đơn giản đúng là một con chim trong số đó. Khán giả chẳng thể nhận ra điều gì khác biệt ngoại trừ trầm trồ rằng tôi là người giỏi hơn.”

“Điều đó chẳng khiến sự việc bớt nhảm nhí.”

“Những người đó xếp hàng để được mê hoặc,” Hector nói. “Tôi có thể mê hoặc họ dễ dàng hơn những người khác. Cứ để cơ hội trôi qua thì kể cũng phí. Thêm nữa kiếm được khá hơn anh nghĩ đấy nhé. Tôi mời anh một ly được chứ? Có mấy chai găm đâu đó quanh đây, nhưng không chắc là có ly đâu nhé.” Ông lục tìm đống tạp nham trên một cái bàn, gạt sang bên một mớ báo chí và cái lồng không chim.

“Thôi, cảm ơn,” người đàn ông mặc đồ xám đáp, thay đổi tư thế ngồi trên ghế và đặt hai tay lên cán cây gậy chống. “Tôi thấy màn diễn của anh gây tò mò, và phản ứng của khán giả có chút gì đó bối rối. Anh thiếu sự chính xác.”

“Nếu muốn khán giả tin rằng tôi cũng chỉ là đồ lừa bịp thì không thể quá tinh tế được,” Hector nói và cười lớn. “Cảm ơn anh đã đến và chịu đựng buổi biểu diễn của tôi. Ngạc nhiên là anh còn tái xuất cơ đấy, tôi đã suýt hết hy vọng. Tôi đã đặt lô ghế ấy riêng cho anh trong cả tuần rồi.”

“Tôi thường không từ chối những lời mời. Trong thư anh viết có một đề nghị dành cho tôi.”

“Đúng thế!” Hector đáp, hai tay đưa nhanh vỗ đánh “bốp” một cái. “Hy vọng anh có thể tham gia cuộc chơi. Đã quá lâu rồi kể từ khi ta cùng chơi. Nhưng trước hết, anh phải gặp công trình mới của tôi đã.”

“Tôi cứ ngỡ anh đã thôi, không dạy dỗ gì nữa chứ.”

“Đã từng như vậy, nhưng đây là cơ hội duy nhất mà tôi không thể cưỡng lại được.” Hector tiến về phía cánh cửa hầu như bị che khuất sau một tấm gương đứng dài. “Celia, con yêu,” ông gọi vọng vào căn phòng liền kề rồi quay về ghế.

Lát sau, một cô bé con xuất hiện ở ngưỡng cửa, ăn mặc diêm dúa trái ngược hẳn với những thứ lem nhem bát nháo xung quanh. Tất cả các món ruy-băng và dây buộc đều hoàn hảo như một cô búp bê vừa mới được mua về, chỉ trừ mấy lọn tóc quăn bất trị nhoi ra khỏi bím tóc. Khi thấy không chỉ có mình bố, cô bé lưỡng lự, nấn ná ở ngưỡng cửa.

“Không sao đâu cưng. Lại đây, lại đây nào,” Hector nói, vẫy tay ra hiệu. “Chú này là cộng sự của bố, con không phải xấu hổ nhé.”

Cô bé bước vài bước lại gần và nhún chân chào, điệu bộ uyển chuyển không chê vào đâu được, gấu váy tua rua khẽ chạm xuống ván sàn cũ mòn.

“Đây là con gái tôi, Celia,” Hector nói với người đàn ông mặc đồ xám trong khi đặt tay lên đầu cô bé. “Celia, đây là chú Alexander.”

“Cháu chào chú ạ,” cô bé nói, giọng nhẹ như một lời thì thầm, và trầm hơn một chút so với một bé gái ở độ tuổi này.

Người đàn ông mặc đồ xám lịch sự gật đầu.

“Bố muốn con cho chú xem con biết làm những gì,” Hector nói, lấy cái đồng hồ quả quýt bằng bạc có sợi dây đeo dài từ túi áo gi-lê ra và đặt lên bàn. “Nào, con làm xem nào.”

Cô bé tròn mắt:

“Bố đã bảo con không được làm trước mặt người khác cơ mà. Bố còn bắt con hứa.”

“Chú này không phải là người khác,” Hector bật cười.

“Bố còn bảo không có ngoại lệ cơ mà,” Celia vẫn phản đối.

Nụ cười vụt tắt trên môi ông bố. Ông nắm lấy hai vai cô con gái và nghiêm khắc nhìn vào mắt con, nói:

“Đây là trường hợp rất đặc biệt. Hãy biểu diễn cho chú ấy xem con có thể làm được gì, như con đã học ấy.” Ông bố đẩy cô bé về phía cái bàn có chiếc đồng hồ.

Cô bé lặng lẽ gật đầu và tập trung chú ý vào chiếc đồng hồ, hai tay chắp sau lưng.

Thoáng chốc sau, chiếc đồng hồ bắt đầu chậm chạp xoay, di chuyển theo quỹ đạo tròn trên mặt bàn, kéo theo sợi dây đeo chuyển động theo đường xoáy trôn ốc. Rồi chiếc đồng hồ bay lên khỏi mặt bàn, lơ lửng trong không trung và chòng chành như thể có lực cản của nước.

Hector nhìn sang người đàn ông mặc đồ xám xem ông ta phản ứng ra sao.

“Ấn tượng đấy, nhưng vẫn còn sơ đẳng,” người đàn ông nhận xét.

Chân mày Celia nhíu lại trên đôi mắt sẫm màu, và chiếc đồng đồ vỡ tan, những bánh răng bắn tung vào không khí.

“Celia,” người cha gọi giật.

Cô bé đỏ bừng mặt trước âm sắc lạnh trong giọng nói của bố, liền lầm bầm xin lỗi. Những bánh răng bay ngược trở lại cái đồng hồ, ráp lại vào vị trí cho đến khi nguyên vẹn như ban đầu, các kim đều đều nhích từng giây như chưa hề có chuyện gì xảy ra.

“Giờ đã có chút ấn tượng hơn,” người đàn ông mặc đồ xám thừa nhận. “Nhưng con bé hơi nóng nảy.”

“Nó còn nhỏ,” Hector nói, vuốt đỉnh đầu Celia và tảng lờ đôi mày cô bé đang nhíu lại. “Vả lại học còn chưa được một năm, đến khi nào trưởng thành thì không ai sánh bằng nó đâu.”

“Tôi có thể kiếm đại đứa trẻ nào đó ngoài đường và dạy nó làm được tương tự. Không ai sánh bằng chỉ là cách nghĩ chủ quan của anh thôi, và có thể dễ dàng bị chứng minh là nhầm.”

“Ha!” Hector thốt lên. “Vậy là anh bằng lòng chơi.”

Người đàn ông mặc đồ xám thoáng lưỡng lự rồi gật đầu. “Có chút thách thức hơn lần trước, được, có thể tôi sẽ hứng đấy. Có khả năng.”

“Tất nhiên là thách thức hơn nhiều chứ!” Hector nói. “Tôi có sẵn một thiên tài đây. Tôi không đánh cược điều đó với những thứ tầm thường đâu.”

“Thiên tài là một hiện tượng còn phải bàn cãi. Thiên hướng thì có thể, nhưng tài năng thiên bẩm thì cực kỳ hiếm.”

“Nó là con đẻ của tôi, tất nhiên phải có tài năng thiên bẩm rồi.”

“Chính anh nói rằng con bé phải học,” người đàn ông mặc đồ xám phản bác. “Sao anh có thể dám chắc được?”

“Celia, con bắt đầu học từ bao giờ nhỉ?” Hector hỏi mà không nhìn con.

“Từ tháng Ba ạ,” cô bé đáp.

“Năm nào hả cưng?” Hector hỏi thêm.

“Năm nay ạ,” cô bé trả lời, dù đây đúng là một câu hỏi cực kỳ dẩm dớ.

“Tám tháng học,” Hector nhấn mạnh. “Chưa đến sáu tuổi đầu. Nếu tôi nhớ không nhầm, thỉnh thoảng anh cũng bắt đầu dạy học trò nhỏ hơn thế. Nếu không có khả năng thiên bẩm, rõ ràng là Celia không thể tiến bộ nhanh như vậy. Ngay từ lần thử sức đầu tiên, nó đã có thể nâng cái đồng hồ lên lơ lửng.”

Người đàn ông mặc đồ xám bắt đầu chú ý đến Celia. “Cháu vô tình làm vỡ phải không?” ông ta hỏi, hất đầu ý chỉ cái đồng hồ đang ở trên bàn.

Celia nhíu mày và đáp lại bằng cái gật đầu khẽ nhất có thể được.

“Con bé có khả năng kiểm soát rất tốt so với lứa tuổi non nớt này,” ông ta nhận xét với Hector. “Nhưng cái đầu nóng kiểu này luôn là biến rủi. Nó có thể dẫn đến hành động bột phát.”

“Nó sẽ phải trưởng thành vượt qua được hạn chế đó, hoặc sẽ phải học cách chế ngự bản thân. Đó chỉ là chuyện nhỏ thôi.”

Người đàn ông mặc đồ xám vẫn nhìn Celia không rời, nhưng khi nói thì hướng đến Hector. Đối với đôi tai của Celia, tiếng nói không còn là từ ngữ rõ ràng nữa, cô bé cau mày khi những câu trả lời của bố cô cũng chỉ là những thanh âm lộn xộn và khó tả.

“Anh muốn đánh cược chính con mình sao?”

“Nó sẽ không bại trận đâu,” Hector nói chắc nịch. “Tôi khuyên anh nên tìm một học trò mà anh có thể dằn lòng rời xa, nếu anh chưa có sẵn đứa nào đem ra thí được.”

“Tôi đồ chừng mẹ đứa bé không có ý niệm gì về việc này phải không?”

“Đoán mò đúng đấy.”

Người đàn ông mặc đồ xám cân nhắc thêm một lúc rồi nói, và lần này cô bé vẫn không hiểu được gì.

“Tôi hiểu anh tin vào năng lực của con bé, dù tôi vẫn cho rằng ít nhất anh cũng nên tính đến khả năng con bé sẽ thua trong trường hợp cuộc đấu diễn ra theo hướng bất lợi cho nó. Tôi sẽ tìm được một đấu thủ thực sự có thể thách thức con bé. Nếu không thì tôi chẳng có lý do gì để đồng ý tham gia cuộc chơi. Chiến thắng của con bé không phải đã nắm chắc trong tay rồi đâu.”

“Rủi ro đó tôi sẵn sàng đón nhận,” Hector nói mà không buồn liếc mắt nhìn con. “Nếu anh muốn chính thức nhập cuộc tại đây và vào lúc này, thì hãy bắt đầu đi.”

Người đàn ông mặc đồ xám ngoảnh nhìn Celia, và giờ cô bé đã có thể hiểu khi ông ta lên tiếng.

“Được thôi,” ông ta gật đầu.

Celia thì thầm khi bố cô bé quay lại: “Chú ấy làm con chẳng nghe được gì.”

“Bố biết, con yêu ạ, như thế chẳng lịch sự chút nào nhỉ,” Hector nói trong khi dẫn con gái đến gần chiếc ghế, nơi người đàn ông kia săm soi cô bé bằng đôi mắt xám nhạt như màu trang phục trên người ông ta.

“Cháu vẫn luôn làm được những việc như vậy phải không?” ông ta hỏi, đưa mắt nhìn lại chiếc đồng hồ.

Celia gật đầu, lặng lẽ đáp:

“Mẹ... mẹ bảo cháu là con của quỷ.”

Người đàn ông mặc đồ xám cúi xuống và thì thầm điều gì đó vào tai Celia, thấp giọng để bố cô bé không nghe được. Một nét cười khẽ sáng lên trên khuôn mặt cô bé. “Đưa tay phải ra,” ông nói và dựa lại vào ghế. Celia lập tức đưa tay ra, lòng bàn tay ngửa lên, không biết điều gì sẽ xảy ra. Nhưng người đàn ông mặc đồ xám không đặt gì vào tay cô bé. Thay vào đó, ông ta úp tay cô bé xuống và tháo một chiếc nhẫn bạc từ ngón tay út của mình ra. Ông lồng nó vào ngón tay đeo nhẫn của cô bé dù chiếc nhẫn quá rộng so với ngón tay mảnh dẻ. Tay kia của người đàn ông giữ lấy cổ tay Celia.

Cô bé toan mở miệng nói rằng chiếc nhẫn rất đẹp nhưng không vừa, thì chợt nhận ra nó đang co lại trên ngón tay mình.

Chưa kịp mừng rỡ thì Celia đã cảm thấy một cơn đau khi chiếc nhẫn tiếp tục thít lấy ngón tay, vòng kim loại nóng bỏng ăn vào da thịt. Cô bé vùng ra nhưng bàn tay người đàn ông mặc đồ xám giữ chặt quanh cổ tay cô.

Chiếc nhẫn mờ dần và lặn đi, chỉ để lại một vết sẹo đỏ nhạt trên ngón tay Celia.

Người đàn ông mặc đồ xám buông tay Celia ra và cô bé lùi lại, quay vào góc và chằm chằm nhìn xuống tay mình. Bố cô bé thì nói:

“Con gái ngoan lắm!”

Còn người đàn ông mặc đồ xám nói:

“Tôi cần chút thời gian chuẩn bị đấu thủ của mình.”

“Tất nhiên rồi,” Hector nói. “Cứ thong thả tìm đi.” Ông rút một chiếc nhẫn vàng từ tay mình và đặt lên bàn.

“Cái này để dành đến lúc nào tìm thấy.”

“Anh không muốn đích thân thực hiện nghi thức thiêng liêng đó sao?”

“Tôi tin anh mà.”

Người đàn ông mặc đồ xám gật đầu và rút khăn tay từ trong áo khoác ra, bọc lấy chiếc nhẫn bỏ vào túi áo mà không hề chạm vào nó.

“Hy vọng anh làm việc này không phải vì người của tôi đã thắng lần gần đây nhất.”

“Không hề,” Hector quả quyết. “Tôi nhập cuộc vì tôi có một đấu thủ có thể thắng được bất cứ ai anh chọn đối đầu với con bé, và bởi vì thời thế đã thay đổi đủ để chuyện này trở nên thú vị ra trò. Hơn nữa, tôi tin rằng kết quả chung cuộc ngả về phía tôi.”

Người đàn ông mặc đồ xám không phản bác lại, ông ta chỉ lặng lẽ quan sát Celia vẫn bằng ánh mắt thăm thẳm. Cô bé thử đi lại mấy bước để tránh đôi mắt đó nhưng căn phòng quá ư chật chội.

“Chắc trong đầu anh đã có sẵn một địa điểm thi đấu?” ông ta hỏi.

“Không hẳn,” Hector đáp. “Tôi nghĩ có lẽ sẽ vui hơn nếu có chút tự do khi lựa chọn địa điểm. Yếu tố bất ngờ, nếu anh sẵn lòng. Tôi quen một ông bầu sân khấu ở đây, tại London, ông này khoái đưa lên sàn diễn những gì bất thường. Đến lúc thích hợp, tôi sẽ rỉ ra vài chi tiết, và dám chắc rằng ông ta sẽ mang đến thứ gì đó đúng ý ta. Chơi ở sân trung lập thì tốt hơn, dù tôi biết có thể anh muốn khởi sự từ nơi mình thông thạo.”

“Quý ông đó tên là gì?”

“Lefèvre. Chandresh Christophe Lefèvre. Người ta đồn rằng ông ta là con rơi của một vị hoàng tử Ấn Độ hay gì gì đại loại thế. Mẹ ông ta là một ả vũ công nào đó. Tôi vứt danh thiếp của ông ta đâu như trong cái đống này. Anh sẽ thích ông ta, một người tư tưởng khá cấp tiến. Giàu có, lập dị. Hơi bị ám ảnh, có chút khó đoán, nhưng tôi cho rằng đó là một phần của phẩm chất nghệ sĩ.” Đống giấy tờ trên cái bàn gần đó loạt soạt bát nháo cho đến khi một tấm danh thiếp bắn xuống sàn và trượt ngang căn phòng. Hector bắt lấy nó trong tay, liếc mắt đọc trước khi trao cho người đàn ông mặc đồ xám. “Tay này mở tiệc linh đình lắm.”

Người đàn ông mặc đồ xám đút tấm danh thiếp vào túi mà không đọc, rồi nói:

“Tôi chưa nghe nhắc đến ông ta bao giờ. Và tôi cũng không khoái trưng những chuyện này ra trước thiên hạ. Tôi sẽ cân nhắc.”

“Vớ vẩn, thiên hạ chính là một nửa trò vui mà! Nó đồng nghĩa với có thêm rất nhiều giới hạn, rất nhiều gia số khó khăn mà ta phải vượt qua.”

Người đàn ông mặc đồ xám suy tư một lúc rồi gật đầu. “Ta có cần giao kèo sẽ công khai với nhau không nhỉ?

Như thế sẽ công bằng hơn, vì tôi đã biết anh chọn đấu thủ nào.”

“Chẳng cần giao kèo gì ngoài những nguyên tắc căn bản về can thiệp, và xem điều gì sẽ xảy ra,” Hector đáp. “Với lần này, tôi muốn gạt bỏ mọi ranh giới. Không giới hạn cả thời gian nữa. Thậm chí tôi sẽ nhường anh động thủ trước.”

“Hay đấy. Thỏa thuận thế. Tôi sẽ giữ liên lạc.” Người đàn ông mặc đồ xám đứng dậy, phủi thứ bụi vô hình khỏi tay áo. “Rất hân hạnh được gặp quý cô Celia.”

Celia một lần nữa nhún gối chào bằng động tác hoàn hảo, suốt lúc ấy vẫn luôn dè chừng quan sát ông ta.

Người đàn ông mặc bộ vét xám nhấc mũ chào Prospero và lách qua cửa, ra khỏi nhà hát và lướt đi như một cái bóng trên đường phố đông đúc.

*

TRONG PHÒNG THAY ĐỒ, Hector bật cười khùng khục một mình còn cô con gái vẫn lặng lẽ đứng ở góc phòng, nhìn vết sẹo trên tay mình. Cơn đau dịu đi nhanh như chiếc nhẫn đã tan biến, nhưng vết đỏ tươi vẫn còn đó. Hector cầm chiếc đồng hồ quả quýt bằng bạc từ trên bàn lên, so giờ với đồng hồ trên tường. Ông từ tốn lên giây, chăm chú quan sát kim đồng hồ quay tròn trên mặt. “Celia,” ông nói mà không ngước nhìn con, “sao ta lại phải lên giây đồng hồ?”

“Vì cái gì cũng cần năng lượng ạ,” cô bé đã ngoan ngoãn thuộc bài, mắt vẫn không rời bàn tay mình. “Ta phải dồn nỗ lực và năng lượng vào bất cứ thứ gì ta muốn thay đổi.”

“Giỏi lắm,” ông lắc nhẹ cái đồng hồ và bỏ lại vào túi áo.

“Sao bố lại gọi chú đó là Alexander?” Celia hỏi.

“Hỏi ngốc.”

“Không phải tên chú ấy mà.”

“Giờ sao con lại biết điều đó?” Hector hỏi con gái, nâng cằm cô bé lên và nhìn thẳng vào đôi mắt sẫm màu của con.

Celia mở to mắt nhìn lại, không biết phải giải thích thế nào. Trong đầu cô bé cứ lật đi lật lại ấn tượng về người đàn ông mặc bộ vét xám với đôi mắt sáng màu, dáng vẻ khắc nghiệt, và cố tư duy tại sao cái tên đó không ăn nhập gì với ông ta.

“Đó không phải là tên thật của chú ấy,” cô bé nói. “Không phải cái tên chú ấy luôn mang. Chỉ là một cái tên chú ấy mang như đội mũ, nếu muốn thì có thể không đội nữa. Như cái tên Prospero dành cho bố vậy.”

“Con còn xuất sắc hơn ta mong đợi đấy,” Hector thích thú, quên cả phủ nhận hay khẳng định những suy luận của cô bé về danh xưng của người đồng sự. Ông nhấc cái mũ chóp cao khỏi giá và đội lên đầu con, mũ sụp xuống như cái lồng lụa đen, che đi ánh mắt đầy thắc mắc của cô bé.